

Bích Khê
Tỳ bà
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Cây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi
Tôi qua tìm nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
Bài thơ này đặc biệt ở chỗ chỉ dùng thanh bằng. Bài thơ đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát cùng tên.
Theo nhóm biên soạn tập Thơ Bích Khê (Sở Văn hoá thể thao Nghĩa Bình xuất bản, 1988), thì bài thơ này được in chỉ có 4 khổ, so với bản chép tay của bà Lê Ngọc Sương, chị ruột của tác giả, còn lưu lại đầy đủ như ở trên thì còn thiếu các khổ 1, 3, 6, và sau chữ “Ô” ở khổ cuối có dấu chấm than: “Ô! Hay buồn vương…”
Nguồn:
1. Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 7: Văn học giai đoạn 1900-1945), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004
2. Kiều Văn, Thơ Bích Khê, NXB Đồng Nai, 1997
Vanhaiphong – Một số thông tin về Bích Khê
Bích Khê (1916-1946), tên thật là Lê Quang Lương; là một nhà thơ nổi tiếng thời Tiền chiến. Ngoài bút hiệu Bích Khê, ông còn ký bút hiệu Lê Mộng Thu.
Trong lời tựa tập thơ Tinh huyết của Bích Khê, Hàn Mặc Tử viết:
Ta có thể sánh văn thơ của Bích Khê như đóa hoa thần dị… Và đem phân chất, ta sẽ thấy thơ chàng gồm có ba tính cách khác nhau: Thơ tượng trưng, thơ huyền diệu và thơ trụy lạc…Sự điên cuồng ấy uyên nguyên ở một phần thiên tài, và ở một phần sự “Đau khổ”…
Theo Hoài Thanh và Hoài Chân thì Bích Khê có những câu thơ hay nhất Việt Nam, như:
Ô! hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông…
Hay:
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương…
Nhưng liền sau đó hai tác giả thú nhận:
Tôi chưa thể nói nhiều về Bích Khê. Tôi đã đọc không biết mấy chục lần bài Duy Tân. Tôi thấy trong đó những câu thơ thật đẹp. Nhưng tôi không dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó. Hình như vẫn còn gì nữa…Còn các bài khác hoặc chưa xem hoặc mới đọc có đôi ba lần. Mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc…
GS. Nguyễn Huệ Chi nhận xét:
Thơ Bích Khê mang rõ phong cách Trường thơ loạn. Và tính chất tượng trưng là đặc điểm quán xuyến toàn bộ thơ Bích Khê. Làm tăng tính chất tượng trưng ấy là màu sắc được sử dụng êm dịu, chói chang hay huyền ảo; và âm thanh tạo nên chất nhạc du dương cho khá nhiều bài. Tính tượng trưng đôi khi làm biến dạng hẳn cảm giác thực của người đọc và gây nên những ảo giác, khi tiếp xúc với đối tượng diễn tả của Bích Khê; cái chết rùng rợn thành hương sắc, khoái cảm xác thịt trở thành ghê gợn, và ngay cả màu sắc, âm thanh cũng không còn là màu sắc, âm thanh nữa mà trở nên hư hư, thực thực…Tuy nhiên, bút pháp tượng trưng đặc sắc và luôn tìm tòi cái mới ấy, vẫn không che giấu được hai nguồn cảm hứng thường trộn vào nhau và hằn rõ trong thơ Bích khê, đó là nhục cảm và cuồng loạn…