Ngày 10-9, tại Hà Nội, Thạc sĩ Phạm Văn Tuấn (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) nói về một bức tranh của Trung Quốc gây nhiều ngạc nhiên nhưng có nhân vật là người Việt Nam..
Ngày 10-9, tại Hà Nội, Thạc sĩ Phạm Văn Tuấn (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) nói về một bức tranh của Trung Quốc gây nhiều ngạc nhiên nhưng có nhân vật là người Việt Nam.
Điều gây ngạc nhiên đầu tiên là họa phẩm này được đã được đấu giá thành công với mức giá “ở trên trời”. Tại cuộc đấu giá “Trung Quốc thư họa”do Công ty đấu giá Bảo Lợi tổ chức ngày 23-4- 2012, giá khởi điểm của bức tranh chỉ 1000 nhân dân tệ (khoảng 160 USD) nhưng qua nhiều vòng tranh giá, giá cuối cùng được thông báo là 11,5 triệu nhân dân tệ (khoảng 1,8 triệu USD) – một con số “không tưởng” (!). Điều đáng nói đây chỉ là bản phục chế cao cấp được Bảo tàng Liêu Ninh (Trung Quốc) thực hiện bằng kỹ thuật cao và đã được triển lãm từ năm 2006. Tin này đã làm xôn xao dư luận những người quan tâm đến nghệ thuật, cổ vật, lịch sử, văn hóa. Thậm chí có nhà nghiên cứu còn cho rằng đó là một “hiện tượng phi lý tính”. Thông tin về người mua không được tiết lộ càng làm tăng thêm sự kỳ bí xung quanh tác phẩm. Người ta cũng cho rằng một bản phục chế đã được mua với giá cao “ngất ngưởng” như vậy thì bản gốc là vô giá.
Điều gây ngạc nhiên tiếp theo ở trong nội dung bức tranh. Theo chữ đề trên lạc khoản, kiệt tác mỹ thuật này được họa gia Trần Giám Như vẽ năm Chí Chính thứ 23, đời Nguyên (1363). Nhân vật chính làm nên cảm hứng của tác phẩm lại là một người Việt Nam rất nổi tiếng: Trúc Lâm sơ tổ – Điều ngự giác hoàng Trần Nhân Tông. Bức tranh vẽ cảnh vua Trần Anh Tông đón vua cha Trần Nhân Tông từ động Vũ Lâm (Ninh Bình) về kinh sư. Bức tranh có 82 nhân vật, phía Trần Anh Tông ra đón có 61 người và đoàn Trần Nhân Tông trở về từ núi có 21 người, ngoài ra còn nhiều chi tiết khác: tùng, lau, voi trắng chở kinh, hạc dẫn đường, ngựa, quang gánh, các đồ đạc tùy tùng… Cùng với bức tranh còn có nhiều lời bình, dẫn của các danh sĩ đời Minh. Các lời bình, dẫn (đi kèm) trong tranh hầu hết được viết trong khoảng những năm 1420 – 1423. Bức họa của Trần Giám Như cùng với thư pháp đặc sắc của họ tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật họa – thư độc đáo. Theo bản dịch của nhà nghiên cứu Nguyễn Nam (Đại học KHXH&NV TP Hồ Chí Minh) trên Tạp chí Nghiên cứu Hán Nôm số 2-1999: Bài dẫn của Trần Quang Chỉ – “kẻ học đạo Phật ở sông Lô” (?), nhân thấy được tranh cảm thuật đôi điều đại khái, viết ở bên trái bức họa để các bậc toàn tri xem, khiến cho công nghiệp, đức hạnh của đại sĩ không bị mai một… viết rất tỷ mỷ về thân thế sự nghiệp của Trần Nhân Tông, những giai thoại, thậm chí chỉ dẫn “nguồn tư liệu” có thể tra cứu sự tích của đại sĩ là tác phẩm Truyền đăng lục (?). Lời bình của Dư Đỉnh, viết năm 1420, sau khi được Trần Quang Chỉ cho xem tranh và nhờ viết bài ký: Bức tranh miêu tả Trúc lâm đại sĩ ngồi trên cáng. Các tùy tùng đều khoác áo tăng. Voi trắng chở kinh đi ở sau cùng. Phía trước voi có người đội mũ vàng, cưỡi trâu, đó hẳn là đạo sĩ Lâm Thời Vũ (?). Cung nghênh trên đường chính là con của đại sĩ, người nối ngôi, thay cha trị nước… Những điều này cho thấy Trần Nhân Tông là nhân vật được quan tâm và được nhiều người biết, được ghi dấu trong thư tịch rất sớm.
Điều gây ngạc nhiên thứ ba là toàn bộ tác phẩm dài tới gần 10m (961 x 28cm) riêng phần tranh có kích thước 316 x 28cm, được vẽ trên giấy xuyến. Mặc dù vẽ theo phong cách thủy mặc của Trung Quốc nhưng các chi tiết trong tranh không tượng trưng, ước lệ như tranh thủy mặc mà được vẽ rất thật. Con người, con vật (đặc biệt là voi), tỉ lệ, không gian trong tranh mang đậm màu sắc Việt. Trang phục của quan lại (mũ giống nhau) và một số đồ họ cầm theo có nhiều chi tiết chưa giải mã được (gậy cắm lông chim)… Điều này đặt dấu hỏi về tác giả bức tranh và về nguồn tư liệu (nguyên liệu) để ông vẽ những chi tiết “khó hiểu” đó. Cũng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Nam: Sách Thạch cừ bảo cấp bí điện châu lâm tục biên (đời Minh) miêu tả khá kỹ: Tranh vẽ trên giấy hoa tiên, ngang 8 thốn 8 phân (khoảng 30cm), dài 9 xích 6 thốn (khoảng 3m) vẽ rõ chuyện quốc vương An nam Trần Khâm nhường ngôi rồi sau xuống núi. Trên bức tranh có rất nhiều triện của các danh gia (viết các lời bình, dẫn), của các tàng gia (nhà sưu tập), của Nhà nước (các kho lưu trữ). Đặc biệt trên lạc khoản có triện của Trần Đăng (1362 – 1428) là bậc “thượng thủ” viết triện đời Minh, đến nay còn để lại nhiều tác phẩm.
Điều gây ngạc nhiên thứ tư ở sự ảnh hưởng lan tỏa và nỗi truân chuyên của tác phẩm. Không chỉ có giá trị và gây ngạc nhiên, xúc động cho người đương thời, “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ” còn là nguồn cảm hứng cho nhiều sáng tác khác trong các đời sau. Đến nay còn lưu lại một nghiên mực sáu mặt chạm khắc công phu dựa theo những chủ đề, cảnh tượng trong “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ” của nghệ nhân trứ danh Trình Quân Phòng (thời Minh). Các nghệ nhân đời Thanh còn tiếp tục mô phỏng tuyệt tác của họ Trình để làm nghiên mực gốm sứ. Câu hỏi vì sao lại có hiện tượng này được giới nghiên cứu đặt ra và chưa có lời giải đáp.
Đến đời Thanh, bức họa – thư “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ” được sưu tập, bảo tồn trong hoàng cung. Năm 1922, Phổ Nghi – ông vua cuối cùng của nhà Thanh – tuy đã thoái vị nhưng vẫn ở trong Tử cấm thành đã bí mật “tuồn” ra ngoài hơn 1.300 bảo vật. Những báu vật này lưu lạc trong cuộc chiến đến năm 1949 mới trở về Bảo tàng Đông Bắc (nay là Bảo tàng Liêu Ninh, Trung Quốc). Bức họa – thư “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ” ở trong số báu vật truân chuyên nhưng vẫn còn may mắn đó.
Điều đáng ngạc nhiên thứ năm là những tư liệu về Phật hoàng Trần Nhân Tông trong bức họa khá tươi mới. Họa phẩm “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” được sáng tác sau khi Trần Nhân Tông xuất gia hơn 60 năm và sau khi ông viên tịch chỉ hơn 50 năm. Đến nay bức họa đã 649 năm tuổi. Các lời bình, dẫn xuất hiện sau bức họa chừng 50 – 60 năm. Đại Việt sử ký toàn thư cũng đã ghi lại việc xuất gia tại động Vũ Lâm của Phật hoàng Trần Nhân Tông nhưng sau niên đại của bức họa – thư này gần 300 năm. Chân dung Trần Nhân Tông dù được họa theo lối ước lệ thủy mặc thường thấy của hội họa Trung Hoa cổ nhưng mang giá trị cao hơn hẳn những tranh, tượng (cũng rất hiếm hoi) về ông có niên đại muộn hơn nhiều.
Dư Đỉnh trong bài bình (1420) viết: “Người Nam Giao vẽ lại sự kiện nhất thời và hoan hỉ truyền xem” (?) Nguồn gốc (quốc tịch) của Trần Giám Như cũng còn nhiều tồn nghi: Đồ hội bảo giám không gọi ông là Hàng Châu nhân – người Hàng Châu, mà chỉ nêu là cư Hàng Châu – sống ở Hàng Châu. Trong lịch sử hội họa Trung Quốc, các sách Đồ hội bảo giám,Thạch cừ bảo cấp tục biên… cho biết ông là tay bút truyền thần đệ nhất thời Nguyên. Không rõ giữa nhân vật chính và tác giả bức tranh có những mối liên hệ và ảnh hưởng nào để ông vua rạng danh nhất triều Trần của Việt Nam lại là nguồn cảm hứng và trở thành nhân vật chính trong bức tranh của họa gia được xếp vào hàng “thượng thủ” vẽ truyền thần thời cuối Nguyên, đầu Minh. Hoàn cảnh và những duyên do sáng tác của bức họa – thư là những vấn đề còn phải tiếp tục nghiên cứu.
N. T
(Nguồn Báo Nhân Dân)