
Có lần tôi hỏi ông về bút danh Thọ Vân. Ông nói, đó là số phận. Số phận đã đưa ông lên sinh sống tại tầng năm khu tập thể Vạn Mỹ, gần với mây trời (Ngày ấy, tầng năm là cao nhất của các tòa nhà trong thành phố). Gần với mây trời, ông phóng chiếu cặp mắt nhìn thấu những điều đẹp đẽ qua lăng kính sắc màu, để lòng mình tĩnh tại hơn, an nhiên hơn trong kiếp nhân sinh: “Sao anh có thể nói ra/ Những điều nhận thấy/ Về con thuyền vàng/ Giữa biển trời và đảo mây/ Đã làm anh đến khóc” (“Con thuyền vàng”). Và vầng trăng cũng trở nên gần hơn, như người bạn bên mình cùng ông tâm sự. “Tiếng nói riêng trăng sáng ảo huyền kia,/ Bên chiếc bàn anh chẳng nghĩ ra,/Hạnh phúc sao dễ gần đến thế!”(“Trăng sáng”)
Hạnh phúc gần ngay bên ta nhưng không phải ai cũng nhận ra. Hạnh phúc với ông rất giản dị bởi ông là một nghệ sĩ đích thực. Chất nghệ sĩ chảy trong huyết quản, hằn trong từng nếp nghĩ và cách ứng xử của ông với con người, với thiên nhiên. Chất nghệ sĩ mơn man trên từng con chữ
Khi ở “trên mây”, hình ảnh khiến ông xúc động nhất đó là nhìn thấy người mẹ. Rất nhiều bài thơ xúc động khi ông viết về đấng sinh thành. (“Trên Con sông mẹ đã đi qua”), ông nhìn thấy: “Mẹ tôi đã qua sông đó,/ Để lại dấu chân thon nhỏ. Chảy theo bờ phù sa,/ Xuống dòng sông nắng lóa,/ Con ngựa trắng đến đây mỏi vó,/ Thản nhiên uống từng ngụm mặt trời./ Trong im lặng không lời,/ Trái tim mẹ hát.” Người mẹ là thiên thần hiện ra trước mắt ông, là cả thế giới trong cuộc đời ông: “Con đi con giữ/ Màu của thời gian/ Con đi tái hiện/ Thế giới con nhìn/ Mẹ đi trong đó (“Mẹ”)
Từ trên “tầng mây” ông ngắm nhìn “Chiều thoi thóp trên những mái nhà tập thể” thấy mình cô đơn giữa dòng đời: “Như anh đi giữa phố dài/ Thấy bóng mình đã mất/ Trong hàm răng của chiều” (“Thơ chiều”) Tôi muốn nói đến bài thơ này của ông bởi, chiều nào ông cũng tự “nhốt” mình trong phòng để được cô đơn đối mặt với toan vẽ, với con chữ. Tôi hay đến chơi với ông vào buổi chiều, và cùng ông im lặng làm việc. Và cũng bởi, bài thơ có những nét tạo hình, những sắc màu gây ấn tượng cho tôi: “Con bò đen chậm chạp/ Kéo lê từng vệt chiều vàng/ (…) Buổi chiều vắt trên mặt héo khô/ Như quả trám mùa đông run rẩy”
Ông là người lãng tử. Đối với những người đẹp, dù chỉ là đi qua như một giấc mơ hay đi qua như một nỗi buồn hay đã từng đau đớn trong ta…. nhưng tất cả những người đẹp ấy đều là: “Những người xưa đẹp mỏng manh/ Như muôn mảnh sáng long lanh hồn mình” (“Những người đẹp xưa”) Và trong bài (“Khuôn cửa”) ông đã: “Anh buộc vầng trăng,/ Trên mái gác nhà em”. Có lần cùng ông đi trên đường phố, ông nói đùa: Sao mấy cô gái trẻ kia cứ nhìn tao mà không nhìn mày. Tại cái chất nghệ sĩ hiện diện trên con người ông không chỉ trong máu mà hiện ra cả trên khuôn mặt tạo hình vững chãi, mái tóc dài phồng lên, trông ông như một con sư tử hiền lành.
Có lần tôi với ông đi chơi chợ Hàng (Ngày ấy chợ Hàng họp ở ngã ba Đình Đông – Hàng Kênh). Vì chủ đích là đi ngắm cây nên hết đoạn bán cây tôi lên xe đạp tiếp. Ông bảo, cưỡi xe đạp xem hoa thì sao thấy đẹp. Tôi chống chế, đoạn này không bán hoa. Ông bảo, ra chợ chỗ nào cũng có hoa. Bởi “Chợ phiên nghiêng rộn tiếng cười”. Ông luôn nhìn cuộc sống bằng con mắt đa cảm đầy tình người của người làm nghệ thuật. Cho dù cuộc đời còn ít niềm vui, cuộc sống còn ngột ngạt nhưng ông vẫn: “Vẫn nâng cốc rượu cuộc đời/ em ơi uống cạn/ Và cầm tay bè bạn/ đi tìm dấu vết của mình/ Giữa vô vàn sỏi cát. (“Giữa sỏi cát”)
Ông nghiêm túc trong lao động nghệ thuật. Quan sát cuộc sống rồi sáng tạo thông qua con chữ, qua nét vẽ đó là niềm say mê và hạnh phúc của ông. Trong bài thơ (“Phù Long”), với nội dung ca ngợi người dân chài trên đảo Phù Long trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới và chiến đấu chống lại “Giặc Mỹ bay gào qua ngày qua tối” ta vẫn tìm thấy những câu chữ đầy tìm tòi, có tính nghệ thuật cao như “Con cá lớn lún chân người vác”, hay “Vọng tiếng bom lan qua vai núi”, “Đạn Mỹ, bão dông lạc đường chim biển/ Máu người hy sinh vẫn về với quê nhà”.
Và khi xuống phố, hòa cùng nhân gian, cùng với sỏi cát “Chúng ta nhiều như sỏi cát”, chính là lúc con người họa sĩ và thi sĩ trong ông hòa quện vào nhau. Ông tạo hình nhân vật, quết những mảng màu tương phản ánh sáng bằng con chữ. Ông tạc (“Người thợ ngủ”) bằng những con chữ mà người đọc cứ ngỡ mình đang ngắm một bức tượng vâm váp. “Người thợ nằm ngủ/ Bắp thịt cuộn trên anh/ Phập phồng như sóng/ Máu tràn réo sôi”(….)/ Người thợ nằm ngủ/ Như cơn bão ngủ/ Bàn tay cho ngày mai/ Xòe ra như hoa nở”. Với (“Người đàn bà đi ngược chiều gió thổi”), con chữ của ông tạo tác “Trên thân thể em lồng lộng/ Áo quần vỗ sóng”
Ông vẽ nhiều chân dung bạn bè, không chỉ bằng cọ lên nền toan mà còn bằng con chữ trên trang giấy. Những bức chân dung bè bạn ông đều thể hiện được cái bản ngã của nhân vật bằng những câu chữ tượng trưng mang tính biểu cảm cao. Lên Yên Thế thăm Nguyên Hồng, chỉ được gặp nhà văn trên bức di ảnh trong căn nhà nhỏ thoi thóp bóng chiều, thắp một nén hương gửi người anh đi vắng và những câu thơ đầy xúc cảm ùa ra giúp người đọc thấy được cuộc đời cần lao của nhà văn: “Những ai đi chuyến xe ngày ấy/ Lời nói còn dội tiếng trong lòng/ Chẳng thấy Hoàng Hoa Thám/ Chẳng thấy Nguyên Hồng/ Chỉ thấy đời người, nắng nôi, bụi đỏ” (“Ấn tượng Yên Thế”)
Với Văn Cao, con người đa tài nhưng cuộc đời lại gặp nhiều truân chuyên. Văn Cao đã vượt qua tất cả, để rồi: “Chẳng cần nữa/ những khen chê bao bọc,/ Chỉ còn một thế giới con con trong cốc rượu/ Một cốc rượu đầu, một cốc rượu rỗng không. (“Văn Cao”)
Với Bùi Xuân Phái, một người nặng lòng với Hà Nội qua từng góc phố, ông viết: “Anh không biết nói nhiều/ Nhặt những bâng khuâng trong lòng phố xá./ Như anh đang vứt mẩu thuốc lá,/ Tiếp tục bức tranh nặng tình. (“Phố thở”)
Trên bức chân dung bạn bè của ông có những gam màu đẹp. Với Ấn tượng Yên thế thì: “Núi đùn mây trắng lóa/ Chiếc xe bụi đỏ” Trong Phố thở viết tặng họa sĩ Bùi Xuân Phái ông viết “Màu xám bồi hồi rêu phủ/…. Trời nước vẫn màu men xanh/…Mái nhỏ bốc mùi cà phê” Trong (“Một người đi xa”) tặng họa sĩ Dương Bích Liên, ông viết “Anh đã đi qua cánh đồng sáng chói”.
Đọc thơ của ông ta dễ nhận ra một điểm chung đó là, ông luôn sử dụng những con chữ mang tính tạo hình và đầy sắc màu giống như một bức tranh, có “bức” trìu tượng, có “bức” siêu thực… như: “Cơn mưa cuộn mình ở chân trời/ Con rồng đen thiu ngủ”, hay “Con thuyền vàng trôi qua/ Con sông bạc trắng”, hay “Những con cá khô trên mẹt/ Mắt trũng sâu biển đã cạn rồi”. …. Đó là một nét riêng. Nét riêng nữa trong ông đó là, ông chỉ viết khi những cảm xúc bị nén chặt rồi bất chợt bật ra như chiếc lò so, tức là chỉ khi nào xúc cảm nghệ sĩ trong ông đủ độ chín. Ông không viết bằng những cảm xúc hời hợt, những con chữ dễ dãi, chung chung, không viết để cho có thơ, đó là những thơ vô thưởng vô phạt bây giờ nhiều người sáng tác mắc phải. Đọc thơ ông thấy được sức vóc một người chú tâm làm nghệ thuật.
Người chuyên tâm vào nghệ thuật hình như ai cũng vất vả, khó khăn trong cuộc sống. Chỉ tính ở Hải Phòng thôi cũng đủ minh chứng cho nhận xét này.
Tôi chưa thấy ông ngồi sau để người khác chở ông bằng xe đạp. Tôi là người không nhẹ nhưng dù đi xe của tôi, ông không bao giờ để tôi chở. Ông bắt mình phải lao động. Đó là số phận. Với văn học, ông để lại không ít những truyện tranh thiếu nhi do mình tự sáng tác lời và vẽ tranh, không ít những truyện ngắn, thơ, bút ký, tiểu luận trên báo chí. Với hội họa, ông kiếm tiền từ những bức châm biếm, tranh vui, đến minh họa cho các báo. Ông thiết kế mỹ thuật cho vở diễn của đoàn kịch nói Hải Phòng. Ông có không ít những tác phẩm hội họa được lưu giữ trong bảo tàng, trong bộ sưu tập cá nhân. Người dân Hải Phòng không biết có ai còn nhớ tới những công trình mỹ thuật do ông thực hiện. Bức tranh gốm Bạch Đằng khổ lớn trước cổng Bộ tư lệnh Quân khu Ba là công trình ta còn gặp gần đây nhất. Có lẽ ít người biết tới những bức tranh kính đầu tiên của Hải Phòng được ông thực hiện ở trung tâm thương mại Trần Quang Khải do sở du lịch Hải Phòng đặt hàng. Sân khấu quay của quán Phong Lan không biết có được bao nhiêu buổi biểu diễn nghệ thuật trên đó. Rồi mô hình hoa phượng, biểu tượng của thành phố đặt trên phao nổi giữa hồ Tam Bạc được hoàn thành nhân dịp 30 năm giải phóng Hải Phòng không biết tồn tại trong bao lâu. …
Lao động nghệ thuật thật vất vả nhưng bù đắp cho công sức bỏ ra chẳng được là bao. Ông không là ngoại lệ. Số phận nhọc nhằn đeo bám ông cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Là họa sĩ, thi sĩ mà cuối đời mắt ông không nhìn được do biến chứng tiểu đường. Nhưng sáng tạo trong con người nghệ sĩ của ông không chịu khuất phục bệnh tật. Chiều nào ông cũng vẽ. Bà cầm tay ông, những đường nét, sắc màu hiện lên trên toan. Chiều nào ông cũng viết. Ông đọc, bà viết lại. Đấy là hạnh phúc. Những đám bụi bay qua ký ức, trên “mây” ông tạo tác những tác phẩm nghệ thuật.
N.Q.H