

Trần Thư Tân, Trường Đại học Đồng Tế- Phạm Thanh Cải dịch từ nguyên bản tiếng Trung.
Thơ là một loại tiếng nói đặc biệt, nó được coi như một thể loại văn học có hình thức và nội dung độc đáo. Thơ có nhịp và vần, vì vậy mọi người luôn coi thơ và ca có mối liên hệ lẫn nhau. Người ta cho rằng thơ ca là “ý tưởng có tính âm nhạc”, thậm chí còn coi là như nhau, cho rằng bài thơ là một bài ca, bài ca là một bài thơ. Ngoài ra, thơ là do các dòng ngắn đặt tiếp nhau mà thành. Một số dòng ngắn gộp thành một đoạn thơ. Các câu của văn xuôi viết liền nhau, một số câu tạo thành những đoạn khác nhau. Ngoài sự khác nhau về thể loại, ngôn ngữ của thơ đặc biệt đẹp và tinh tế. Thường thì một chữ, một câu thơ đã chứa đựng nhiều hình ảnh và sự liên tưởng vô tận. Ví dụ như Lý Thanh Chiếu viết “Người gầy hơn hoa cúc vàng” (*a), một từ “gầy” có ý là nỗi khổ biệt ly của nhà thơ, tâm trạng “vì người ấy mà hao gầy tiều tụy”(*b) được khắc họa rất tinh tế. Như Yeats đã dùng từ “gyre” (hồi chuyển), tiêu biểu cho toàn bộ hệ thống lý luận của ông về vận động mâu thuẫn của văn minh loài người và nhân tính hữu quan. Ví dụ như vậy không thể nêu ra từng cái một. Đọc thơ không chỉ đọc bằng lời của thơ, mà còn thấu suốt biểu tượng của lời, đọc ra ý nghĩa sâu xa chứa đựng ngay đằng sau nó. Vì vậy nên mới nói rằng “Thơ ở ngoài lời” (thi tại ngôn ngoại – ND). Cũng giống như Nghiêm Vũ, trong tác phẩm “Thương Lãng thi thoại” của mình, có nói về sức lan tỏa của thơ Đường: “Giống như âm thanh trong không trung, sắc đẹp trên nét mặt, bóng trăng dưới đáy nước, hình ảnh trong gương, lời thì có hạn mà ý lại khôn cùng”. Bert, một thi sĩ phương Tây cũng nói: ” Bài thơ hay như vật có hương, không gian có âm thanh, gần như hương vị tinh khiết. ” Lại nói: “Sự diệu kỳ trong thơ, mỗi từ có thể như một sợi dây đàn rung lên một âm thanh, vang vọng ra ngoài không gian, du dương không tắt”(Theo bản dịch của Tiền Chung). ① Nguyên tắc quan trọng nhất của thơ là “Ý ở ngoài lời”,”Âm thanh ngoài dây đàn”, hoặc là nói “ý thơ”.
Tất cả những đặc trưng này của thơ gây ra những khó khăn trong khi dịch thơ.
“Đọc thơ đã khó, viết thơ càng khó, dịch thơ còn gian khó hơn nhiều. ” Bởi vì dịch thơ liên quan đến việc dùng một loại ngôn ngữ khác tái hiện lên một cách trung thành cả hình thức và nội dung của bài thơ gốc. Độc giả nước ngoài đọc thơ có thể thích thú cái đẹp lạ kỳ và cộng hưởng giống như những độc giả của chính nước đó khi đọc bài thơ ấy. Để làm điều này thì nói dễ hơn làm? ! Hãy mang bài thơ Đường dịch ra tiếng Anh mà nói, thơ Đường là một bông hoa của nền văn học Trung Quốc, chỗ đứng của nó trên văn đàn thế giới cũng rất cao. Rất nhiều bài thơ Đường, như “Tĩnh dạ tứ” của Lý Bạch: ” Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương.” ( Tạm dịch:Trước giường trăng như gương, Mặt đất phủ đầy sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Bỗng nhớ về quê hương) thì ai ai cũng thích, kể cả phụ nữ và trẻ em. Không biết nó đã mang lại bao nhiêu cảm giác buồn bã nhớ nhà của những người xa xứ sống nơi đất khách quê người. “Ánh trăng” trong thơ đã mang cho lòng người sự mộng mơ không giới hạn. Ánh trăng trong tâm trí của người dân Trung Quốc là một biểu tượng của sự tinh khiết. Người ta thường dùng từ”trong sáng” để mô tả ánh trăng sáng, đồng thời, mặt trăng cũng ngụ ý một ý nghĩa sâu sắc. Trong con mắt của người Trung Quốc, mặt trăng là hóa thân của quê hương. “Lộ tòng kim dạ bạch, nguyệt thị cố hương minh” (Đỗ Phủ), (Tạm dịch: Từ đêm nay sương rơi trắng xoá, Trăng vẫn sáng tại quê hương). “Hải thượng thăng minh nguyệt, Thiên nhai cộng thử thời” (Trương Cửu Linh), (Tạm dịch: Trăng sáng mọc trên biển, Soi khắp cả chân trời). Không có gì làm lạ khi Băng Tâm(*c) học ở Mỹ, lúc nhớ nhà không chịu nổi đã đến ngắm vầng trăng tròn vạnh ở phía chân trời. Thế mà, ánh trăng (moonligh) trong tiếng Anh, lại không có ý sâu sắc như vậy. Trái lại, ngôn ngữ địa phương ở nước Anh, những từ ấy mang ý trốn chạy trong đêm tối, ví dụ như moonlight flit (dọn nhà trong đêm tối để trốn trả tiền nhà), ngoài ra, từ này được sử dụng như một động từ có nghĩa thứ hai: ví dụ như moonlighting (làm ngoài giờ vào ban đêm). Trong con mắt của người phương Tây, đêm trăng tròn là đêm chẳng lành, đêm quỷ khóc sói gào. Vì vậy, moonlight (ánh trăng) có một sự điên rồ, có ý vô căn cứ. Điều này so với “ánh trăng” trong tâm trí của người dân Trung Quốc, thì khác nhau xa. Mang nó dịch ra, ý thơ đương nhiên sẽ giảm đáng kể. Về cú pháp của thơ, trong bài thơ, từ đầu đến cuối không có một chủ ngữ: Ai đang ngủ? Ai nghi ngờ ánh trăng đang chiếu sáng trên mặt đất là sương lạnh? Ai ngồi ngắm trăng? Ai nhớ về quê hương? Có thể là tôi, bạn, anh ấy, chị ấy, chúng tôi, các bạn, họ. So sánh với tiếng Anh, trong câu tiếng Anh chủ ngữ của câu không thể bỏ qua được, điều đó gây ra khó khăn cho người dịch. ② Người dịch nói chung luôn thêm chủ ngữ, “I” (Tôi), như bản dịch của Arthur Cooper:
1) Before my bed
There is bright moonlight,
So that it seems
Like frost on the ground.
Lift my head,
I watch the bright moon,
Lowering my head,
I dream that I’m home.
(Tạm dịch nghĩa:
Trước giường ngủ của tôi
Có ánh trăng chiếu sáng,
Vì vậy có vẻ như
Giống sương trên mặt đất.
Tôi ngẩng đầu của mình,
Tôi ngắm vầng trăng sáng,
Tôi cúi đầu của mình,
Tôi mơ về nhà tôi )
Có thể nói bản dịch của Arthur Cooper đã cơ bản trung thành với nội dung bài thơ gốc, hoặc có thể nói đã đạt được sự chuyển “lời hay ý đẹp “, nhưng không đạt được sự hài hòa thống nhất về hình thức và vần điệu, tức đẹp hình và đẹp âm. Ông phân chia bốn câu thơ gốc thành tám câu, nhưng âm điệu rất mạnh mẽ do trắc bằng và vần đuôi vốn có của bài thơ gốc tạo nên bị hoàn toàn mất sạch sành sanh. Ngược lại, bản dịch của Hứa Uyên Xung truyền đạt bài thơ gốc tốt hơn, cả về “đẹp hình”, lẫn “đẹp âm”:
2) Abed, I see a silvery light,
I wonder if it’s frost aground.
Looking up, I find the moon bright;
Bowing, in homesickness I’m drowned.
(Tạm dịch nghĩa:
Ở trên giường, tôi nhìn thấy một ánh sáng bạc,
Tôi tự hỏi nếu nó là giọt sương rơi.
Nhìn lên, tôi thấy ánh trăng sáng;
Cúi đầu, tôi đắm chìm trong nỗi nhớ nhà.)
Trong bài “Bàn về dịch thơ Đường ra tiếng Anh” Hứa Uyên Xung đã chỉ ra rằng, người dịch thơ Đường phải dùng hết khả năng để truyền đạt càng nhiều càng tốt những “đẹp ý”, “đẹp âm” và “đẹp hình”. ③ Nhưng theo quan điểm của ông, trong “Ba vẻ đẹp”, quan trọng nhất là “đẹp ý”, tiếp theo là “đẹp âm”, sau đó là “đẹp hình. ” Tôi nghĩ rằng nó không phải là không hợp lý. Do sự khác biệt trong cả hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Trung, cũng như sự khác biệt về văn hóa, lịch sử, hình thái ý thức mang theo, muốn truyền đạt một trăm phần trăm “đẹp ý”, “đẹp âm”, “đẹp hình” của bài thơ gốc “là rất khó, thậm chí là không thể làm được, đặc biệt là “đẹp âm”. Tiếng Trung Quốc và tiếng Anh rất khác nhau. Tiếng Trung Quốc là một ngôn ngữ âm điệu (tone language), 4 thanh âm của tiếng Trung Quốc tạo thành nhịp điệu trầm bổng khi phát âm, đã tạo ra một đặc điểm âm nhạc. Không ngạc nhiên khi có người nước ngoài nói rằng việc học tiếng Trung Quốc cũng giống như học hát. Đồng thời, tiếng Trung Quốc cơ bản là đơn âm, trong âm tiết của hơn 1. 300 từ, sau khi loại bỏ đặc tính 4 thanh điệu, chỉ có 429 âm tiết, chúng có thể được hợp thành hàng trăm ngàn cụm từ. Tiếng Anh là ngôn ngữ có trọng âm (intonation language)(ngữ điệu ngôn ngữ), từ tiếng Anh phần nhiều là đa âm tiết. Trong tiếng Anh có khoảng 1200 âm tiết, có trọng âm, nhưng không có 4 thanh âm. Do đặc tính ngữ âm, luật thơ ca cổ điển Trung Quốc là “luật trắc bằng”, luật thơ trong tiếng Anh là “luật nặng nhẹ. ” Sử dụng lời nói hình thành bởi đặc tính phát âm, việc dịch Trung-Anh rất khó tương hỗ với nhau. ④ Ví như “Xuân du hồi văn thi” của Vương Dung:
Đọc xuôi: “Trì liên chiếu hiểu nguyệt, Mạn cẩm phất triêu phong. ” (Tạm dịch: Sen hồ chiếu trăng sớm, Tơ liễu lay gió nồng) (d*)
Đọc ngược: “Phong triêu phất cẩm mạn, nguyệt hiểu chiếu liên trì. ” (Tạm dịch: Gió nồng lay tơ liễu, Trăng sớm chiếu sen hồ)
Một ví dụ khác là vua Càn Long đề vế xuất đối trên đảo Cổ Lãng: “Khách thượng thiên nhiên cư, Cư nhiên thiên thượng khách” ( Tạm dịch: Khách ở trong thiên nhiên, Trong thiên nhiên có khách) và người đối lại vế xuất đối trên là: “Nhân quá đại Phật tự, tự Phật đại quá nhân” ( Tạm dịch: Người qua chùa thờ Phật, Chùa Phật có người qua -ND) cũng chỉ có thể là nhân sĩ tài hoa Kỷ Hiểu Lam (*e) mà thôi.
Tương tự như vậy, tiếng Anh cũng có vè đọc nhịu, chẳng hạn như: “The sixth sick sheik’s sixth sheep’s sick” và “Madam, I’m Adam”.
Ngoài ra, tiếng Trung Quốc thường sử dụng đặc điểm đơn âm, hay dùng từ láy, hay lặp lại âm đầu. Như Lý Thanh Chiếu viết: “Tầm tầm mịch mịch, Lãnh lãnh thanh thanh, Thê thê thảm thảm thích thích” ( Tạm dịch: Tìm tìm kiếm kiếm, lạnh lạnh vắng vắng, buồn buồn thảm thảm sầu sầu). Lâm Ngữ Đường đã từng dịch “so dark, so dense, so dull, so damp, so dank, so dead. ” ( Tạm dịch: tối thế, dày đặc thế, ngu si thế, ẩm ướt thế, nhớp nháp thế, chết chóc thế) ⑤ ông chỉ dùng mười bốn từ đơn âm, trong đó có 7 bảy chữ có âm đầu là ” d “, nên nó được cho là “một sánh đôi hoàn hảo”, nhưng so với nguyên văn, luôn luôn vẫn còn thiếu một chút hương vị. Vì vậy, theo ý kiến của tôi, nói “không thể dịch thơ” chủ yếu là nói đến khía cạnh truyền đạt “đẹp âm”.
Đối với tiêu chí “đẹp hình” cũng là một trong những khía cạnh quan trọng của dịch thơ. “Hình” ở đây chủ yếu đề cập đến các khía cạnh thể loại thơ, hoặc là nói đến niêm luật của thơ. Thơ Đường luật như một thể loại văn học đặc biệt, đó là sáng tác theo một quy luật nhất định, nó được chia thành hai loại luật thi(thơ đường luật.ND) và tuyệt cú. Về mặt câu chữ, trước hết luật thi giới hạn chỉ 8 câu, mỗi câu có 5 chữ là luật thi ngũ ngôn, gọi tắt là thơ ngũ luật, mỗi câu chỉ có 7 chữ là luật thi thất ngôn, gọi tắt là thơ thất luật, tuyệt cú cũng thế. Ngoài nhịp và vần, thơ Đường cũng coi trọng về đối, tức là yêu cầu câu trên câu dưới có phân bố từ loại phải giống nhau, nghĩa của từ phải đối nhau. Chẳng hạn như ” hôm qua” đối với “hôm nay”, “ngày” đối với “tháng”, “lên” đối với “xuống”, “ra” đối với “vào” v.v… Điều này e rằng một cao thủ dịch thơ thông thái cũng phải cảm thấy “lực bất tòng tâm”. Ngoài ra, do sự biến hóa ngoắt ngoéo của từ vựng ít có của tiếng Hán mà chuyển đổi từ loại thường xuyên. Ví dụ như chữ “thượng” (trên), có thể sử dụng như là một động từ, với nghĩa là “đi”, cũng có thể được sử dụng như một tính từ, nghĩa trái ngược với từ “dưới”, cũng có thể được sử dụng như một trạng từ, sử dụng sau động từ, chẳng hạn như “leo lên đỉnh núi”. Từ loại của tiếng Anh chuyển đổi không linh hoạt như tiếng Trung. Tất cả điều này gây ra khó khăn khi dịch thơ. Đòi hỏi quá khắt khe là từng chữ phải tương xứng, nếu không thì dịch một cách khiên cưỡng, điều này ta không bàn tới, bởi vì thi pháp dịch như vậy, chỉ đơn giản là làm hỏng bài thơ gốc.
Dịch thơ đúng, theo ý kiến của tôi, là cố gắng sử dụng một tập hợp hệ thống ngôn ngữ để tái hiện “đẹp ý” hay “tứ thơ” của bài thơ gốc. Điều này được so sánh với “đẹp âm” và “đẹp hình”, nó được thực hiện tương đối dễ dàng. Bởi vì “đẹp ý” đề cập đến cấu trúc sâu thẳm của ngôn ngữ, cụ thể là, “ngôn ngữ đằng sau ngôn ngữ”.
Mặc dù thói quen ngôn ngữ, cách suy nghĩ, nền văn hóa của mọi người có sự khác biệt rất lớn, nhưng mọi người đối với bản thân và quá trình nhận thức thế giới là giống nhau, là phổ biến. Điều này khiến việc dịch thuật có thể thực hiện được. Âm nhạc đã được gọi là ngôn ngữ của thế giới, chính vì nó vượt qua rào cản ngôn ngữ, trực tiếp rung động tình cảm sâu sắc của mọi người, gây ra sự đồng cảm của người nghe. Nhạc điệu chân chính của thơ ca là chất thơ của nó. Một áng thơ hay có thể làm cho con người cảm xúc và tưởng tượng không giới hạn. Như “Thiên tịnh sa” của Mã Đáo Viễn: ” Khô đằng lão thụ hôn nha, Tiểu kiều lưu thủy nhân gia. Tịch dương tây hạ, Đoạn trường nhân tại thiên nhai” (Tạm dịch nghĩa: Con quạ buổi chiều đậu trên cây đằng già khô héo, Nhà ai ở gần chiếc cầu nhỏ bên dòng nước chảy, Con ngựa gầy đi trong gió tây trên đường cổ, Mặt trời chiều đã ngả về tây, Đứt ruột vì người ở tận chân trời). Thật là một tâm trạng cay đắng biết bao! Một ví dụ khác của Vương Tịch là “Phong định hoa do lạc, điểu minh sơn canh u” ( Tam dịch: Gió làm hoa rụng, tiếng chim hót làm núi càng vắng vẻ), hình ảnh thật tĩnh mịch biết bao nhiêu! Nhà thơ Mỹ Ezra Pound không biết tiếng Trung, nhưng vô cùng xúc động bởi ý cảnh của thơ Đường Trung Quốc, đã phát động một phong trào thơ mới, khơi dòng cho thơ hình ảnh. Từ bài thơ của ông, chúng ta không khó khăn mấy khi đến với bóng dáng của thơ Trung Quốc. Như trong tác phẩm bổi tiếng của ông “In a Station of the Metro” :
In a Station of the Metro
The apparition of these faces in the crowd;
Petals on a wet, black bough.
(Tạm dịch: Trong một ga tàu điện ngầm
Sự xuất hiện các khuôn mặt trong đám đông;
Cánh hoa ướt át trên cành cây đen.)
(Trong đám đông, những khuôn mặt thoắt ẩn thoắt hiện
Trên cành cây ẩm ướt, một vài cánh hoa. )
William Blake trong “To See the World in a Grain of Sand” (Nhìn thế giới trong một hạt cát) đã viết như sau:
To see the world in a grain of sand,
And a heaven in a wild flower;
Hold infinity in the palm of your hand,
And eternity in an hour.
(Tạm dịch nghĩa :
Nhìn thế giới trong một hạt cát,
Và một thiên đường trong bông hoa dại;
Giữ vĩnh cửu trong lòng bàn tay của bạn,
Và vĩnh cửu trong một giờ.)
Một bông hoa, một thế giới,
Một hạt cát, một thiên đường;
Bạn nắm cả vô tận,
Chứa phút giây vĩnh hằng.
Câu thơ trùng dương của Tăng Đạo Xán đời Tống ở Trung Quốc: “Thiên địa nhất Đông ly, Vạn cổ nhất rùng cửu” (Thế giới nhất Đông Ly, Muôn đời nhất Trùng cửu), vần điệu không giống nhau nhưng đều tuyệt diệu. ⑥ Dường như thơ ca trong nước ngoài nước từ cổ chí kim đều không khác biệt lớn, linh hồn thực sự của nó – phổ biến là tứ thơ. “Thân ta không có đôi cánh bướm lộng lẫy bay cao, Nhưng trong lòng có trí thông minh để cảm thông”.(*g) Có lẽ, nó là như vậy.
Nói tóm lại, dịch thơ rất khó, vô cùng khó khăn. Để đạt được cả ba tiêu chí “đẹp âm”, “đẹp hình” và “đẹp ý” là rất khó, nhưng không phải là hoàn toàn không thể. Nói một cách tương đối, đẹp âm rất khó truyền đạt, sau đó là đẹp hình, và sau cùng là đẹp ý. Trong ba điều đó, quan trọng nhất là đẹp ý, bởi vì nó là linh hồn của một bài thơ. Để dịch thơ đúng, nên cố gắng sử dụng một tập hợp các hình thức ngôn ngữ để truyền đạt một cách trung thành “đẹp ý”, hoặc có thể nói là “ý thơ” của bài thơ gốc. Cũng như ông Đồng Tiền Trọng đã nói như thế này: “Thể xác có thay đổi chút ít, nhưng tinh thần vẫn giữ nguyên cái tôi của ngày xưa”. Cuối cùng, tôi muốn trích dẫn hai câu cuối trong bài Sonnet 18 của William Shakespeare để kết thúc bài này, và hoan nghênh tất cả các “anh hùng không mũ miện”, những người dịch thơ “biết không làm được mà vẫn làm”(h*):
So long as man can breathe, or eyes can see,
So long lives this, and this gives life to thee.
(Tạm dịch nghĩa:
Chừng nào con người còn hít thở, mắt vẫn còn nhìn,
Còn bài thơ này, dâng cho Người cuộc sống.)
(Miễn là con người có thể thở, đôi mắt có thể nhìn thấy ánh sáng,
Bài thơ này sẽ có thể còn mãi, để làm cuộc sống của bạn vinh hiển đời đời)
Chú thích của Tác giả:
①Trích dẫn từ “Mỹ học tản bộ” của Tông Bạch Hoa, Nhà xuất bản nhân dân Thượng Hải năm 1997, trang 100.
②③ Trích dẫn từ “Khoa văn hóa giao lưu học” của Quan Thế Kiệt, Nhà Xuất bản Đại học Bắc Kinh, 1995, trang 348.
④ Trích dẫn từ “Bàn về dịch thơ Đường”, ” Nghệ thuật dịch thơ ” của Hứa Uyên Xung, Công ty Xuất bản dịch thuật đối ngoại Trung Quốc , năm 1987, trang 408.
⑤Trích dẫn từ “Nghệ thuật dịch”, “Nghệ thuật dịch thơ ” của Lâm Ngữ Đường, Công ty xuất bản dịch thuật đối ngoại Trung Quốc năm 1987, trang 53.
⑥ Trích dẫn từ “Mỹ học tản bộ” của Tông Bachk Hoa, Nhà xuất bản nhân dân Thượng Hải năm 1997, trang 199.
Chú thích của Người dịch:
(*a) Câu trong “Túy hoa âm” của Lý Thanh Chiếu
Tuý hoa âm .Bạc vụ nùng vân sầu vĩnh trú, Thuỵ não tiêu kim thú. Giai tiết hựu trùng dương, Ngọc chẩm sa trù, Bán dạ lương sơ thấu. Đông ly bả tửu hoàng hôn hậu, Hữu ám hương doanh tụ. Mạc đạo bất tiêu hồn, Liêm quyển tây phong, Nhân tỷ hoàng hoa sấu.
Dịch nghĩa: Khói nhạt mây dày, ngày dài tẻ ngắt Hương trầm đã nguội, lò vàng đã tắt Tiết trời tươi đẹp đúng dịp trùng duơng Gối ngọc màn the Nửa đêm hơi lạnh len vào . Bên bờ giậu phía đông, nâng ly sau buổi hoàng hôn Hương thầm đầy tay áo Chớ nói cảnh chẳng tiêu hồn , Rèm cuốn gió tây ,Người so với hoa vàng còn mảnh mai hơn
(theo thivien. net)
(*b) ý lấy từ một câu thơ trong bài ‘Điệp luyến hoa’ – Liễu Vĩnh “Y đới tiệm khoan chung bất hối, Vi y tiêu đắc nhân tiều tụy (Áo quần rộng dần (gầy đi) nhưng trước sau cũng không hối hận, chỉ vì người ấy (nhớ nhung) mà hao gầy tiều tụy. )
(*c) Băng Tâm: (5/10/1900-28/2/1999) tên thật là Tạ Uyển Oánh, quê ở Trường Lạc, Phúc Kiến, Trung Quốc. Năm 1918 học y ở trường Đại học Yên Kinh (Bắc Kinh), sau chuyển sang học văn, bắt đầu sáng tác từ năm 1920. Năm 1921, tham gia “Hội nghiên cứu văn học”. Năm 1923 sang Mỹ học văn học Anh và viết nhiều tản văn. Năm 1926 về nước dạy ở một số trường đại học tại Bắc Kinh. Sau kháng chiến sang Nhật. Năm 1951 trở về nước. . (theo thivien. net)
(*d) Bản dịch của Nguyễn Tôn Nhan -thivien. net
(e*)Kỷ Hiểu Lam : Kỷ Quân (1724-1805) văn học gia và thư tịch gia đời Thanh, tên tự Hiểu Lam, Xuân Phàm, người ở huyện Hiến, Trực Lệ (nay là Hà Bắc). Kỷ Quân học thức uyên bác, sở trường về môn khảo chứng và huấn hỗ (chú thích phân tích ngôn ngữ). Ông đỗ tiến sĩ, làm quan dến Thượng thư bộ Lễ, Hiệp biện đại học sĩ. Năm Càn Long thứ 37 (1772), triều đình Thanh hạ chiếu biên soạn bộ Tứ Khố Toàn Thư và để ông giữ chức quan tổng biên tập. Kỷ Quân còn chủ trì biên soạn sách Tứ khố toàn thư tổng mục gồm 200 quyển, khảo xét bình điểm nguồn gốc của các tác phẩm, nêu ra chỗ được chỗ mất, biện biệt chữ nghĩa, trở thành tác phẩm có thành tựu lớn về mục lục học ở Trung Quốc. (theo thivien. net)
(*g) Câu thơ trích dẫn trong bài “Vô đề” của Lý Thương Ẩn, thi nhân đời Đường.
(*h) “Tri kì bất khả nhi vi chi” ( Biết không làm được mà vẫn làm), câu của Khổng Tử trong “Luận ngữ”. .
PHẠM THANH CẢI dịch từ nguyên bản tiếng Trung.
nguồn : http://www. bime. ntu. edu. tw/
(Địa chỉ liên hệ: Phạm Thanh Cải, 9/47/459 Bạch Mai, Hà Nội)
Nguyên văn tiếng Trung
论译诗三难
同济大学 陈书新
诗是一种独特的语言,它作为一种文学形式,具有独特的形式和内涵。诗具有一定的节奏和韵律,所以人们总是将诗与歌联系起来,认为诗歌是”带有音乐性的思想”;甚至将之等同——认为诗即是歌,歌既是诗。另外,诗是由并列的短行构成,若干短行组成一节,这就和散文的句子连写,若干句组成一段不同。除了形式上的不同以外,诗的语言特别优美和精炼。往往一个字,一句话就包涵无穷的意象和联想,例如李清照笔下的”人比黄花瘦”,一个”瘦”字就将诗人的离愁别绪,”为伊消得人憔悴”的心境刻画得淋漓尽致。又如叶芝笔下的”gyre”(螺旋),则代表了他有关人性以及人类文明的矛盾运动的整个理论体系。这样的例子不枚胜举。读诗并不仅仅是读它语言本身,而是透过语言的表像,读出它背后所蕴涵的深意。所以说”诗在言外”。正如严羽在他的《沧浪诗话》中所说的唐诗的境界:”如空中之音,相中之色,水中之月,镜中之像,言有尽而意无穷。”西人约伯特(Joubert)也说:”佳诗如物之有香,空之有音,纯乎气息。”又说:”诗中妙境,每字能如弦上之音,空外余波,袅袅不绝。”(据钱钟书译)①而诗最重要的则是这”言外之意”,”弦外之音”,或者说”诗意”。
而这一切独特性都构成了译诗的困难。 “读诗难,写诗难,译诗更难。”因为翻译就涉及将原诗的形式与内涵用另一种语言忠实地再现出来,是读诗的异国读者能够从译作中获得尽可能与本国读者一样多的共鸣、震惊和美的快感。要做到这一点又谈何容易?!拿唐诗英译来说,唐诗是我国文学的一朵奇葩,在世界文学史上的地位也很高。很多唐诗,如李白的《静夜思》:”床前明月光,疑是地上霜。举头望明月,低头思故乡。”是脍炙人口,妇孺皆知的。它不知勾起了多少异乡游子的思乡愁肠。诗中的”月光”给人以无限的遐想。月光在中国人的心目中是纯洁的象征,人们常常用”皎洁”来形容月光之亮;同时,月光又蕴涵着另外一层深意——在中国人的心目中,月亮是故乡的化身。 “露从今夜白,月是故乡明。”(杜甫),”海上升明月,天涯共此时。”(张九龄),难怪冰心在美国求学时最不忍的就是看到天边的一轮满月。然而,月光(moonlight)在英文中却没有这层深意,相反,在英国的俚语中,该词有乘黑夜逃跑之意:eg moonlight flit,另外,该词用作动词还有身兼二职之意:eg moonlighting。在西方人的心目中,月圆之夜是鬼哭狼嚎的不祥之夜,因此,moonlight有一种疯狂,虚妄之意。这与中国人心目中的”月光”相去甚远。把它翻译过来,诗意当然就大打折扣了。就诗的句法而言,该诗从头到尾就没有一个主语:谁的床前?谁在怀疑映照在地上的月光是寒霜?谁在望月?谁在思故乡?可以是我、你、他、她、我们、你们、他们。对比英语,英语的句子中主语是不可以省略的,这就构成了翻译的困难。 ②一般译者总是要加上主语”我”,如Arthur Cooper所译的:
1) Before my bed
There is bright moonlight,
So that it seems Like frost on the ground.
Lift my head, I watch the bright moon,
Lowering my head,
I dream that I’m home.
应该说Arthur Cooper的译文基本上做到了对原诗内容的忠实,或者说达到了”意美”的传递,但却未能做到形式上和音韵上的和谐统一,即形美和音美。他把原诗四句拆成八句,而且原诗固有的由平仄和尾韵构成的很强的音乐感完全荡然无存了。相比之下,许渊冲的译文则更好地传达了原诗的”形美”和”音美”:
2) Abed, I see a silvery light,
I wonder if it’s frost aground.
Looking up, I find the moon bright;
Bowing, in homesickness I’m drowned.
许渊冲在他的《谈唐诗的英译》一文中指出,翻译唐诗要尽可能传达原诗的”意美”,”音美”和”形美”。 ③但在他看来,”三美”之中,最重要的是”意美”,其次是”音美”,再次是”形美”。我认为不无道理。由于中英两种语言的差异,以及语言所携带的文化,历史,意识形态等方面的差异,要想百分之百地传达原诗的”意美”,”音美”和”形美”是很难做到的,甚至是不可能的,尤其是”音美”。汉语和英语有很大的不同。汉语是声调语言(tone language),汉语的四声构成了发音的抑扬顿挫,产生了一种音乐的特征。难怪外国人说学汉语好比学唱歌;同时,汉语基本上是单音节,在1300多个单字音节中,除去四声调特征以后,只有429个音节,它们可以组成数十万条片语。而英语是重音语言(intonation language),英语单词多是多音节,英语中约有1200个音节,有重音,但没有四声。由于语音的特性,汉语诗歌的格律为”平仄律”,英语诗歌的格律为”轻重律”。利用发音的特点形成的语言游戏很难英汉互译。 ④象王融的《春游回文诗》:
正读:池莲照晓月,幔锦拂朝风。
倒读:风朝拂锦幔,月晓照莲池。
又例如乾隆题在鼓浪屿的上联”客上天然居,居然天上客。”而能对出下联”人过大佛寺,寺佛大过人”的,也只有才子纪晓岚了。同样,英文里也有绕口令,如:”The sixth sick sheik’s sixth sheep’s sick”和”Madam, I’m Adam”。
此外,汉语利用单音的特点喜用叠韵或双声,如李清照的”寻寻觅觅,冷冷清清,凄凄惨惨戚戚”,林语堂曾将之译作”so dark, so dense, so dull, so damp, so dank, so dead. “⑤他也只用了十四个单词,其中七个押”d”的头韵,应该说是绝配了,可是比起原文来,总归还是缺了那么一点点韵味。所以在我看来,诗歌的不可译性主要是指”音美”的传达方面。
至于”形美”,也是诗不可译的一个重要方面。这里的”形”主要是指诗歌的体裁方面,或者说诗歌的格律。唐诗作为一种独特的文学体裁,是按照一定的格律来写作的,主要分为律诗和绝句两种。律诗在字句方面,每首限定八句,五字一句为五言律诗,简称五律,七字一句为的为七言律诗,简称七律,绝句亦然。除去节奏和用韵,唐诗还讲求对仗,即要求上下联词性相同,词义相对。如”昔”对”今”,”日”对”月”,”上”对”下”,”出”对”入”等等。这一点恐怕再高明的译诗高手也得”望洋兴叹”了吧。另外,由于汉语少有辞汇的曲折变化,而词性的转换频繁。例如”上”,可以作动词,解释为”去”,也可以作形容词,与”下”相对,还可以作副词,用在动词后,如”爬上山顶”。而英语的词性转变远不及汉语灵活。这一切都构成了译诗的困难。苛求字字对应,除非硬译,那就免谈了,因为那样译诗法,简直就是糟蹋原诗。
真正的译诗,在我看来,就是努力用另一套语言系统来再现原诗的”意美”,或者说”诗境”。这一点较之”音美”和”形美”来说,相对比较容易办到。因为”意美”指的是语言的深层结构,即”语言背后的语言”。
不管人们的语言习惯,思维方式,文化背景有多么大的差异,人们对于自身以及对与世界的认识过程还是相似的,是共通的。这才使得翻译成为可能。音乐之所以被称之为世界的语言,正是因为它跨越了语言的障碍,以直接的方式打动人们的心弦,引起听者的共鸣。而诗歌的真正音乐是它的诗意。一首好诗能引起人们无限的遐思和感慨。如马致远的《天净沙》:”枯藤老树昏鸦,小桥流水人家。夕阳西下,断肠人在天涯。”多么凄美的意境!又如王籍的”风定花犹落,鸟鸣山更幽”,多么恬静的画面!美国诗人庞德(Pound)不懂中文,却深深被中国唐诗的意境所打动,发起了新诗运动,开意象诗之先河。从他的诗中,我们不难觅到汉诗的踪影。如他的代表作”In a Station of the Metro”(在地铁车站):
In a Station of the Metro
The apparition of these faces in the crowd;
Petals on a wet, black bough.
(人群,几张脸忽隐忽现;
阴湿的嫩枝上几片花瓣。 )
William Blake 在”To See the World in a Grain of Sand”中这样写道:
To see the world in a grain of sand,
And a heaven in a wild flower;
Hold infinity in the palm of your hand,
And eternity in an hour.
一花一世界,
一沙一天国;
君掌盛无边,
刹那含永劫。
这首诗与中国宋僧道灿的重阳诗句:”天地一东篱,万古一重九”有着异曲同工之妙。 ⑥看来不论古今中外的诗歌有多么大的差异,其真正的灵魂——诗意是共通的。 “身无彩蝶双飞翼,心有灵犀一点通。”大概,就是谓此吧。
总而括之,译诗之难,难于上青天。要做到”音美”,”形美”和”意美”三者兼顾是很难的,但并不是完全没有可能的。相对来说,音美最难传达,形美其次,而意美再次。而在这三者之中,最重要的是意美,因为它是一首诗的灵魂。真正的译诗,应该努力用另一套语言形式来忠实地传达原诗的”意美”,或者说”诗意”。正如同钱钟书先生所说的那样:”躯壳换了一个,而精神姿致依然故我”。最后,我想引用莎士比亚的Sonnet 18中的最后一句来结束此文,用来为所有那些”知其不可而为之”的译诗之”无冕英雄”而道声喝彩:
So long as man can breathe, or eyes can see,
So long lives this, and this gives life to thee.
(只要人们能够呼吸,双眼能够看得见亮光,
这首诗就能够永存,使你的生命万古辉煌。 )
注 释
①引自宗白华《美学散步》,上海人民出版社1997,第100页。
② ③引自关世杰《跨文化交流学》,北京大学出版社1995,第348页。
④引自许渊冲,“谈唐诗的翻译”,《诗词翻译的艺术》,中国对外翻译出版公司1987,第408页。
⑤引自林语堂,“翻译的艺术”,《诗词翻译的艺术》,中国对外翻译出版公司1987,第53页。
⑥引自宗白华《美学散步》,上海人民出版社1997,第199页。