Biển trổ hoa vàng – Tiểu thuyết của Đình Kính (K9)

Ngọn đèn nơi cao nhất ngọn Vạc vẫn đều đặn theo chu kỳ chớp loé, chiếu sáng ra biển.  Vẫn đơn điệu âm thanh của gió, của sóng. Đêm lặng lẽ trôi…

Ngọn đèn nơi cao nhất ngọn Vạc vẫn đều đặn theo chu kỳ chớp loé, chiếu sáng ra biển.  Vẫn đơn điệu âm thanh của gió, của sóng. Đêm lặng lẽ trôi…

Biển trổ hoa vàng – Đình Kính ( phần 9)

– Ta tuông về ngọn Vạc… Nhưng đã quá muộn … Con gái ta đã bỏ ta, đi về trời…

Già Khương lại ngồi lặng. Hình ảnh bất hạnh trên ngọn Vạc những năm tháng trước đó như từ đáy mắt nóng ran của già ùa ra…

Đêm.

Ông Khương gập người, hốt hoảng bước như chạy, bươn nhanh lên ngọn Vạc. Khuôn mặt giáo dác sợ hãi. Sau lưng ông biển nhờ nhờ, lấp loá ánh lân tinh…

Đến gần ngôi nhà tựa chiếc lô cốt, là chỗ ở của ông và con gái, ông chững lại một thoáng.

Cánh cửa làm bằng liếp che ngôi nhà lật phật đưa qua đưa tới trước gió. Có cái gì đấy hết sức hoang tàn, lạnh lẽo đập vào mắt.

– Con gái!-  Ông Khương gọi to rồi thốc vào nhà.

Căn nhà hoang lạnh, trống trải.

Ông sững sờ, lập bập, run rảy bật diêm châm đèn dầu. Dưới ánh lửa leo lắt, tù mù, tấm phản vẫn làm chỗ ngủ cho con ông trống không. Chiếc chiếu trải trên đó xộc xệch, dấu ấn của sự vật lộn… Và, ông Khương choáng người khi nhìn rõ trên mảnh chiếu đã bị nhầu nát có vệt máu tươi loang lổ.

– Trời ơi!

Ông Khương nấc một tiếng, đau đớn tựa con thú thấy con mình sập bẫy mà bất lực. Rồi ông rũ xuống cạnh chiếc chiếu một nửa ở trên phản, một nửa đã tuồi xuống nền đất như người mất hết tinh lực.

Ông lặng đờ, câm nín. Nỗi đau ngấm vào từng thớ thịt bào xé cơ thể, nhức buốt, xót xa… Ông nức nở, uất nghẹn, giọng như tắc trong họng:

– Hương ơi, lỗi là ở  bố… Phải, tại bố…

Một cách vô thức, ông nhặt chiếc cặp tóc của con gái rơi sót nơi tấm phản. Chiếc cặp như vẫn còn nóng hơi người. Ông dại đờ mân mê trên tay, đôi mắt ẫng nước hướng vào bóng tối như kẻ mất trí. Và những giọt nước mắt hiếm hoi rịn ra trên gương mặt khắc khổ, từng chai sạm bởi nắng, bởi gió…

– Phải, lỗi là ở bố…

Vẫn vô hồn nhìn ra đâu đó trong màn đêm, ông lẩm nhẩm tựa kẻ mộng du … Và đưa cặp tóc cà lên má, lên môi… Âu yếm. Tiếc nuối…

Tiếng bé Hương cách đây hơn mười lăm năm lại vang hiện trong ký ước, vang lên trong đầu già Khương:

– Sao con gọi mà bố không chờ con? Vậy là con đã tìm được bố rồi.

– Bố quên tên con à? Bố đặt tên con là Hương mà.

– Trước khi chết, mẹ dặn con phải tìm cho được bố. Con hứa thế nào con cũng tìm được. Lâu nay bố ở đâu, con tìm mãi…Bố đừng bỏ con lang thang một mình nữa nhé… Bố hứa đi.

– Con nhớ bố lắm. Bố bảo bố đi tìm hàng cơm một lát rôi quay lại mà lâu ơi là lâu..

– Bố ơi, con đói… Mấy hôm rồi con không được ăn…

– Mẹ bảo dù bố ở tận chân trời cũng phải tìm… Có người đưa con về nuôi, nhưng con không nghe. Con phải đi tìm bố như mẹ dặn…

– Được sống với bố, ở đâu con đều thích.

– Hương ơi!

Ông Khương bật kêu, nhưng hơi không thoát được ra, tắc nghẽn nơi cổ. Ông gục xuống. Đứa con gái yêu lại hiện về trong tâm trí… Vẫn gần lắm hình dáng cô bé bám sau lưng ông chiều chiều lần cầu thang bước lên nơi cao nhất ngọn Vạc. Một quầng sáng bừng toả, chiếu xuống biển.

– Giỏi  quá! Hoan hô bố!… Ngọn đèn gọi là Hải Đăng hả bố.

– Bố ơi, con muốn xem tàu đi trên biển trong đêm.

– Giống như những ngôi  sao đang bơi nơi mặt nước bố ạ. Đẹp quá!

– Con cũng là một ngôi sao…

– Con không phát sáng.

– Con sáng hơn mọi tinh tú trên đời này…

Ông Khương nấc một tiếng. Tiếng nấc người có tuổi bật ra trong đêm nơi ngôi nhà lạnh giá trên ngọn Vạc hoang vắng nghe xót buốt, nẫu nuột, cám cảnh… Nó tựa tiếng tác tuyệt vọng của nai mẹ hốt hoảng tìm con nơi heo hút rừng già…

Đêm ấy và nhiều đêm kế theo, cầm ngọn đuốc trên tay, ông Khương thấp thởi lần theo mép nước, nhớn nhác và hoảng loạn vòng quanh ngọn Vạc. Đôi mắt thâm quầng ngó quanh căng ra tìm kiếm. Đau đớn, ân hận, nuối tiếc. Rồi trong ánh sáng nhập nhọem nhạt nhoà huyền ảo, hư thực của ngọn đuốc giữa mông lung đại dương ấy, ông chợt thấy con gái mình chập chờn ẩn hiện phía trước. Cái bóng gầy nhỏ nhanh nhẹn quen thuộc đó dừng lại, chụm tay làm loa, quay về phía ông, cất tiếng rất rõ: “Bố ơi! Có con cua to lắm…”

– Chờ bố! Chớ đụng vào nó cặp đứt ngón tay đấy.

Ông Khương đáp và hơ hải chạy vội về phía có tiếng gọi. Nhưng khi ông hấp hả vọt tới, nơi mà ông vừa trông thấy con gái mình chỉ là bãi đá lạnh ngắt. Ông sững lại huơ ngọn đuốc về tứ phía. Rõ ràng cách mấy khắc, ông đã nhìn ra Hương đang cúi xuống hốc đá này, nơi có những chú cua to, nằm im ỉm. Ông thất vọng, thở mạnh, trơ ra.

Rồi ông phóng ánh mắt ra biển. Khuôn mặt đau buồn, đanh lạnh. Biển đen đặc, bí ẩn, mênh mông, ngút tầm nhìn nhưng trong mắt ông, mặt biển xanh dịu. Và trên khối nước lơ lơ ấy có chiếc thuyền con đang thả lưới. Nó bồng bềnh theo từng con sóng nhã nhặn từ rất xa thủng thẳng đuổi nhau dạt về. Khi lưới đã được kéo lên, tiếng Hương chòng chành: “Bố ơi, lại có cá to rồi. Bố cho con bắt nhé…”. Ông cẩn thận rê tấm lưới sát vào chỗ con gái. Hương thò tay xuống. Con cá quẫy mạnh. Hương túm lấy, đưa lên: “Con tóm được rồi!”   Hương thích chí cười vang. Tiếng cười con gái ông sao vô tư làm vậy. Tiếng cười tràn loang trên biển…

– Hương!

Ông gọi to, rồi nhao xuống. Nhưng biển đen đặc…

… Những hôm thất vọng như vậy, khi trời sáng, ông Khương thẫn thờ nặng nề lê thân từ biển về ngôi nhà giống chiếc lô cốt bao năm bố con ông chui ra chui vào. Ông chán ngán, buồn xỉu ngồi trên phiến đá lớn trước cửa, vô cảm hướng mặt ra phía mặt trời mọc… Trong loa lóa những giọt sương mai trên bãi cỏ khi có nắng sớm chiếu vào, ông lại thấy dáng hình con gái.  Hương đang loay hoay xếp những vỏ ốc nhặt được nơi mép biển theo hình thù rất lạ. “Con gái  dựng nhà phải không?”. “Lâu đài bố ạ”. ” Để đón hoàng tử con vua thuỷ tề về ở?”. ” Bố làm hoàng tử của con bố nhé. Hai bố con mình sẽ sống trong lâu đài này”

Ông Khương cười to. Cười như mếu. Nơi khóe mắt, mấy giọt nước rịn ra. Ông trơ khấc. Gió từ biển khơi thổi về làm tung mái tóc đã bạc thêm của ông…

… Chợt Hương từ sau những tấm lưới đang treo trước mặt hiện về, phô hàm răng sún, cười rất tươi: “Bố, bố ơi! Cây cải đang nở hoa màu vàng”. Rồi hớn hở cầm tay ông kéo đi…

Ông Khương bật dậy, thất thửng bước tới thùng sắt tây trồng cây cải. Ông thấy cây cải gầy nhẵng đã vươn cao, và từ cái ngồng khẳng khiu đó, mấy nụ đang hé nở, nứt ra nhưng ánh vàng. ” Mấy hôm nữa nó nở hết bố ạ. Con muón đồi Vạc sẽ chỉ  một màu vàng “.

Ông Khương món mén cười, quay nhìn sang, nhưng con gái ông đã không còn đứng đó nữa… Ông lặng trơ, hơ hải nhòm quanh. Chỉ có tiếng sóng từ dưới chân ngọn Vạc vọng lên. Và tiếng những con chim biển gọi nhau chao liệng quanh cây đèn …

Trời tối, ông lại đốt đuốc ra biển. Ngọn lửa trong tay hươ quanh săm soi, hy vọng và bất lực. Biển mênh mang, muôn đời vô tình cư nhẩn nha đẩy sóng vào bờ. Ông Khương dừng lại bên một mô đá, nhìn xuống khối nước đen thẫm, cố gọi thật to:

– Hương ơi!

Vẫn chỉ tiếng sóng, tiếng gió.

Ông đưa cao bó đuốc, bước nhanh tới mép biển:

– Hương ơi, con ở đâu?

Sóng đập vào bờ đá, hất những nước lên người, ông Khương vẫn chẳng để ý. Đôi mắt trũng sâu, mờ nhoè, lại hướng ra đại dương, goi to:

– Hương! Con ở đâu…- Tiếng ông thất thanh: Bố sống không thể  thiếu con.  Hương!!

Tiếng ông theo sóng, trôi ra biển…

Ngọn lửa trên tay bập bùng. Ông lại đi.

“Giữa không gian vô tận những nước, những sóng này, bố biết tìm con ở đâu, Hương ơi? Con hãy cất to lên một tiếng như ngày nào bố con ta vẫn hò nhau đi bắt cá, tìm Vích… Mấy hôm nay biết con không về nữa, bố vẫn có ý đợi cơm…Nhìn quần áo con để lại, nhìn những con ốc biển con gom góp, xếp một góc, Hương ơi, bố nhớ con quá chừng… Dáng con lom khom mờ nhoè trên biển, cúi xuống những hốc đá tìm cua, bắt ghẹ vẫn kia… Tiếng cười thoả mãn khi tìm được vỏ ốc lạ vẫn vang đâu đây… Dẫu không chịu được nhục, con phẫn chí, nhưng sao nỡ bỏ bố ở lại một mình, Hương ơi… Bố đã định rằng diệt đi cái phần đàn ông trong mình để được thanh thản mãi mãi sống bên con, ai ngờ… Lỗi là ở bố. Lỗi ở bố … Thiếu con, bố biết sống sao đây, Hương?”

Bóng ông  Khương mờ nhoà vào vũ trụ…

Ngọn đèn nơi cao nhất ngọn Vạc vẫn đều đặn theo chu kỳ chớp loé, chiếu sáng ra biển.  Vẫn đơn điệu âm thanh của gió, của sóng. Đêm lặng lẽ trôi…

Một khuya, mệt quá ông Khương thiếp đi. Nhưng chỉ thoáng sau ông hoảng loạn choàng dậy. Hình như có tiếng con gái gọi . Ông ngơ ngáo nhìn ra. Nơi tấm liếp đã bị gió lật tung, Hương đứng đó, quần áo bị xé rách, hư ảo như một cái bóng… Cái bóng nhưng rõ hình hài. Cô đứng lặng, nhìn về phía ông Khương.

– Con gái!

Ông Khương bật dậy, hấp hả bước ra cửa. Nhưng ông bước tới đâu, hình hài con gái tựa một vệt sáng, lùi tới đó. Giữa ông và con gái chỉ một khoảng cách rất mỏng, nhưng không sao tiếp cận được. ” Bố! Đừng lo cho con. Con đã được hoàng tử con vua thủy tề đón về cung. Con thanh thản mà”.  Hương mờ nhoè vào bóng tối. Nhoè dần vào biển. Ông Khương thả mình ào xuống dốc, chạy theo… Rồi cũng thả mình xuống biển…  Nước biển lạnh ngắt khiến ông tỉnh lại…

Những đêm kế đấy, tin rằng con gái lại sẽ về, ông đốt hai ngọn đuốc, cắm  bên cửa ngôi nhà. Rồi bước tới sườn ngọn Vạc, chỗ Hương vẫn đứng nhìn xuống biển, hai mắt mở tròn, ngóng ra. Trông ông như môt bức tượng. Và sau lưng, ngọn lửa bập bùng trong gió.

Ngoài  biển, những đốm sáng trên boong mấy con tàu vào cảng nhập nhoè, chập chờn…

” Hương ơi, bố vẫn thức chờ con. Hãy dõi theo ánh sáng bố thắp mà lần về con nhé. Hôm nay là chẵn mười bảy năm kể từ ngày bố gặp con trong ngôi chợ xiêu vẹo nơi cái thị trấn bé nhỏ ấy đấy. Định mệnh đã cho bố gặp con và  trở thành bố của con. Vậy mà… Người ta đã đang tâm hãm hại, cướp đi cuộc sống của con, cũng là cứơp đi cuộc sống của bố… Con về với hư vô, cuộc đời bố còn ý nghĩa gì… Trở lại với bố đi Hương ơi, con đừng nhẫn tâm bỏ bố một mình … Hương ơi, con ở đâu, lần theo ánh sáng từ ngọn đuốc, ánh sáng từ cây đèn biển mà về với bố…”


– Thời gian như liều thuốc đắp rịt khiến vết thương đỡ hơn- Già Khương kể tiếp-  Nhưng tối đến, khi chui vào căn nhà tựa chiếc lô cốt, nhận ra sự  vắng thiếu đơn côi, ta thấy nhói buốt. Vết thương lại tấy đỏ. Và nỗi hận trong lòng sôi lên như lửa đổ thêm dầu… Bấy giờ ta không thể tìm một ngọn Vạc khác để trốn và ra đó ẩn như từng trốn chạy ra ngọn Vạc cách đây đã mấy chục năm. Lần này ta quyết đối mặt với cái ác. Không  lẩn tránh nữa. Cái ác phải trả bằng cái ác. Hậu quả thế nào, ta bất biết. Để cái ác nhởn nhơ không bị trừng trị cũng là tòng phạm, nghĩ vậy, ta vạch cho mình kế hoạch cụ thể. Sức ta vẫn còn đủ để thực hiện cái việc ta định làm… Ta chọn con dao quắm mấy mươi năm nay vẫn dùng bổ củi làm phương tiện trả thù. Ta kỳ công, mài thật sắc. Ta phải sống mái với bọn đã gây ra tai họa trên ngọn Vạc một phen… Nhưng lạ vậy, mỗi lần mang dao lên thuyền chèo đi, lại nghe rất rõ tiếng con gái ta hơ hãi can ngăn. Hương nói rằng không nên làm vậy, bố vẫn dạy con cách trả thù tốt nhất là không làm cái ác giống cái ác của người ta. Không nên nuôi hận thù trong lòng. Với nữa con đã được hóa thân làm công chúa về sống dưới thủy cung. Bố mệnh hệ gì, ai thắp sáng cây đèn đêm đêm… Vậy là ta lảo đảo nhụt chí, lại cho thuyền quay về ngọn Vạc…


*


… Trời đã gần Sáng. Ngọn Vạc đang cố toài ra khỏi bóng tối. Ngọn lửa nơi già Khương và Chiêm ngồi cũng tắt. Chỉ còn lại chút than củi, chốc chốc có ngọn gió thổi vào, bùng lên. Cây đèn trên đầu họ vẫn chớp loé, nhưng ánh sáng đã nhạt hơn…

– … Vây là ta đã sống trên ngọn Vạc gần bốn mươi năm. Bốn mươi năm, thật dài mà cũng thật ngắn…- Già Khương như thể trong mơ, già tâm sự nhẩn nha, giọng chân thành, tình cảm – Ta biết con gái ta vẫn lẩn quất đâu đó nơi ngọn Vạc này. Con gái ta không thể chết. Nhưng con gái ta là người âm, chẳng thể về sống trong ngôi nhà cũ được nữa. Nên ta đã xây cho con gái ta ngôi nhà mới…

Chiêm lén nhìn. Khuôn mặt gia trở nên đăm chiêu, là lạ. Đôi mắt chợt ngây dại không thật và ánh nhìn đục mờ từa tựa ánh nhìn những bà đồng khi lên điện nhập hồn…

Già lại kể rằng, những ngày tiếp đó, nhằm nguôi ngoai, ngày ngày, khi mặt trời lên, già lầm lũi, câm nín đi khắp ngọn Vạc, tìm những khối đá đẹp. Già đào bới, khuân về để vào một chỗ, giáp cây đèn biển. Rồi mải mê ghép thành hình một ngôi nhà.

Ngôi nhà, ngôi mộ của Hương hình thành dần… Các buổi sáng, sau khi lần lên cầu thang tắt đèn, già thường lân la tới đó, ngồi cạnh con gái để chuyện trò. Đôi mắt nhìn vào những khối đá như thể nhìn vào cõi hư vô… Chuyện gì cũng muốn nói, muốn kể. Nhưng thường thì những chuyện trong ngày là thích phô nhiều nhất…

” Con gái, đêm qua có bốn tàu vào cảng con ạ. Ba tàu chở hàng và một tàu chở dầu… Bố biết đó là chiếc tàu dầu vì nó không cao, mà dài. Chỉ đèn phía mũi và đèn nơi đuôi bật sáng… Tuần trước tàu ra, bố đã gửi mua cho con chiếc cặp tóc khác rồi. Chiếc cặp trước bố mua đã cũ, lại han rỉ…Bố cũng gửi mua gương lược mới. Con gái bố phải là người đẹp nhất trần gian… Bố nói con hay chuyện này, bố đã trồng được một vạt cải. Mùa đông vừa rồi cải trổ hoa vàng. Bố định trên khắp ngọn Vạc này đều được trồng cải để cuối năm, khi se se lạnh, ngọn Vạc kín một màu vàng. Con gái vẫn thích vậy mà. Nhưng bố chưa thực hiện được…Bố cũng yếu rồi…Nếu có kiếp sau, bố vẫn là cha của con, con gái nhé”

–  Nếu có kiếp sau, nhất định con gái ta lại về sống với ta. Tin vậy không, chàng trai?

Mặt biển sáng dần.

Phía đông, nơi đường chân trời đã ửng màu hồng. Biển như người ngái ngủ, hình như vẫn chưa muốn thức giấc, uể oải vặn mình trong sương sáng.

Hai người vẫn ngồi lặng bên bếp củi đã tàn. Rồi ông Khương nhìn xuống biển.

– Sáng rồi à!- Già Khương ngẩng lên và nói. Giọng  luyến tiếc.

Từ trong ngôi nhà tựa chiếc lô cốt, Hùng Gồ loải oải bước ra. Gã ngáp, vặn vọ cái thân hình cao lớn, rồi bước tới chỗ ông Khương và Chiêm:

– Lính mới, trèo lên tắt đèn. Phải biết tiết kiệm ắc quy… Thức suốt đêm à?

Ông Khương quay qua Chiêm:

– Điều ấy thì Hùng Gồ nói có lý. Ta sẽ đi với con. Ta muốn được một lần cuối, tự tay tắt ngọn đèn mà hơn bốn mươi năm qua không đêm nào ta không đốt sáng… Với nữa ta muốn từ trên cao ấy được nhìn thêm một lần mặt trời chui từ biển lên… Đẹp lắm con trai ạ. Rồi con chẳng muốn rời khỏi đây đâu…

Hai người lần cầu thang bước lên chỗ có ngọn đèn vẫn đang nhấp nháy.

Khi ngọn đèn đã tắt, họ cùng đứng lặng hướng ra biển. Duới tầm mắt hai người, thảm nước trải ra mênh mang, xanh ngợp. Từ trên cao nhìn xuống, có cảm giác như dưới đó là một khối nước dẻo quẹo, có thể xắn ra được, có thể bước lên đó. Xa xa, nền trời đang chuyển từ tím nhạt sang màu hồng tươi, và  nơi tận cùng của biển, một quả cầu khổng lồ màu đỏ nhô lên, biển sáng dần sáng dần rồi chuyển sang màu xanh đậm…

Trên nền trời và nền biển ấy, chấm phá những cánh chim đang sải cánh bay về phía mặt trời mọc… Biển, trời lung linh, huyền ảo…

Từ dưới chân núi Vạc, có tiếng còi tàu hú gọi. Già Khương vẫn chưa thôi nhìn xuống biển, tiếc nuối:

– Đã đến giờ ta phải đi rồi, con trai ạ. – Giọng ông như thể lời cuối của kẻ tử tù sắp phải ra pháp trường.

– Con đưa ông đi!

– Không. Ta ghét sự đưa tiễn.


Vẫn chiếc bị cói vắt chéo trên vai như cách đây gần nửa thế kỷ ra với ngọn Vạc, có điều bị cói đã sờn rách và khuôn mặt già Khương đã nhàu nhĩ cũ kỹ…

Già sụp khỵu trước hình thù ngôi mộ ghép bằng đá, lặng lẽ tiếc nuối vĩnh biệt con gái. Chiêm đứng phía sau. Anh bất động. Anh sợ chạm vào phút thiêng liêng nơi già. Gió rất thoảng. Sương mai vẫn đọng trên cành lá những cây ràng ràng già Khương mang về trồng bên ngôi mộ. Hai bàn tay chai sần miết miết trên những khối đá, giọng già rầu rầu:

– Đã tới lúc bố phải về đất liền rồi con gái ạ. Bố không ra thăm con được nữa đâu mặc dù bố nhớ con lắm… Nhưng con thì có thể vào trong ấy thăm bố, đúng không?  Con là người trời rồi mà… Bố dặn nhé, những ngày động biển, con chớ chiềng ra ngoài, sóng lớn có thể cuốn con đi đấy… Khi heo may về, đừng phong phanh. Con ốm là bố giận, nhớ chưa?

Ông Khương lom khom đi vòng, sờ tay lên khắp mọi phiến đá. Rồi lại ngồi lặng trước phần mộ, bịn rịn không muốn chia tay…

Có tiếng còi tàu vọng tiếp lên thúc gọi. Ông Khương nhọc nhằn đứng dậy. Ông ngoái xuống mép biển, xong lại nhìn vào ngôi mộ. Giọng run rảy:

– Bố đi nhé, con gái…

Nén cái gì đấy đang trào trong ngực, ông xoay người, bước đi. Một lát, ông dừng lại, quay nhìn. Rồi buông tiếng thở dài, và bước tiếp.

Chiêm lẳng lặng bám sau. Tới sát sườn phía đông ngọn Vạc, từ đó đã có thể nhìn rõ con tàu dưới chân núi đang sốt ruột thở phì phò, ông Khương dừng hẳn:

– Đừng yếu đuối, con trai. Quay về đi. Ta ra đây không ai đưa tiễn, khi vào trong ấy cũng không muốn có người tiễn đưa. Ta cô độc quen rồi.

Già xăm xăm bước. Một lát chợt dừng chân, quay nhìn Chiêm:

– Này con trai, phẩm chất đáng giá ở người đàn ông là biết bao dung, biết tha thứ. Người phụ nữ cần sự che chở của ta. Làm người, điều quan trọng nhất là  chiến thắng chính mình… Mọi cái rồi sẽ qua, tình yêu là vĩnh cửu- Ngừng một lát, đưa mắt hướng về nơi cao nhất ngọn Vạc, già nói tiếp: Ta muốn nói điều này nữa, người tự trọng không bao giờ để cây đèn biển không phát ánh sáng, dù chỉ một đêm, con rõ chứ, con trai … Ta đi!

Già quay nhanh và bước cũng rất  nhanh. Chiêm đành đứng trơ khấc, lẳng lặng nhìn theo. Bóng già Khương in lên mặt nước như một chấm nhỏ, khụ khị, già nua…

Lúc sau, con tàu hú lên hồi còi dai, nghe não nề như tiếng thở dài của biển, hổn hển rời bến. Chiêm căng mắt nhìn lên boong nhằm tìm bóng dáng già Khương đặng vẫy tay chào, nhưng tịnh không thấy già đứng trên đó. Con người từng trải này không muốn sự yếu đuối truyền sang Chiêm…

Con tàu nhỏ dần rồi mất hút trên biển, song Chiêm vẫn đứng lặng nhìn theo. Anh thấy buồn, thấy nhớ và thương già Khương. Có cái gì đấy tủi phận, cô đơn tựa như tình cảm của thời còn nhỏ mẹ gửi xuống ngoại, chiều chiều khi mặt trời khuất sau núi và khói lam bảng lảng trên những mái rạ ẩm ướt, buồn da diết, chỉ chực khóc.

Bất giác Chiêm thả tiếng thở mạnh, rồi lẳng lặng quay gót. Anh không đi về phía ngôi nhà tựa chiếc lô cốt có Hùng Gồ đang lười biếng chờ anh để sai phái. Anh bước về hướng có những khối đá chồng xếp lên nhau cạnh cây đèn biển mà già Khương gọi là phần mộ con gái mình…


Ánh sáng từ cây đèn trên ngọn Vạc cứ đêm đêm lại bật sáng, theo chu kỳ dọi xuống biển…

Ngày tháng trôi qua…

Ngoài việc chiều chiều thắp sáng ngọn đèn, và sáng sáng lên tắt, rồi lo hai bữa ăn, Chiêm và Hùng Gồ chẳng có việc gì nữa. Thỉnh thoảng chèo thuyền ra biển quơ mẻ cá, nhưng nấu cả tuần vẫn không hết, đành phơi khô.

Hùng Gồ hết ăn lại nằm, hứng lên chèo thuyên ra chỗ thuyên bè tụ lại mua cá, bán cá trên biển tìm gái. Gã có biệt tài trong chuyện này. Hễ đã đưa thuyền đi, khi về là khoe :”Xong rồi!”. Có lần Chiêm hỏi, cái gì xong. Gã cười nhăn nhở, bảo rằng, mới gặp, nhưng nàng có vẻ kết, tán mấy câu đã hẹn chiều nay chèo ra chỗ gần hòn Cậy gặp. Tối đưa thuyền về, mặt trương nở như bánh bao trong thùng nước gạo, lại khoe rằng tuyệt vời, có chồng nhưng háo lắm, rất nồng nàn, ướt át. Hẹn tuần sau gặp lại. Khổ, vẫn chưa kịp hỏi tên là gì. Xinh đáo để, ăn đứt mấy mụ vẫn mua cá trên Vũng Ráng…

Những lần được thỏa mãn như vậy, gã ngủ rất say. Ngáy pho pho suốt đêm.

Sau một tuần làm quen với công việc và cuộc sống nơi đây, Chiêm bắt đầu thực hiện dự định riêng của mình. Anh lần khắp ngọn Vạc tìm kiếm, rồi hì hục đào bới. Như kiến tha mồi, kiên nhẫn khuân từng thùng đất hiếm hoi nơi ngọn núi toàn đá và sỏi, về đổ xuống cạnh ngôi mộ của Hương… Anh muốn quanh đó và cả ngọn Vạc sẽ được trồng thật nhiều cải để mùa đông nơi đây chỉ tuyền một màu vàng…

Thấy Chiêm lụi cụi say sưa tìm đất, bới đất, khuân đất, Hùng Gồ thè lưỡi lắc đầu, diễu rằng đấy là việc vô bổ của những kẻ điên dại dở người.

– Màu vàng! Dớ dẩn-  Một lần, bẹt đít xuống tảng đá cạnh đấy, nheo măt về phía Chiêm, Hùng Gồ phán-  Có màu vàng thì ngọn Vạc nhiều gái theo về à?

Không thấy Chiêm trả lời, gã lại nói:

– Vẫn tin chuyện lão ấy kể? … Già rồi nên lẩn thẩn đấy.

Chiêm ngừng việc, ngước lên tỏ sự không hài lòng:

– Niềm tin cứu rỗi tất cả!- Anh nói.

– Nhảm nhí!… Chẳng có niềm tin chó nào hết. Cứu rỗi những gã đàn ông sống trơ khấc, đơn độc trên ngọn Vạc này là bẹn đàn bà!- Gã khoái chí cười khùng khục- Không có đàn bà thì lũ đàn ông chúng mình sẽ biến thành đá, thành sỏi ráo.

Chiêm chiếu vào Hùng ánh nhìn bất bình. Rồi cúi xuống dúm đất vừa được đưa về.

– Không đúng sao? Ngã ba nơi bụng dưới người đàn bà bí hiểm và mênh mông như biển, nhưng đó mới là niềm tin…  Con người bắt đầu từ đấy và cũng sẽ tìm sự kết thúc nơi đấy…

Chiêm lặng phắc như người câm.

Hùng Gỗ ngóng ra biển, rồi đứng lên:

– Đằng ấy ở nhà nhé…

Chiêm đổ thùng đất xuống, không quay nhìn:

– Lại ra đó?

– Mấy mụ nạ dòng bán cá trên Vũng Rang nói vậy chứ vẫn ngọt nước lắm… Khăn khẳn một chút nhưng vẫn là đàn bà. Không có họ cuộc sống nơi ngọn đá chết tiệt này hết sức vô nghĩa… Tớ tồn tại nhờ họ… Đằng ấy chưa ngủ với gái trên thuyền bao giờ hả? Thế là mất đứt một nửa cuộc đời rồi. Chòng chành, chòng chành, hay lắm…- Khuôn mặt Hùng Gồ méo mó – Hôm nay đi với tớ… Đẹp trai như cậu tới đó, cả mớ cặp mông loảy ngoảy chèo thuyền rượt theo…

Chiêm dùng chân san đất phẳng ra.

– Đằng ấy muốn ngọn Vạc biến thành màu vàng, còn tớ, biết tiêu thời gian vào đâu… Ở đây ngày dài lắm…

Chiêm vẫn không ngẩng lên. Anh vớ chiếc thùng sắt tây vẫn đựng đất, bước đi…

Hùng Gồ nhìn theo:

–  Niềm tin? Chẳng rõ trong đầu hắn cấu tạo bằng thứ gì!

Hùng tất tả xuống dốc, đi về phía chiếc thuyền con vẫn buộc bên mép nước…

Những tối, sau khi hú hí với gái trên biển về, Hùng Gồ thường lắm lời. Gã thả lưng trên phản, thao thao liên hồi, khoái chí tường thuật tỉ mỉ từng động tác, từ cách xoay trở, từ tiếng thở hổn hển, rồi hớn hở, tự hào vạch áo khoe những vết cào đỏ mọng nơi bả vai. Gã say kể lại chuyện làm tình như mụ đàn bà tò mò lắm lời, không chịu nổi nếu không phô ra với ai đấy những điều bí mật nghe lỏm được…

– Có mụ điên lên, không chỉ cào cấu, vặn vọ, còn rên rẩm la hét om sòm, rồi kêu trời, gọi mẹ… Quằn quại, gào to tựa dê bị chọc tiết… Tiếng các mụ rú loang ra trên biển hay đáo để. Giữa bao la, không bị kìm giữ, cứ hồn nhiên mặc sức gào… Có mụ lại khóc hu hu, hỏi tại sao thì đáp rằng sướng không chịu nổi, nên khóc. Sợ rằng không được thế nữa. Mẹ khỉ, không thỏa mãn thì xỉu xo, héo rũ như lá trước nắng, mà cho khoái cảm tới tận cùng lại dòng dòng mước mắt…

Thấy Chiêm nằm im, Hùng Gồ xoay nhìn sang. Ngọn đèn dầu le lói trong ngôi nhà chật hẹp soi rõ khuôn mặt Chiêm, câm nín như thóc, đôi mắt lờ đờ. Hùng Gồ lại vật xuống phản, sởi lởi:

– Đàn bà vùng biển mạnh mẽ, trời phú cho họ năng lực giống cái tuyệt vời.  Khoẻ như tớ cũng chỉ là muối bỏ bể… Có mợ trước khi tuột quần ra, còn vênh mắt lườm ngang đe rằng, lượng sức đi, nếu để mợ thêm ngưa ngáy khó chịu, sẽ bị quẳng xuống biển làm mồi cho cá… Khiếp, mợ nào cũng như thùng không đáy. Chồng cập kè bên cạnh mà háo thèm như thể góa bụa, bị bỏ đói hàng năm. Khi lên cơn thì thôi rồi… Trời cũng bằng vung…

Chiêm nằm ngửa, hai mắt nhìn lên trần nhà, như là nghe mà không nghe.

– Đàn bà là cái thứ rất khó hiểu. Khám phá mãi vẫn không hết… Họ sẵn sàng cho ta, vụng trộm cùng ta, nhưng hình như giữa ta và họ vẫn có một khoảng trống, một giãn cách… Đàn bà… lạ lắm…

Chiêm vẫn không hé miệng.

”Anh ơi, nhưng đó không phải là tình yêu… Em thề… Em yêu anh lắm!…”. Tiêng Huệ tức tưởi nghẹn ngào chợt vọng tới. Và hình ảnh cô chới với trong mưa gió nơi cửa chòi canh ngô chập choè trên trần nhà…

Chiêm gắng trốn tiếng thở dài,  xoay người nằm nghiêng, quay lưng về phía người ở cùng nhà.

Hùng Gồ đang hưng phấn, hai mắt mơ màng, gã ri rỉ hát. Lời bài hát không  rõ nhặt được ở xó chợ nào, hết sức tục tĩu. Toàn mô tả chuyện đực cái làm tình và sự thèm thuồng đàn ông rất lộ liễu nơi đàn bà…

Một lát Hùng Gồ nhổm dậy:

– Này, quay lại tớ cho xem mấy thứ , hay lắm.

Gã mở chiéc thùng sắt tây tựa chiếc quan tài nho nhỏ vẫn để tư trang đầu tấm phản…

Chiêm vẫn bất động.

Hùng Gồ không để ý đến thái độ của Chiêm, gã lôi trong thùng sắt tây ra từng chiếc quần lót đàn bà, đưa lên trước ánh đèn, say sưa lật qua lật lại, ngắm ngó. Gã có sở thích sưu tầm quần lót những người phụ nữ đã ngủ với mình. Rồi gã nói, nói bằng sự  ma mãnh khoái cảm của người thích khoe chiến tích:

– Chiếc màu hồng này là của em đã hai con. Hai con nhưng vẫn phốp nở lắm. Ngực vẫn rắn tròn, còn cái khoản ta… ôi giời, đầy đặn, thơm phưng phức. Khi tớ tỏ ý xin chiếc quần nhỏ làm kỷ niệm, nàng nhoe miệng cười, đồng ý ngay. Còn khen rằng lãng mạn, giá như chồng nàng cũng ướt át như thế, chê là hắn thô mịch, tối tối chỉ biết xoa chân, lên giường, tuột quần vợ, vội vội như cá trắm đớp mồi, xong là rụng xuống ngáy, chẳng biết của vợ tròn hay méo… Hi hi, nàng dặn đừng giặt … Có điên mới để mất hương vị là lạ này – Hùng Gỗ nhíu mũi, đưa chiếc quần khâu bằng thứ vải mỏng, mầu hồng lên, hà hít… – Tớ nghe người ta kể rằng lão Nã Phá Luân bên tây, mỗi lần đi xa trở về nhà, đều cho người phi ngựa về trước lệnh với vợ rằng không được tắm… Thằng khốn ấy mới thật là kẻ lọc lõi, sành chơi… Con cái hấp dẫn và hút con đực, để lại ấn tượng và nhớ lâu là nhờ cái mùi đặc trưng nơi các bộ phận trên cơ thể tỏa ra khi phát dục. Mất cái mùi khơi gợi nguyên thủy ấy còn thú vị đếch gì nữa… Không được tắm trước khi gặp nhau… giỏi thật!

Gã thả nhẹ chiếc quần vào thùng, lại lôi chiếc khác ra.

– Còn chiếc này của mụ Loan – Cá – Hồng. Chẳng rõ sao mụ có tên kỳ quái như vậy. Chắc buôn nhiều cá hồng. Chồng bị bão cuốn xuống biển chưa đầy nửa năm nhưng xem ra khó có thể thiếu đàn ông. Cứ thun thút như cắm mạ xuống ruộng ngấu. Khiếp! Mấy cũng kêu chưa đã… Quần mới khâu nhé… Khi mình cầm lên còn bảo rằng, nếu thích, lần sau cho chiếc sờn sờn, nhiều hơi, tha hồ ngửi… Nhiều mụ giằng lại, biết quần khai nồng, xấu hổ. Những thoang thoảng một chút như vậy mới hấp dẫn, mơi gợi… Sao, không xem à?

Chiêm tò mò quay nhìn, chẳng rõ sao những chiếc quần lót đàn bà trên tay Hùng Gồ làm anh khó chịu. Đầu nóng ran, như thể có vật gì đang gõ trong đó, Chiêm bực bội quay phắt. Khuôn mặt lạnh đanh.

– Sơ sơ cũng có đến bảy tám chiếc rồi… – Hùng Gồ vẫn vô tư – Chẵn hai chục là vừa thời gian được về đất liền..

– Thôi!- Chiêm hét to, hai tay đưa lên bịt chặt tai.

– Cái gì?- Hùng Gồ khó hiểu lườm sang- Khối thằng cao đạo, cuối cùng gục chết nơi hĩm đàn bà… Không thích chiêm ngưỡng nữa thì ngủ, nhé.

Hùng Gồ đưa mấy cái quần lót lên mũi lần nữa, rồi cho vào thùng, đóng nắp lại, với lên thổi tắt ngọn đèn dầu.

… Trời tối mịt.

Chỉ có ánh sáng nơi đỉnh ngọn Vạc vẫn chớp loé, lặng lẽ hắt xuống biển…

Một đêm trong những đêm như vậy, cơn lốc đột ngột đổ về. Gió thốc mạnh như âm binh sầm sậm kéo quân quần phá trên mái nhà. Hùng Gồ và Chiêm cùng bật dậy. Bên ngoài, trời mịt mùng. Rồi mưa đổ xuống. Tiếng sóng đánh vào chân ngọn Vạc ầm oàm như súng thân công nổ.

– Hả, có phải bão?- Hùng hớt hải nói, rồi im nín nhìn ra.

Chiêm ngồi trên phản dỏng tai nghe. Tiếng mưa, tiếng sóng sầm sập… Chợt, trong mớ âm thanh hổ lốn ấy, mơ hồ như có tiếng gọi… Tiếng gọi rất mảnh, chập chờn nhập nhòa khăc khoải, nhưng có cái gì đấy thất thanh, khẩn thiết… Chiêm nhìn sang Hùng như muốn xác định thêm.

– Hình như… kêu cứu…- Hùng gồ nói, rồi buông một câu: Như ma…

Hai người cùng ngồi lặng. Tiếng kêu đuối hơi ấy đã bất lực, méo mó nhưng mỗi lúc một cấp bách. Rõ ràng dưới chân ngọn Vạc có người cần giúp đỡ.

Chiêm tụt chân xuống phản. Hùng Gồ gàn:

– Đừng! Ra đó, gió sẽ ném xuống biển. Ma đói đấy …

– Rõ là tiếng người mà…

– Ma chết trôi biển không là người?

Trộn trong tiếng mưa, tiếng kêu dưới chân núi mỏng hơn, nhưng nghe rõ hơn:

– Cứu vớ…ới!

– Ma! Đã bảo là ma- Hùng gồ sợ hãi nhắc lại…

Chiêm với chiếc mũ lá, chụp vào đầu và khoác thêm chiếc áo tơi, bật ra khỏi nhà .

Tiếng Hùng gồ đuổi phía sau:

– Liều!

Chiêm ào xuống phía mép nước. Gió và mưa như những làn roi xối xả quất vào người. Ngọn Vạc vật vã. Không phân biệt được đâu là trời đâu là biển…

Lần theo tiếng kêu đã đuối, Chiêm tới chân núi. Kề mép biển, một người người đàn ông sõng sượt tựa mớ dẻ rách dính xuống bãi đá, tuyệt vọng thở mệt nhọc, yếu ớt, thỉnh thoảng miệng há ra đớp đớp như cá giếc hắt lên bờ. Chiêm sa tới.

– Cứu… với…-  không còn sức, người đàn ông hắt ra.

– Dân đánh cá?

– Thuyền chìm rồi… Tôi…  may mắn vào được…

– Gắng nhé!

Chiêm cúi xuống, đỡ người đàn ông, dìu lên dốc… Hai người tựa vào nhau, xiêu vẹo bước.

Hôm sau cơn lốc tan. Ngọn Vạc như người vừa qua trận cảm hàn, trùi lũi, phờ phạc. Nhưng dưới chân núi, biển xanh trở lại, hơn hớn cởi mở tựa cô gái dậy thì vớ được tấm chồng ưng ý.

Người thuyền chài đã đỡ hoảng loạn. Anh kể rằng dù kinh nghiệm đi biển đến mấy, không ai ngờ cơn lốc có thể ập tới một cách bất chợt, nhanh đến vậy. Khi nhận ra, thuyền đã bị lật. Số phận bạn hữu đi với anh ra sao, không rõ. Tỉnh lại  may mắn nhận biết mình đang nằm dưới chân ngọn núi có cây đèn biển. Lúc đó mới dám tin rằng còn sống…

– Nói dại, tôi có mệnh hệ gì, ba mẹ con ở quê chỉ còn nước bị gậy ra đường.

– Anh làm nghề biển lâu chưa, mà không nhận ra sự đỏng đảnh của biển?- Chiêm hỏi.

– Cũng biết đi biển là nghề nghề nguy hiểm, nhưng làm sao được, số rồi. Với nữa phải kiếm cái ăn… Sinh nghiệp, tử nghiệp…

–  Giáp làng tôi cũng có một làng chuyên làm nghề biển… Làng Cọt.

– Làng Cọt? Tôi người làng Cọt đây!- Người đàn ông ngẩng lên, thân thiện nhìn Chiêm- Không có ruộng, đành bám vào biển sống thôi.

– Anh người làng Cọt à? Tôi ở Hoàng Giáp…- Chiêm sởi lởi-  Xã anh giáp chợ huyện, đúng không?

– Kề sông Châu.

– Tôi nhớ rồi, người làng tôi vẫn chèo thuyền chở củ cải qua sông, sang bên ấy bán.

– Củ cải làng anh ngon nức tiếng khắp vùng…- Người bị dạt vào ngọn Vạc nói.

– Chỉ trồng trên cát mà  thơm, mềm lại ngọt …

– Vậy là đồng hương rồi. – Người thuyền chài bị nạn ngồi xuống một phiến đá. Chiêm ngồi xuống theo. Trước mắt họ vẫn là biển- Tôi gốc làng Cọt, nhưng có cô em gái lấy chồng Hoàng Giáp, với nữa đứa con thứ hai theo cô nó sang Hoàng Giáp học, nên với tôi, quê anh cũng thân quen, cũng thuộc như làng Cọt…. Anh ra đây lâu chưa?

– Hai năm có lẻ… Này, cho hỏi chút, thế… thế ở Hoàng Giáp, anh biết gia đình cô Hiền?

– Người  xóm Bốn ? Năm nay chừng trên ba  mươi?…

– Đúng!

– Anh là… Có phải anh trai cô Hiền? Nghe nói cô ấy có ông anh ra tít ngoài biển sống, đã mấy năm không về…

Im lặng một lúc, Chiêm hỏi:

– Anh nói là thuộc Hoàng Giáp, vậy có biết một người tên là… Huệ không?

– Hoàng Giáp có những ba người tên Huệ. Một Huệ làm nghề thả lưới tìm tôm tìm cá trên sông. Anh này ngủ trong thuyền, sống trong thuyền, ít khi về làng, một Huệ thợ rèn và anh nữa tự dưng bỏ làng đi từ đâu năm, người nhà tìm khắp, vẫn không thấy… Nghe đâu bị tâm thần.

– Không, phụ nữ… Năm nay trên ba lăm…

– Nữ à? Vậy chắc là cô Huệ ở xóm Chín, người phụ nữ xinh đẹp nhất làng. Cô ấy đã có con, năm nay cháu bé cũng đã gần ba tuổi…

– Con gái hay con trai?

– Hỏi điều này đừng tự ái nhé. Có phải anh là bố đứa trẻ?

– Cô ấy nuôi con một mình hay sao mà hỏi vậy?

– Nghe dân làng thóc mách rằng trước đây lấy một thuỷ thủ người cùng làng. Nhưng chẳng rõ lý do gì, người thuỷ thủ về phép rồi đi biệt tích. Còn cô Huệ sau đó sinh con… Từ đấy ở vậy… Cũng nhiều người muốn làm bạn nhưng không nghe. Hình như vẫn nấn ná, có ý chờ người trai cùng làng … Năm vừa rồi dựng căn nhà giáp bờ sông. Và trồng cải sinh sống…

Chiêm giấu tiếng thở mạnh. Một vạt cải toàn hoa vàng trông như những tấm thảm ven sông dội lên trong tiềm thức. Và đôi mắt nơi vạt cải ấy thăm thẳm, có cái gì đắm đuối khó quên…Chiêm đờ đẫn như người trong mơ…

Người thuyền chài hỏi:

– Anh định ở trên ngọn Vạc mãi à?

Chiêm không đáp. Anh ngồi lặng nhìn ra. Một lúc, nói:

– Lòng người cũng mênh mông như biển vậy…

Rồi Chiêm đứng dậy:

– Chờ tàu ra, tôi sẽ gửi anh về trong đó…

Anh bước về phía ngôi mộ của cô gái xấu số. Thấy loa lóa  trước mắt rất nhiều vạt cải đang trổ hoa vàng…

Câu chuyện vô tình của người thuyền chài đánh thức cái gì đó vẫn ẩn náu trong lòng, khiến Chiêm bất an.

Đêm đó Hùng Gô đã ngáy và người thuyền chài làng Cọt cũng đã thở đều đều, nhưng Chiêm không chợp mắt. Anh tỉnh băng… Vắt chéo tay làm gối, nhìn lên trần nhà, anh chòng chành, vừa đau xót, vừa nuối tiếc… Ánh sáng lờ nhờ từ cây đèn chốc chốc quyệt qua cửa sổ khiến anh nhớ tới đèn “măng sông” nhấp nhóa nơi sân đình…

… Chiếu chèo.

Sân đình rất đông ng­ười. Trong vai thị màu, Huệ đang đa đoan tán thị Kính. Ánh mắt lẳng lơ:

” Anh nh­ư táo rụng sân đình

Em nh­ư gái dở đi rình của chua…”

Nhiều tiếng c­ười, nhiều tiếng vỗ tay:

– Diễn giỏi quá ! Không khác gì diễn viên chuyên nghiệp…

Chiêm đứng lẫn vào đám đông, nhìn lên sân khấu, thấy vui… Chợt Thị Mầu trở nên  buồn bã. Tiểu Kính đã khước từ tình cảm của cô…

Khỉ gió, người đâu mà… là thày tiểu ơi…”

Thị Mầu quay cuồng rất thật trong tình yêu đơn ph­ương của mình…

– Đất chèo, có khác – Một người đứng cạnh Chiêm bình luận – Cô cậu nào hát cũng hay, múa cũng dẻo.. . Vào vai cứ như thật

Đến đoạn lão xã trưởng tán tỉnh mẹ Đốp, Chiêm lần ra phía sau sân khâu có ý đợi.

…  Tan buổi, hai người lỉnh ra bờ sông.

– Em hát hay quá. Ai cũng khen…

– Em hát hay vì biết có anh đang nghe …

Ánh trăng nồng nỗng chiếu xuống, suồng sã… Hai người tựa vai đi bên mép sông Châu. Rồi cùng ngồi xuống cạnh những vạt cải. Mùa đông, những ngồng cải nở hoa vàng rực. Chiêm xiết chặt Huệ, vụng dại đưa tay tháo cúc áo nơi ngực cô.

– Anh xin, được không?.

– Đừng!

– Em sợ?

– Để dành!

–  Có phải anh hư và tham?

– Không! Em thích anh hư như thế… Nhưng muốn để dành…

– Tiếc?

– Em muốn chúng mình trong trạng thái chờ đợi… Như vậy thích hơn…

– Anh muốn ăn khi đói cơ!

– Vây… ăn  đi… Của anh…

– Không… Anh cũng muốn để dành… Dành đến ngày cưới nhé?

– Là bao giờ?

– Đợt phép sau… Anh ra biển mấy chuyến nữa…

– Lâu!- Thơm nói rồi vít cổ anh xuống, đặt một cái hôn lên má…

– Mai em có việc phải lên chợ huyện. Đi với em không?

– Chợ huyện là chỗ rất vui! Hồi nhỏ anh thương theo bà ngoại lên đó… Còn mè nheo đòi mua kẹo mạch nha nữa …

– Chợ huyện quê mình kẹo mạnh nha ngon nhất vùng đấy. Em cũng thích kẹo mạch nha.

– Vậy ngày mai anh chiều…

– Em yêu anh lắm! .

Duới kia, con sông lặng lờ trôi…

Chiêm trở người nằm nghiêng. Vẫn không ngủ được. Dòng sông ấy vừa phong giữ hạnh phúc vừa chứng kiến nỗi đắng chát ê chề . Tiếng Huệ đầy ắp niềm vui:

“Về mà không báo trước với em một câu”.

“Không thích thế này a?”.

“Thích! Ấn tượng. Nhưng anh đi rồi nhớ không chịu nổi, sợ lắm”.

” Sợ sao?”.

“Không biết!… Anh cứ biền biệt, không chịu được em đi với người khác đấy.!”

Và tức tưởi trong nước mắt:

“- Chưa lúc nào em không yêu anh, nhưng … em chẳng rõ tại sao nữa… Có thể em đã yếu đuối, nhẹ dạ và bởi vậy trở thành kẻ dại dột, có lỗi… Em không mong anh tha thứ. Em cũng chẳng nghĩ rằng mình được như vậy… “

Rồi tỉnh hơn:

“- Em muồn anh nghe em một lần cuối nữa, một lần để rỗi mãi mãi anh là quá khứ, dẫu rằng anh tha thứ thì ẹm cũng không thể đến với anh…”

– Thôi!

Chiêm đám mạnh nắm tay xuống phản, vô thức hét to.

Anh vùng dậy, hoảng loạn chuyếnh choáng tuông ra khỏi ngôi nhà:

– Không đúng! Không đúng!

Hùng Gồ và người thuyền chài giật mình bật lên như lò xo. Hai người ngơ   ngáo nhìn nhau.

– Có việc gì thế? – Thấy Chiêm thốc ra khỏi nhà như ma làm, Hùng Gồ hốt hoảng hỏi.

– Hay là…- Người thuyền chài nói.- Chắc nằm mơ…

– Mơ con khỉ… Thiếu đàn bà nên bị hành, ức chế đổ bệnh ra vậy. Bảo theo ra biển giải tỏa lại cao đạo không nghe….

Hùng Gồ thả mình xuống phản, lép chép miệng ngủ tiếp.

Ngọn đèn nơi cao nhất ngọn Vạc vẫn đều đặn theo chu kỳ chớp loé, chiếu sáng ra biển.  Vẫn đơn điệu âm thanh của gió, của sóng. Đêm lặng lẽ trôi…

Đ.K

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder