
Mười tám tuổi, Nhàn nhập ngũ. Nhiệm vụ của Nhàn là trực điện thoại và tham gia đội văn nghệ, biểu diễn phục vụ bộ đội đơn vị pháo binh bảo vệ bờ biển. Trời phú cho Nhàn có nước da trắng hồng, khuôn mặt trái soan, đôi mắt đen lay láy trong vắt như bầu trời mùa thu. Mỗi khi cười, đôi má Nhàn lộ hai lúm đồng tiền thật sâu. Nhiều lần đang múa, hát, tàu chiến Mỹ xâm nhập lãnh hải, Nhàn và các diễn viên nghiệp dư lại trở thành pháo thủ. Ở đơn vị, Nhàn yêu người khẩu đội trưởng pháo binh tên là Tảo. Quê anh ở thị xã Hải Dương.
Một đêm trăng sáng, hai người rủ nhau lên đồi tâm sự. Anh nói với chị:
– Khi nào em ra quân, chúng mình sẽ cưới nhau. Em về Hải Dương ở với gia đình anh. Bố mẹ anh sẽ truyền nghề làm bánh đậu xanh cho em.
Chị ngả đầu vào vai anh, thầm thì:
– Em đợi anh ra quân, chúng mình cùng về quê anh luôn thể.
– Con gái chỉ phục vụ quân đội từ ba đến năm năm, là phải ra quân rồi, em yêu ạ.
– Em sẽ làm đơn xin ở lại, để được gần anh.
– Không được đâu, anh nghe tin đơn vị sắp tăng cường cho mặt trận phía Nam.
– Em mặc kệ anh, anh đi đâu thì em đi theo đấy.
– Thế thì hôm nay mình lên thiên đường nhé.
Anh ôm chặt lấy chị, hôn lên má, lên môi. Cả hai quấn lấy nhau, họ chẳng còn biết có gì xung quanh. Bầu trời đầy sao, biển cả mêng mông, sóng vỗ ầm ào. Trầm hùng hơi thởcủa đất trời, đang chứng kiến tình yêu của họ.
Hai tháng sau, cả đơn vị pháo binh mặt đất của anh, được lệnh hành quân ra mặt trận. Những chiến sỹ nữ trong đó có Nhàn, nhận quyết định phục viên. Đêm trước ngày đơn vịhành quân. Anh và chị lại lên đồi tâm sự. Nhàn không ngờ đó là lần cuối cùng được ở bên anh. Cuối năm 1968, Nhàn về phục viên và mang trong mình giọt máu của Tảo.
Ra quân, Nhàn về làng Cồn ở với bố mẹ. Cái thai trong bụng Nhàn cũng lớn dần. Mọi người trong làng gặp chị, hỏi:
– Chồng cháu là bộ đội hở ?
– Vâng ạ !
– Thế anh ấy đóng quân ở đâu, bao giờ thì về phép ?
– Nhà cháu đi Nam rồi, khi nào kết thúc chiến tranh mới về.
– Lúc ấy con cái đã lớn tướng rồi. Thế anh ấy người quê đâu ta ?
– Dạ ! Chồng cháu quê ở thị xã Hải Dương ạ.
Nhưng sau lưng Nhàn, họ kháo nhau:
– Cái Nhàn có chửa với thủ trưởng đơn vị. Anh ta đã có vợ và hai con ở thị xã Hải Dương. Tay chỉ huy kia bị cấp trên kỷ luật hạ cấp, hạ chức, tống ra ngoài mặt trận rồi. Còn con Nhàn thì bị đuổi về địa phương.
– Đi bộ đội chỉ suốt ngày hát hò, múa may, làm sao không có chửa.
– Con mắt nó lúc nào cũng ướt rườn rượt thế kia, làm sao đàn ông không “ Chết”.
Đúng là miệng lưỡi độc địa của thế gian. Những lời nói dè bỉu, xỏ xiên đến tai Nhàn, chị buồn lắm. Thấy Nhàn suốt ngày lủi thủi ở trong nhà, mẹ bảo:
– Con không phải ru rú ở trong nhà làm gì, hãy đến nhà bạn bè chơi cho khuây khỏa. Mặc kệ chúng nó, mồm chúng nó nói, tai chúng nó nghe.
– Nhưng mà…
– Không nhưng mà gì sất. Con có chửa với bộ đội đi B hẳn hoi, chứ có chửa với ai mà sợ. Khi nào chồng con ở miền Nam về, những đứa điêu toa, chuyên ngồi lê mách lẻo, sẽtrắng mắt ra.
Nghe lời mẹ, Nhàn ra khỏi nhà. Chị mang cái bụng tròn đi khắp làng. Gặp ai, chị cũng đon đả chào hỏi. Hôm liên hoan tiễn thanh niên nhập ngũ, Nhàn còn xung phong lên hát.Chị hát hay quá, mọi người hò hét đòi Nhàn hát lại. Thế là chị hát liền mấy bài, vui tưng bừng luôn.
Ba tháng sau, Nhàn trở dạ. Mẹ đưa chị ra trạm xá. Nằm trên giường chờ đẻ, đau chết cha, chết mẹ, chị cũng cắn răng chịu đau, không dám kêu rên. Mỗi lần lên cơn co thắt dạcon, Nhàn lại thầm gọi tên anh. Cầu mong trời phật và anh phù hộ cho chị mẹ tròn con vuông. Một lúc sau, nghe tiếng khóc ré của đứa trẻ, mệt quá Nhàn cũng mệt lả luôn. Trước khi ngất, chị vẫn còn nghe mẹ reo lên mừng rỡ:
– Trời ơi! Thằng quỷ sứ dây nhau thai quấn cổ ba vòng.
Năm 1975, Sài Gòn giải phóng, Nhàn khấp khởi chờ mong anh trở về. Chiều chiều, chị dẫn con trai hơn sáu tuổi ra đầu làng đợi anh. Thấy bóng dáng chú bộ đội khoác ba lô đi ở đằng xa, thằng Toản, con chị lại reo lên: “ Mẹ ơi, bố Tảo đã về kìa. Mẹ con mình ra đón bố đi”. Mặc cho thằng bé lôi kéo, nghĩ tới anh trở về, chân Nhàn không bước nổi nữa. Không biết bao nhiêu lần, hai mẹ con Nhàn mừng hụt. Trong những người lính trở về, không có Tảo.
Ăn tết xong, trời vẫn còn rét căm căm. Nhàn đang cấy lúa ngoài cánh đồng chùa Bến, chợt cô hàng xóm chạy ra gọi thất thanh:
– Chị Nhàn ơi, anh Tảo đã về.
Nghe tin chồng về, Nhàn vội vàng vứt bó mạ đang cấy, lội lên bờ, hớt hải chạy về làng. Quãng đường về nhà xa hơn một cây số, mấy lần chị bị vấp ngã. Nhưng rồi Nhàn cũng chạy về tới cổng nhà. Không kịp rửa đôi chân lấm bùn, Nhàn chạy ào vào sân. Nhìn thấy có người mặc quần áo bộ đội ở trong nhà, chị kêu lên, giọng trách móc “ Anh Tảo ơi, sao anh về muộn thế. Em và con đợi anh mãi”. Bỗng chị sững người lại, anh bộ đội ấy không phải Tảo. Chân Nhàn khụy xuống. Thấy thế, anh bộ đội đang ngồi nói chuyện với mẹ Nhàn, vội chạy ra đỡ và dìu Nhàn vào trong nhà. Anh nói:
– Chị Nhàn, tôi tên là Bột cùng đơn vị với anh Tảo đây.
Nghe Bột nói, Nhàn vội vàng hỏi lại:
– Anh Bột ơi, sao anh Tảo không cùng về với anh ?
Im lặng tới nửa phút, Bột mới ngập ngừng, nói:
– Anh Tảo…anh Tảo không về nữa đâu.
– Sao anh Tảo không về ? – Nhàn giật mình hỏi lại.
– Anh Tảo hy sinh sáng ngày 30 tháng 4, khi cùng đơn vị tiến vào giải phóng Sài Gòn rồi, chị Nhàn ạ.
– Trời ơi !
Nhàn kêu lên. Chị thấy trời trên đầu như quay cuồng, đất dưới chân như sụp đổ.
Nhận được tin Tảo hy sinh, Nhàn ốm liệt giường cả tháng. Những ngày ấy, Bột luôn đến nhà thăm và chăm xóc Nhàn. Bột quê ở huyện Thủy Nguyên. Anh nhập ngũ năm 1968 và kém Nhàn sáu tuổi. Cứ vài ngày, Bột lại sang động viên, an ủi Nhàn. Bột kể lại những kỷ niệm về Tảo ở chiến trường. Những lời Bột kể, càng làm Nhàn đau đớn, buồn tủithêm.Tảo hy sinh chỉ cách niềm vui hòa bình, chấm dứt chiến tranh có hai giờ đồng hồ. Đêm hôm trước, Tảo còn nói với Bột:
– Bột à, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, anh em mình sẽ xin ra quân. Anh dẫn em về quê chị Nhàn. Anh làm mối cho em với cô Hạ, em gái họ của Nhàn. Chúng mình sẽ thành anh em cọc chèo với nhau.
Nghe Bột nói, Nhàn buồn rầu thông báo:
– Hạ lấy chồng và đã có hai con rồi chú Bột ạ. Chồng nó cũng là thương binh.
– Chị giới thiệu cho em một cô gái khác nhé.
– Nghe nói con gái Thủy Nguyên cũng xinh đẹp, giỏi giang và tháo vát lắm cơ mà. Sao chú không về quê lấy vợ cho gần nhà, đỡ phải đi xa vất vả.
– Những ngày đến thăm chị, em đã cảm thấy phải lòng con gái làng Cồn rồi, chị ạ. Gái làng Cồn trông thật duyên dáng, dễ thương và đáng yêu.
– Tiêu chuẩn người yêu của chú thế nào ?
Không suy nghĩ đắn đo, Bột thật thà nói:
-Người cứ như chị là được rồi.
Câu nói của Bột làm Nhàn bật cười, bảo:
– Cái chú này, chị sinh nở trở thành gái sề rồi…
Bột vội ngắt lời Nhàn, nói:
– Gái một con như chị, con gái phải trả lại tiền.
Nhàn cười, nói nhỏ:
– Chú thật lắm chuyện.
Bột đỏ mặt nhìn Nhàn, cười. Còn cu Toản rất thích chú Bột. Những ngày Bột về Thủy Nguyên, suốt ngày Toản nhắc tới chú Bột, nó hỏi:
– Mẹ ơi ! sao chú Bột về quê lâu thế ?
– Chú về với bố mẹ và gia đình chú. Thỉnh thoảng rỗi chú mới sang thăm mẹ con mình thôi, con ạ.
– Ứ ừ ! Con muốn chú Bột ở luôn nhà mình cơ.
– Không được đâu, con ạ. Chú Bột phải về quê lấy vợ. Khi nào chú lấy vợ, mẹ con mình sẽ sang dự lễ cưới của chú.
Con không thích chú Bột lấy vợ đâu. Con chỉ muốn chú Bột đến nhà mình, ở với mẹ và con thôi…
Nhàn giải thích thế nào, thằng bé cũng không chịu. Nó còn lăn ra khóc, ăn vạ. Bực mình, chị phát vào mông con một cái. Nó lại càng khóc to. Con khóc, Nhàn cũng khóc theo. Thấy mẹ khóc, thằng bé vội ôm lấy mẹ, an ủi:
– Mẹ Nhàn đừng khóc nữa, con không đòi chú Bột về nhà mình ở nữa đâu.
Nhưng chỉ được một lúc, thằng bé lại léo nhéo nhắc tới chú Bột. Cả trong giấc ngủ, nằm mơ nó cũng réo gọi chú Bột.
Hôm sau, Bột đi xe đạp sang chơi. Cu Toản mừng rỡ reo lên ầm ĩ, gọi “ Mẹ ơi, bố Bột đã về”. Chú Bột cười ngượng ngịu. Còn Nhàn tỏ vẻ không vui, mắng con. Chị nói với Bột:
– Chú thông cảm cho cháu Toản nhé.
– Trẻ con mà chị.
Nói rồi, Bột công kênh thằng Toản lên vai. Hai chú cháu dạo chơi khắp làng, đến gần trưa mới về. Cu Toản cười, khoe với mẹ:
– Mẹ ơi, con đi chơi với chú Bột vui lắm. Mấy đứa trẻ con hỏi: Toản ơi, bố mày đi bộ đội mới về đấy à ?
– Ừ, bố tớ là dũng sỹ ở miền Nam mới ra. Con trả lời như thế có được không mẹ.
– Toản, con không được nói dối bạn. Lần sau con nhớ nói, đây là chú Bột, bạn của bố tớ. Con nhớ lời mẹ dặn chưa.
– Vâng ! con nhớ rồi mẹ ạ. Nhưng bao giờ bố Tảo mới về với con, hả mẹ ?
Nghe con hỏi, Nhàn trào rơi mắt. Không muốn Bột và thằng Toản nhìn thấy mình khóc. Nhàn vội chạy vào buồng nằm, úp mặt xuống gối, khóc nức nở. Lát sau, bàn tay ấm áp của Bột, đặt nhẹ trên vai chị. Anh nói nhỏ, giọng ngập ngừng:
– Nhàn ơi, đừng khóc nữa. Có lẽ số phận đã run rủi, sắp đặt cho chúng ta rồi. Xin Nhàn cho tôi được thay anh Tảo, làm bố thằng Toản và được sống trọn đời cùng em.
Nhàn vội ngồi dậy, lấy tay lau nước mắt. Chị nói, giọng nghẹn ngào, nhưng dứt khoát:
– Không được đâu, chú Bột ạ.
– Tại sao. Nhàn nói cho tôi nghe đi.
– Có mấy lý do mà chúng ta không thể lấy nhau. Thứ nhất…
– Lý do gì, Nhàn nói đi.- Sốt ruột, Bột ngắt lời Nhàn.
– Thứ nhất, anh là bạn chiến đấu của anh Tảo. Thứ hai, chúng ta chênh lệch tuổi tác quá nhiều, tôi hơn anh những sáu tuổi. Hôn nhân bây giờ không như các cụ ngày trước, gái hơn hai, trai hơn một. Ngày nay đàn ông, đàn bà bằng tuổi nhau cũng đã ít lấy nhau, vì đàn bà sinh nở rất mau già, còn đàn ông trẻ lâu. Thứ ba, lễ nghĩa phong kiến vẫn còn rất nặng nề, trai tân lấy gái nạ dòng. Chắc chắn bố mẹ, anh chị em trong gia đình anh, sẽ không chấp nhận cho anh lấy tôi đâu. Một khi tình yêu bị người thân phản đối, làm sao chúng ta sống hạnh phúc được. Bột ạ, ngoài tình càm đồng đội với anh Tảo, tôi coi Bột như người em. Bột hãy về quê tìm hiểu, yêu và lấy một cô gái trẻ trung, rồi sinh con đẻcái. Chắc chắn vợ chồng Bột sẽ sống trong hạnh phúc. Bột hãy quên tôi đi.
– Nhàn đã nói hết chưa ?.- Bột mỉm cười, hỏi lại.
– Tôi đã nói hết rồi, Bột không nghe thấy sao ?
– Nhàn ạ, những ngày ở mặt trận, mỗi lần anh Tảo tâm sự về Nhàn. Tôi lại ao ước sau này về Bắc, gặp được cô gái nào có tâm hồn và hình thức giống Nhàn. Nhàn đừng cười, tôi nói thật lòng đấy. Khi vuốt mắt cho anh Tảo, tôi đã nói với anh, sẽ chăm xóc Nhàn và thằng Toản thay anh.
Gặp Nhàn, tôi càng yêu thương em hơn. Trong quãng đời còn lại, tôi thấy mình không thể sống thiếu em được. Tôi tha thiết cầu xin em, cho tôi được sống cùng em.
Ngừng một lát, Bột nói tiếp:
– Nhàn ơi, bố mẹ và mọi người trong gia đình anh, đều ủng hộ anh lấy em rồi. Chủ nhật này anh đưa bố mẹ sang gặp và nói chuyện với bố mẹ em, về chuyện cưới xin của chúng mình nhé.
– Không được đâu, anh Bột ạ. Chênh lệch tuổi tác của một người đàn bà đã có con và một đời chồng, tôi không thể làm vợ anh được. Thôi! Anh về đi.
Nhàn nói, giọng khẩn khoản càng làm Bột xúc động. Anh cầm tay Nhàn, nói:
-Anh yêu em lắm, Nhàn ơi. Anh sẽ vượt qua tất cả trở ngại để đến với em, mang lại hạnh phúc cho em và con. Em đừng từ chối như thế, anh buồn và đau lòng lắm.
Nhàn nhìn Bột và yếu ớt lắc đầu. Bất ngờ Bột ôm lấy Nhàn, hôn lên má, lên đôi môi ướt đẫm nước mắt của chị. Người Nhàn run lên và gần như ngộp thở trong vòng tay mạnh mẽ của anh.
Một tháng sau, Bột cưới Nhàn. Cả làng Cồn xôn xao tiếng khen và ầm ĩ lời chê bai. Có người còn đặt câu vè châm biếm:“ Ban ngày chị chị em em / Tối về em dạy chị quậy cà rem nước dừa !”.
Lấy chồng, Nhàn trông trẻ và đẹp hẳn ra. Hai người đi với nhau, mọi người trong làng, chẳng ai còn nói họ là chị em nữa. Lấy nhau được nửa năm, Nhàn có chửa. Thấy vợ bụng mang dạ chửa, vất vả mỗi lần về quê Vĩnh Bảo thăm bố mẹ đẻ. Anh bàn với chị:
– Nhàn ạ, gia đình anh đông anh em. Còn bố mẹ bên em chỉ sinh được hai người. Em đi lấy chồng xa, anh Giáp lại thường xuyên ốm đau, bệnh tật. Anh nghĩ gia đình mình nên chuyển sang sống ở vùng kinh tế mới Hồng Quỳnh, huyện Diêm Điền, Thái Bình. Từ Hồng Quỳnh về làng Cồn chỉ cách một con đò. Vợ chồng mình tiện chăm sóc bố mẹ và anh Giáp. Em thấy có được không ?
– Nếu được thế thì tốt quá rồi còn gì. Nhưng em sợ dư luận lại đàm tiếu, đàn ông về ở quê vợ, như chui gầm chạn.
– Anh không ngại thì thôi, em lại còn lo dư luận đàm tiếu. Với lại vợ chồng mình sang Hồng Quỳnh, chứ có về quê em ở đâu.
Nghe chồng nói, Nhàn cảm động quá, chị ôm lấy anh thầm thì:
– Anh thật là người chồng tuyệt vời. Em hạnh phúc lắm, Bột ơi.
– Anh yêu em và các con. Lúc nào anh cũng mong em và các con hạnh phúc.
Lấy nhau gần bốn năm, Nhàn sinh cho Bột hai đứa con. Cuối năm 1979, Bột phát bệnh. Người anh nổi đầy u cục, đau đớn không ăn, không ngủ được. Nhàn đưa chồng đi khắp các bệnh viện để cứu chữa. Đến quân y viện 108, bác sỹ kết luận anh bị nhiễm chất độc da cam. Hai tháng sau, anh tắt thở trên tay chị. Nhàn khóc lóc thảm thiết và bất lực trước sự ra đi vội vã của chồng.
Giữa đất khách quê người, một mình Nhàn nuôi ba đứa con nhỏ và anh trai tâm thần, Nhàn đã định đưa các con về làng Cồn. Nhưng mấy mẹ con về quê thì sống bằng gì. Ởquê Nhàn, đất chật người đông, làm gì ra để nuôi ba đứa con. Thế là Nhàn ở lại khu kinh tế mới Hồng Quỳnh, vất vả sớm hôm với sáu sào ruộng. Những ngày nông nhàn, chị tranh thủ ra chợ. Buôn đầu chợ, bán cuối chợ, mớ cá, mớ rau, lấy tiền nuôi anh trai ốm đau và ba con nhỏ.
Mặc dù làm ruộng, buôn bán vất vả, trông Nhàn vẫn còn bắt mắt lắm. Rất nhiều đàn ông góa vợ, bỏ vợ, vợ bỏ và cả trai tân, đã nhờ mối lái đến tìm hiểu, đặt vấn đề với chị. Nhưng Nhàn từ chối tất cả. Chị nói:
– Cám ơn các anh. Tôi năm nay đã ba tư tuổi rồi, chẳng còn trẻ trung gì nữa, lại nặng gánh với ba con nhỏ và anh trai bệnh tật. Tôi muốn làm tròn bổn phận của người vợ với người đã khuất, nuôi dạy các cháu trưởng thành.
Nhìn gia cảnh nghèo túng, ba đứa con lít nhít và người anh trai dở điên, dở dại. Cánh đàn ông vội vàng rút lui. Duy nhất chỉ có anh Toan, là người kiên trì bám trụ đến cùng.
Năm ấy Toan đã 42 tuổi. Năm 1965, Toan đi bộ đội. Trước khi đi B, anh cưới một cô gái cùng quê. Tuần trăng mật là mấy ngày phép ngắn ngủi, thời gian chưa đủ cho họ bén hơi nhau. Chia tay vợ mới cưới, Toan vào chiến trường và bặt tin luôn. Cuối năm 1975, anh ở chiến trường về phép thì vợ đã lấy người khác. Toan lại tiếp tục sang Căm pu chia chiến đấu. Năm 1979, anh bị thương nặng khi cùng đơn vị tiến vào thị xã Xiêm Riệp. Nửa năm sau Toan được ra quân.
Mới đầu Nhàn một mực từ chối lời cầu hôn của anh. Nhưng sự kiên trì, bền bỉ, một tấc không đi, một ly không rời của người lính, Toan đã được đền đáp. Những lời tâm sựmộc mạc, chân thành của Toan đã thuyết phục Nhàn:
– Nhàn ơi, anh muốn cùng em chăm nuôi các con khôn lớn, trưởng thành. Con đồng đội cũng là con anh. Đó cũng là bổn phận của người lính như anh.
Ba đứa nhỏ cũng rất quý bác Toan. Mỗi lần Toan đến nhà, là chúng reo mừng như bố đi xa về. Đầu năm 1981, trước sự chứng kiến của họ hàng hai bên, Nhàn lấy chồng. Hai năm sau, chị sinh cho anh một bé gái. Hai vợ chồng chị thức khuya dậy sớm, anh làm ruộng, chị buôn bán chợ búa, nuôi bốn đứa con ăn học và anh trai đau ốm. Cả vùng kinh tế mới Hồng Quỳnh, ai cũng mừng cho vợ chồng chị.
Nhưng hạnh phúc của Nhàn cũng chẳng được dài lâu. Đầu năm 1993, vết thương tái phát, Toan đột ngột qua đời.
Tuổi chưa đến năm mươi, chị đã ba lần góa chồng. Các anh, những người lính, chồng của chị. Người đầu tiên hy sinh ở mặt trận. Hai người trở về sau chiến tranh. Ốm đau, bệnh tật, vết thương tái phát, họ lại vĩnh viễn ra đi. Các anh để lại cho chị, nỗi đau mất mát tận cùng của chiến tranh.
Mấy năm sau, bố mẹ và anh Giáp cũng lần lượt qua đời. Nỗi đau mất người thân liên tiếp ập đến, có lúc chị đã định tự tử đi theo bố mẹ, anh trai và những người chồng.
Chiều muộn đi chợ về, chị bắt gặp những đứa con đứng đợi mẹ ngoài ngõ. Mặt chúng buồn rười rượi, ánh mắt chúng xa xăm chờ đợi, lòng chị bỗng trào dâng cái gì đó thật nhức nhối, xót xa. Nghĩ tới bốn đứa con và lời hứa với trước lúc chồng nhắm mắt, chị nuốt nước mắt vào trong, chấp nhận đối mặt với số phận nghiệt ngã của đời người.
Nhàn tưởng mình từ nay được yên phận sống với các con. Nhưng số phận vẫn chưa buông tha chị. Ở tuổi năm mươi, chị vẫn đằm thắm, xuân sắc, nồng nàn. Đàn ông ai cũng ám ảnh nụ cười và đôi mắt buồn của chị. Gặp Nhàn ở hội diễn văn nghệ không chuyên của xã, huyện, cánh đàn ông đã có vợ, tìm đến chị để tán tỉnh. Còn đàn ông đơn thân tìm đến chị để cầu hôn. Suốt ngày Nhàn phải tiếp khách đến thăm nhà. Bực mình, chị đập vỡ gương, thề từ nay không đi tham gia văn nghệ nữa. Và chỉ soi gương vỡ. Cánh cổng nhà Nhàn bao giờ cũng đóng chặt. Nếu có ai đến hỏi, các con chị ra trả lời:
– Mẹ cháu đi vắng, không có nhà.
– Bao giờ mẹ cháu về.
– Mẹ cháu lên Tuyên Quang, cuối năm mới về.
Mươi năm sau, con cái trưởng thành, chị mới lại tham gia hội cựu chiến binh.
Năm 2006, về dự lễ kỷ niệm ngày thành lập hội cựu chiến binh huyện, chị gặp anh Khâm, người làng Đông Tạ. Anh Khâm trước khi nhập ngũ là giáo viên cấp 2. Năm 1970 anh vào chiến trường. Năm 1972, người vợ trẻ ở quê chẳng may bị cảm và đột ngột qua đời. Từ mặt trận trở về nghề dạy học, Khâm nén nỗi buồn, mười mấy năm trời tập trung nuôi dạy ba đứa con. Mọi người khuyên anh sớm tìm một phụ nữ về làm vợ, cùng anh chăm xóc con cái. Nhưng Khâm chưa muốn lấy vợ. Lý do duy nhất là anh sợ các con còn bé, cảnh dì ghẻ con chồng, nếu có chuyện gì không hay xẩy ra, sẽ ảnh hưởng đến các con. Sau khi con cái yên bề gia thất, mọi người trong họ, bạn bè lại thúc giục anh lấy vợ. Các con thương bố lủi thủi một mình, cũng ra sức ủng hộ và chúng còn sốt sắng đi tìm vợ cho bố. Mấy chục năm trời, từ khi đang còn dạy học hay đã về hưu, Khâm gặp nhiều phụ nữ,nhưng anh không cảm thấy lòng mình rung động. Chỉ đến khi gặp Nhàn, người đàn bà tuổi đã ngoài sáu mươi. Trong lòng anh bỗng dạt dào cảm xúc yêu thương như thời trai trẻ.
Anh tìm về làng Cồn, thuyết phục chị về ở với anh. Nghe anh nói, chị cười, nói đùa:
– Anh em mình sắp xuống lỗ rồi, lấy nhau làm gì cho thiên hạ chê cười.
– Cười hở mười cái răng. Đàn ông góa vợ, đàn bà góa chồng, lấy nhau là điều pháp luật không cấm. Mình về ở với nhau, động viên nhau, nương tựa nhau lúc tuổi già. Chẳng ai nỡ cười chúng mình đâu, Nhàn ạ.
Chị cười, hỏi lại:
– Anh có con đàn cháu đống, đã ở vậy mấy chục năm nay, tự dưng lại phát rồ, phát dại, muốn lấy vợ ?
– Trước kia anh cũng muốn lấy vợ lắm chứ. Nhưng anh chưa tìm được người đàn bà của mình. Nhàn à, từ hôm gặp em, anh ăn không ngon, ngủ không yên giấc. Lúc nào anh cũng chỉ nghĩ tới em thôi.
Chị không dám đùa bỡn trước lời tâm sự chân thành của anh nữa. Nhưng lấy anh, thì chị dứt khoát từ chối.
Từ hôm ấy, ngày nào cũng có hàng chục cựu chiến binh, bạn anh Khâm đến nhà, thuyết phục chị về ở với anh Khâm. Vào ngày thứ bẩy, chủ nhật, các con trai, gái, dâu, rể và một lũ cháu anh Khâm đến nhà gặp chị. Chúng xúm vào tâm sự, vỗ về, nỉ non cầu xin chị về làm mẹ, làm bà chúng. Mưa dầm thấm lâu, cuối cùng chị cũng xiêu lòng. Chị hỏi ý kiến các con đẻ. Thương mẹ mấy tháng nay kém ăn, mất ngủ, mặt mũi phờ phạc. Các con không dám ngăn cản, chúng chỉ nói: “Tùy mẹ, chúng con chỉ muốn mẹ vui vẻ lúc tuổi già”.
Thế là mười bốn năm sau, từ khi người chồng thứ ba qua đời, phá lời nguyền, chị đi bước nữa.
Thời gian đầu về ở với anh Khâm, nhớ con, nhớ cháu, chị lại muốn bỏ về nhà. Một đêm nằm ngủ, chị mơ thấy có một người đàn bà chừng ngoài ba mươi tuổi, da dẻ trắng trẻo, mặt mũi sáng sủa, xinh đẹp, đầu quấn khăn mỏ quạ, mặc quần mầu đen, trên người mặc ba cái áo với ba mầu trắng, đỏ, tím. Đến bên giường chị nằm, vạch màn, người đàn bà nói:
– Chị là vợ cũ của anh Khâm. Chị chẳng may vắn số, không được ở lại với chồng con. Bấy lâu nay chị mỏi mắt tìm kiếm, bây giờ mới tìm được người vừa ý là em. Chị đón em vềchăm sóc anh Khâm. Mới ở được ít ngày, em đã nhấp nhỏm muốn về. Em không về được với chị đâu.
Nhàn muốn thanh minh, nhưng miệng ú ớ không làm sao nói được. Vợ cũ anh Khâm nói tiếp:
-Nếu em nhớ con, nhớ cháu quá, tuần sau về thăm chúng một, hai ngày rồi lên với anh Khâm nhé.
Chỉ đến khi Nhàn gật đầu, vợ cũ anh Khâm mới biến mất. Giật mình tỉnh dậy, người Nhàn toát dã mồ hôi.
Phải nói Khâm rất tâm lý, hết lòng yêu thương Nhàn. Có lẽ thấm thía cảnh tuổi già cô đơn khi các con ra ở riêng, anh Khâm dồn hết tình cảm cho chị. Có việc bận, đi đâu vắng nhà một ngày, là anh nóng ruột. Dù đường xa, trời tối, anh cũng vội vàng phóng xe về với chị. Anh không nỡ để chị một mình qua một đêm dài, mất ngủ.
Bát đũa còn có khi xô, nữa là cuộc sống thường ngày của vợ chồng già. Có một lần, mải vui bạn bè, anh Khâm uống rượu say, về nhà lại còn nói năng linh tinh. Chị giận anh, khăn gói bỏ về làng Cồn. Ngay tối đầu tiên, chị vừa chợp mắt, người đàn bà lần trước lại hiện về. Vợ cũ anh Khâm năn nỉ Nhàn trở về. Chỉ đến khi chị gật đầu đồng ý, vợ cũ anh Khâm mới biến mất.
Cả đêm ấy, chị thao thức không tài nào chợp mắt. Trời vừa sáng, chị vội vàng phóng xe đạp điện về nhà chồng. Mới đi có một ngày, nhà cửa bề bộn như chị đi vắng cả năm. Anh Khâm đang nằm bẹp trên giường, miệng rên hừ hừ, đầu nóng hầm hập.
Chị vội vã nấu cháo thịt lạc, chêm gia vị, rắc hành hoa và gọi anh dậy ăn.
Anh Khâm ăn hết bát ô tô cháo, uống thuốc xong, mồ hôi vã ra đầm đìa. Chị bê chậu nước nóng vào tận gường, dùng khăn mặt lau mồ hôi, lau cả người cho anh. Chị lau cho anh nhẹ nhàng, âu yếm, như người mẹ lau cho đứa trẻ sơ sinh.
Trong lúc anh nằm ngủ, chị tất tả dọn dẹp nhà cửa, giặt dũ, phơi phóng quần áo.
Tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài, anh thì thào gọi chị. Chị vội vàng đi vào, ngồi xuống bên mé giường, mỉm cười, nhỏ nhẹ hỏi:
– Anh thấy trong người thế nào, em đưa anh đi bệnh viện nhé ?
Anh nắm chặt tay chị, ứa nước mắt, nói:
– Có em về là anh khỏe rồi. Anh xin lỗi em, từ nay anh không uống rượu say nữa. Em đừng bỏ anh đi nữa nhé.
Đã có lúc, Nhàn dằn vặt tự hỏi: “ Có phải ông Trời ban cho chị chút nhan sắc, nên đã bắt chị phải sống một cuộc đời. Một cuộc đời không ngừng khoắc khoải và hụt hẫng; Đa tình và cũng đa đoan; Hạnh phúc và khổ đau; Hy vọng và thất vọng; Mệt mỏi và bệnh tật triền miên, nhưng chị đã không gục ngã ? ” ./.