Trong phòng chỉ còn hai chú cháu. Không phải chú công an hôm nọ, mà là một chú khác, mặc quần áo thường, trạc tuổi với bố và hơi giống bố.
– Cháu ăn kẹo đi. Đêm qua cháu ngủ được chứ?
– Dạ, cháu ngủ say lắm.
Một chiếc chuồng chim nuôi hai con hoàng yến treo bên cửa sổ. Chúng đang rỉa cánh cho nhau. Phía sau cửa là mái nhà lợp ngói nhấp nhô như sóng biển. Xa kia là khoảng trời xanh như màu thủy tinh trong veo. Buổi sáng mùa Hè ở thành phố cảng làm Nam tỉnh hẳn. Gió ùa vào phòng lật những tờ lịch nhỏ như cánh bướm.
– Chú cháu mình làm việc nhé. Cháu có đồng ý không?
– Vâng ạ!
– Bây giờ cháu hãy kể lại cho chú nghe, chuyện xảy ra thế nào nhỉ? Cháu ở quê lên đêm hôm kia phải không?
– Dạ!
– Vậy là đêm mồng bốn tháng Sáu. Sau khi nghỉ Hè được ba hôm à?
– Vâng ạ!
Không cần chú hỏi. Nam vẫn có thể kể lại tỉ mỉ và tuần tự những việc xảy ra không bỏ sót một chi tiết nào.
Chú cán bộ đứng dậy, châm thuốc hút. Chú bước lại bên cửa sổ đứng nhìn những mái nhà nhấp nhô rồi quay lại nói:
– Đáng lẽ cháu không nên đưa Hùng Lé về nhà. Nếu không làm nghề sửa khóa thì những ai mở cửa nhà người khác bằng chìa khóa của mình đều đáng ngờ cả.
Chú đi lại cái tủ, lấy ra một tập hồ sơ. Trong tập hồ sơ có một chiếc phong bì đầy, đựng toàn ảnh. Chú rút ra từng chiếc một và đưa tới trước mặt Nam.
– Cháu có nhận ra ai đây không?
– Dạ, không ạ. Cháu không quen người này.
– Còn đây?
– Cháu cũng không biết ạ.
– Đây nữa.
– Cũng không ạ.
Bao nhiêu tấm ảnh như thế. Nam không đếm được, chỉ biết là rất nhiều, nhiều lắm.
Chú công an quẳng tập ảnh xuống bàn, thở dài:
– Thế là câu chuyện có phần phức tạp đấy cháu ạ. Này, cháu bảo lúc trở lại, thằng Sáu Xồm không còn râu quai nón nữa phải không?
– Cháu không hiểu vì sao mà bộ râu biến mất ạ.
– Cũng chẳng khó gì. Nghĩa là, sau khi cạo nhẵn râu ở nhà cháu xong, hắn bôi lên má một lớp phấn cùng màu da mặt. Thế là biến mất bộ râu. Chú và cháu, những người tử tế khác chỉ có một bộ mặt thôi. Nhưng lũ này thường có nhiều bộ mặt. Bây giờ là dơi, chút nữa lại là chuột. Thế đấy.
Nam thấy chú cán bộ có vẻ buồn phiền. Chú quay máy điện thoại mời một chú nào đó lên gặp. Một nháy mắt, chú kia đã đến, chắc chú ở tầng dưới lên.
– Đồng chí Miên, tôi đã đưa ảnh đối tượng cho cháu Nam xem, nhưng cháu không nhận ra người nào cả. Vậy là có một lũ mới?
Chú cán bộ nói xong, quay lại Nam:
– Này cháu, cháu có thể ở đây đến bao lâu?
– Mẹ cháu cho cháu đi nửa tháng ạ. Ở nhà cháu còn một con thỏ…
– Được rồi, tốt. Cháu sẽ ở đây với các chú cho đến ngày bố cháu về. Các chú không báo tin cho bố cháu biết chuyện này, để bố cháu an tâm nghỉ ngơi. Nhưng chú hỏi thật, cháu có quyết tâm giúp các chú tìm ra bọn Sáu Xồm hay không?
– Có ạ! Nhưng liệu có lấy lại của cải được không hả chú?
– Cái đó còn tùy xem chúng ta phát hiện ra bọn này sớm hay muộn. Chúng ta sẽ cố gắng tìm ra sớm. Thế này, không nhận được ảnh thì ta hãy thử nhận ra người vậy. Cháu sẽ đi lang thang trên đường phố
như một chú bé nhà quê ra tỉnh thật sự. Chú Miên đi cách cháu hai mươi mét. Nếu gặp mặt một trong ba thằng ấy, cháu sẽ tìm cách báo cho chú Miên. Được không? Ta hãy thử cầu may một chút xem sao.
Nam theo chú Miên xuống tầng dưới. Nhưng vừa ra đến cửa, chú cán bộ gọi giật lại:
– Này cháu, lúc thằng kia nói rằng chỉ có mỗi chiếc xe bò thôi thì tên Sáu Xồm trả lời thế nào nhỉ?
– Nó bảo đưa đồ đạc đến 162 ạ!
– Bao nhiêu?
– 162 ạ!
***
Hai chú cháu, chú Miên và Nam, đã ấn định một kế hoạch hết sức chặt chẽ đến mức “không chê vào đâu được” như chú Miên bảo. Chú Miên chỉ mặc áo sơ mi ngắn tay và một chiếc quần xanh nhạt. Không biết chú giấu súng lục ở chỗ nào trên người, nhưng Nam biết chắc chắn là chú có súng. Một khẩu súng xinh xinh. Chú bảo Nam: “Đưa đi phòng xa chứ chẳng phải dùng đến. Hai tay mình đánh nhau cũng đủ rồi!”. Chú giỏi võ, điều ấy thì không nghi ngờ gì nữa.
Hai chú cháu vạch một con đường quanh co, ngoắt ngoéo làm sao để có thể đi ngắn nhất. Đường phố, cổng chợ, rạp chiếu bóng, sân ga và bến ô tô nữa. Chú Miên bảo rằng đây là một trong nhiều cách để tóm bọn trộm, cách đơn giản nhất. Cơ quan chú đang chăng lưới, đang thông báo nhận dạng chúng nó cho những trạm gác, ở cửa ngõ ra vào thành phố và các cơ sở trong nội thành. Chú còn nói: “Trước sau rồi chúng cũng vào nhà đá, quân khốn kiếp ấy!”.
Nam xách một cái làn như đi mua bán gì và sau nó, cách đúng hai mươi mét, chú Miên lững thững bước theo. Bấy giờ là khoảng mười giờ. Nắng gay gắt đổ xuống những khoảng đường không bóng cây
che. Nam thấy mệt rã người. Nhưng từ hôm qua đến giờ, nó tự nhủ rằng, nếu không tìm cách đền bù lại những mất mát cho bác Thịnh và giúp đỡ các chú công an trừ được toán trộm cắp sừng sỏ này thì không còn mặt mũi nào nhìn thấy bố. Phải làm sao công việc kết thúc trước khi bố về. Bố sẽ tha thứ cho những sai lầm tai hại của nó.
Bỗng nó chú ý một dáng người to con đang lùi lũi đi vào ngõ chợ Trần Quang Khải. Nam đưa tay lên vành mũ, làm như giữ cho cái mũ đừng rơi. Đó là ám hiệu cho chú Miên đi theo sau. Nam dấn lên mấy bước, cố bám sát con người to con kia. Nhìn phía sau, nó cảm thấy như đang gặp lại hắn. Phải, chính hắn, thằng Xồm với đôi vai bè bè, đang đi giật như kiểu gấu ngựa kia. Nam dấn lên, tìm cách nhìn được mặt hắn. Nhưng hắn đâu rồi? Rõ là hắn vừa đấy kia mà, trước mặt Nam, hắn đi giữa đoàn người vào chợ đông nghịt. Tim Nam như đứng lại: Khéo Nam đã để sổng mất con mồi. Nhưng đây rồi, hắn đang đứng lại bên ngoài người bán thuốc tây ở góc chợ. Quay lưng lại phía Nam, hắn ghé vào tai người bán thuốc thì thầm. Anh bán thuốc đeo kính râm gọng vàng nghiêng đầu chăm chú nghe. Hắn đặt cái túi vải bạt có vẻ khá nặng xuống đất, lôi ra một gói nhỏ, tuồn nhanh vào các hòm gỗ dưới chân người bán thuốc. Hắn quay ngoắt về bên trái, bước nhanh ra phía cổng bên (nếu không có người bán rau chắn trước mặt, có lẽ Nam đã nhìn thấy mặt hắn rồi). Người ta chen lấn, xô đẩy Nam làm nó không thể nào lấn thêm được bước nào. Lần này thì hắn sổng mất thật. Nhưng Nam lấy lại bình tĩnh, nó quay nhìn chú Miên đang cố bám lấy mình giữa đám đông, ra hiệu cho chú biết rồi cố chen trở lại, chạy sang cổng bên đón đầu người đàn ông to lớn. Hắn kia rồi, đang bị kẹt giữa hai cái xe đạp thồ với những cái sọt to tướng chất đầy rau muống. Nam hổn hển đến bên cổng, mồ hôi nhễ nhại trên trán, ướt cả đầu tóc. Nó đứng chờ, hắn kia, đúng rồi, cả bộ râu quai nón xanh um che kín cằm và một nửa má. Vẫn cái mũ cối tàng tàng. Nam đứng né sang một bên, nấp sau một người bán đồ chơi trẻ con đang vừa rao hàng vừa thổi còi te, te.
– Này chú nhóc, xê ra, xê ra…
Một bàn tay cứng như thép, chộp lấy vai Nam, nhấc bổng nó lên rồi đặt xuống bên cạnh người bán đồ chơi. Nhưng hắn không phải là Sáu Xồm. Anh ta đặt cái túi xuống bên cạnh người bán đồ chơi trẻ con rồi giơ lên trước mặt người ra vào cổng chợ những gói thuốc bọc giấy nho nhỏ như những gói mực tím. Đó là một người bán thuốc rong.
Chiều hôm đó, sau khi ăn cơm xong, chú Miên bảo Nam:
– Đừng coi thường những biện pháp đơn giản, cháu ạ. Biết bao vụ án tìm ra được cũng chỉ nhờ những cách bình thường. Chú cháu ta hãy kiên trì đi tìm chúng nó vài hôm nữa xem sao.
Nam vẫn chưa thôi xấu hổ vì hồi sáng bé cái nhầm! Nó bảo chú
Miên:
– Chú cho phép cháu về qua nhà bố một chút…
– Cháu định tìm chúng nó ở đấy à? Sao cháu ngây thơ thế? Sẽ không bao giờ chúng trở lại chỗ ấy nữa đâu.
– Không, cháu muốn xem xem bố đã về chưa. Biết đâu bố cháu về chơi cũng nên.
– Được, cháu đi đến bảy giờ tối rồi hai chú cháu ta sẽ đi ra mấy cái rạp xi nê xem sao.
Nam ra đi và đêm ấy nó không về. Mười giờ đêm, chú Miên đi tìm Nam. Nhưng gian nhà vẫn đóng im ỉm, khóa lủng lẳng bên ngoài. Chú đập cửa gọi, vẫn không có ai thưa. Tất cả mọi người đều nói rằng chiều nay không hề thấy Nam về đây. Không ai gặp nó.
Chú Miên báo cáo với cấp trên. Nhiều chiến sĩ trinh sát được phân công đi tìm Nam. Nhưng mò kim đáy biển, sáng hôm sau vẫn không có tin tức về chú bé. Chú cán bộ vò đầu nói với chú Miên:
– Lỗ to rồi, đồng chí. Tưởng bắt về được ba đứa, bây giờ lại mất đi một!
***
Cách nhà bố khoảng năm mươi thước. Nam gặp hắn. Lần này thì không nhầm vào đâu được nữa. Dưới bóng tối một cây sấu già, Nam đi ngược chiều với hắn và trong lúc hắn cắm đầu nhìn xuống đi giật giật như gấu thì Nam đã đủ thời giờ nhận ra đám râu quai nón, mái tóc hớt cao, bộ quần áo lính bạc màu. Hắn không nhìn thấy Nam, nhưng chính Nam đã nhận ra hắn, rõ ràng, chắc chắn như khi cùng ngồi trong phòng với hắn hôm nọ vậy.
Nam vẫn cúi đầu đi tới. Bước đến một cái máy nước có hàng chục người giặt giũ, xếp thùng, Nam lẩn vào trong bọn họ rồi quay trở lại, núp sau một cây phượng, nhìn theo bóng hắn ta. Hắn đang đứng lại, bật lửa châm thuốc hút. Hắn liếc nhanh về phía sau nhưng tỏ ra phớt đời đến lạnh lùng, hắn lại đi, lần này đi chậm hơn, rẽ vào lối bờ sông Tam Bạc. Nam bám theo hắn, cách một khoảng vừa phải. Nam tính toán khoảng cách thế nào đủ để hắn không thể nhận ra Nam, còn Nam cũng không bị sổng mất hắn. Cứ mỗi lần hắn rẽ vào ngã ba nào đó, Nam lại “bứt” lên, khi “bắt” được hắn rồi, Nam lại chậm bước, giữ cự li cũ. Phải làm cách gì để thông báo cho chú Miên hoặc một chú công an nào đó. Nhưng cũng không thể rời hắn một giây. Hắn rẽ luôn, đi theo một đường ngoắt ngoéo không như người khác. Nam chỉ còn biết theo sát hắn, điều quan trọng nhất – nó nghĩ – là không để mất hắn. Sau đó làm gì hẵng hay.
Hắn ra phía bờ sông. Con sông phập phồng trong đêm. Bè gỗ, sà lan, thuyền bè chen khít. Bóng tối cũng rập rình theo nhịp của mặt nước xao động. Hắn vẫn đi theo bờ sông, dạo này bóng điện đường ít sáng và thưa thớt nên hắn dễ lẩn vào bóng tối. Nhiều lúc Nam tưởng hắn đã sổng mất, nhưng chỉ một chút sau lại hiện ra dưới quầng sáng của một ngọn đèn nào đó dưới mặt sông hắt lên.
Một quãng bờ sông tối om. Trước mặt hắn là con thuyền lớn, loại thuyền vẫn chở hàng về thành phố. Hắn bắt đầu đi chậm lại. Ngang tầm con thuyền, hắn bỗng quay ngoắt người và nhanh như một con cáo, bước ngược lại phía Nam. Trước khi nhận thấy được điều gì xảy ra với mình, Nam đã ở trong tay hắn. Bàn tay rắn như thép của hắn bịt lấy miệng Nam, hắn dùng cả cánh tay phải xốc nách Nam,
ép Nam sát vào người hắn làm chú bé đau ê ẩm. Hắn bước nhanh như chạy vài bước là hết tấm ván cầu, vứt Nam vào sạp thuyền tối om. Không kịp cho chú bé định thần, hắn nhét vào miệng chú một cái khăn mặt. Một cái đầu với mùi mồ hôi quen thuộc ghé sát đến Nam, sợi thừng nhỏ và mềm quấn quanh thân chú bé như con rắn. Muỗi Vằn làm công việc mà hắn thạo nhất.
– Đi thôi! – Nam nghe tiếng Sáu Xồm.
– Về Lò Vôi hả anh Hai? – Câu hỏi đó là của Hùng Lé.
Con thuyền dập dềnh, tiếng sào sục nước, những bước chân giẫm lên mui thuyền ầm ầm, Nam biết chắc thuyền đang rời bến. Lúc này, Nam không còn sợ nữa. Trong vài ngày chú bé đã qua nhiều nỗi hiểm nguy đến mức chú cảm thấy bình thường khi gặp lại lũ đầu trâu mặt ngựa “quen biết”.
Chỉ có một điều chú không biết: Sáu Xồm đã nhận ra Nam trước khi chú bé nhìn thấy hắn. Đó là khả năng thiên bẩm của lũ người sống thường xuyên trong bóng tối. Khi hắn dừng lại châm lửa hút thuốc, Nam đâu biết rằng hắn đang cười gằn. Cũng lúc đó trong đầu hắn nảy ra một ý nghĩ mới. Hắn sẽ làm con mồi dẫn con chuột nhắt vào cạm bẫy. Hắn muốn gạt bỏ mối nguy hiểm duy nhất đối với hắn trong thời gian ở thành phố này. Vả lại hắn cũng đang cần thêm một chú bé kháu khỉnh, thông minh và dễ thương. Hùng Lé vẫn còn chưa đủ.
Nam không biết khi Sáu Xồm kéo nó từ dưới sạp thuyền ẩm ướt lên thì đã mấy giờ đêm. Nó nhìn sao tua rua lung linh ở một phần trời. Tiếng sóng biển dào dạt đâu đây, mơ hồ vọng đến tai Nam như nhắc lại cuộc sống vừa mới qua nhưng không hiện ngày gặp lại. Thành phố, làng Phượng Vĩ, bóng dáng mẹ cần cù đi lại trong gian nhà tranh ấm cúng và sạch tinh tươm… Bé Việt, con thỏ đen tuyền và những tiếng nói, khuôn mặt quen thuộc. Nó nhớ đến bố với giọng cười sảng khoái trong những ván cờ và khi nó chiếu tướng thì bố lặng lẽ đưa tay xoa cằm. Lẽ nào nó sẽ phải từ giã tất cả? Lẽ nào nó sẽ không còn gặp lại cô Thi, bọn thằng Đào, thằng Thế và ngôi trường làng xanh um những tán bàng?
Con thuyền đang thả neo trong một cái lạch kín đáo. Nam biết Sáu Xồm cho thuyền ra phía biển, giấu thuyền giữa rừng sú. Có lần bố cho Nam đi thử một chiếc ca nô dã chiến nhà máy vừa mới đóng xong. Nam đã cùng bố và các chú đi trên những con lạch này. Nhưng sao đêm nay tất cả đều thật đáng sợ, cánh rừng và con lạch đều tối tăm với tiếng kêu buồn bã của những con mòng két lạc đàn.
Muỗi Vằn cởi trói cho Nam sau khi kéo Nam lên cho người dựa vào vách thuyền, trên tấm chiếu hoa, cùng với Sáu Xồm và Hùng Lé. Ngọn đèn Hoa Kỳ đủ sáng một khoang thuyền. Giữa chiếu là một đĩa kẹo, một chai rượu mùi và mấy khoanh giò đặt trên tấm lá chuối tươi. Sáu Xồm nói:
– Chú em láu cá lắm, chú nhà quê ạ. Chú em lại đòi bám đuôi ta cơ à? Cái thứ như chú em thì không làm được việc ấy đâu. Nhưng thôi, bây giờ ta xí xóa và chú em ăn đi. Muốn ăn gì thì ăn: kẹo, giò, thích uống rượu thì cứ uống.
– Ăn đi chứ, các chú – Muỗi Vằn nói – Xin phép anh Hai! Hắn lấy khoanh giò, nâng cốc rượu đã rót sẵn, ực một hơi.
Hùng Lé nhìn Nam. Từ nãy đến giờ nó không nói gì, nét mặt ủ dột. Nam nhìn thẳng vào mặt Hùng Lé. Đã hơn ba mươi tiếng đồng hồ rồi nó mới gặp lại thằng bạn mới làm quen trên sân ga. Trong lòng Nam sôi lên một cơn giận ghê gớm.
Nam muốn tỏ thái độ với Hùng nhưng không được. Bây giờ là lúc Nam phải tìm kế thoát thân và giúp các chú công an phát hiện ra chúng.
Nam im lặng, Hùng Lé hình như hiểu được cái nhìn của Nam. Nó quay mặt đi rồi bước ra đầu mũi thuyền. Sáu Xồm nhìn theo, một tia nhìn khó chịu. Nhưng hắn giấu ngay điều đó, trở lại vỗ về Nam:
– Chú xin lỗi cháu, vì hôm kia cũng như hôm nay phải dùng tay chân với cháu. Chẳng qua là tình thế bắt buộc mà! Cháu khá lắm, chú thấy ít đứa trẻ nào gan lì như cháu đấy – Hắn hạ giọng đủ cho Nam nghe thấy – Thằng Hùng cũng vậy đấy. Trước đây nó là đứa
trẻ anh hùng ra trò. Nhưng bây giờ thì hỏng rồi, chú nói thật đấy, hỏng rồi.
Thấy Nam trân trân nhìn xuống mặt chiếu, im lặng không nói gì, Sáu Xồm nhón mấy cái kẹo đặt vào tay nó.
– Ta hẵng quên chuyện cũ đi! – Sáu Xồm uống một hớp rượu – Cái nhà hàng xóm của cháu ấy mà, nếu chú không ra tay thì cũng có hội khác chúng nó làm, cháu đừng nghĩ gì mà mệt. Bây giờ hẵng nghĩ đến ngày mai. Này cháu, đời giang hồ khoái lắm. Chú sẽ nuôi cháu, chu cấp cho cháu đủ ăn xài, muốn gì có nấy. Chú cháu ta sẽ đi đây đi đó, nơi nào dễ làm ăn ta đến, đời như con cá, con chim, cháu thích không?
Nam thấy im lặng là hơn cả.
– Đến nước này thì cháu chỉ có hai lối ra thôi – Sáu Xồm nói giọng hăm dọa – Hoặc là cháu sẽ cùng đi với bọn ta hoặc ta bắt buộc phải xử tệ với cháu. Nghĩa là dù cách nào đi nữa, cháu cũng chẳng có hi vọng trở về! Bởi vì, cháu đã biết hết bí mật của bọn ta, phải không?
Có tiếng Hùng Lé trên mui thuyền:
– Cá xanh, anh Sáu!
Tiếng nói vọng xuống từ một cái cửa mở một bên mui thuyền. Sáu Xồm và Muỗi Vằn chạy ra đằng mũi. Bỗng Nam thấy từ sát cửa sổ rơi xuống một miếng giấy nhỏ. Nó nhặt lên, đọc thấy mấy chữ viết bằng bút chì: “Đầu hàng đi. Đừng cãi!”. Nam vo viên mẩu giấy quẳng vào cái bếp lò bên cạnh tấm chiếu. Vậy là thế nào? Hùng Lé muốn gì, nghĩ gì?
Hai thằng trở vào. Sáu Xồm nói với thằng kia:
– Thằng dở hơi! Ca nô biên phòng không vào thấu đây! Họ chỉ chạy đến ngã ba rồi rẽ vào sông cái. Đây thuộc địa phận của huyện rồi.
Sáu Xồm đã biết chọn nơi làm tổ cho cái ổ trộm cắp của hắn.
– Sao? Sao chú mày cứ lặng thinh vậy?
Sáu Xồm hỏi. Nam đang mải nghĩ về miếng giấy. Nó trả lời:
– Cháu buồn ngủ lắm rồi, chú cho cháu ngủ.
– Phải đấy nhỉ! Tuổi ăn tuổi ngủ mà. Vậy thì ngủ đi, ta sẽ tiếp tục nốt câu chuyện sau khi cháu thức dậy nhé!
Hai đứa cho Nam nằm sát vách thuyền rồi ngồi uống rượu với nhau. Nam cố gắng để không ngủ thiếp đi. Suy nghĩ cứ chen chúc, xô đẩy nhau giống như những cánh bướm lắt lay trước mặt Nam. Cũng có lúc chúng biến mất, những lúc đó Nam díp mắt lại. Nhưng Nam lấy ngón tay bấu vào đùi mình để có thể nhắm mắt mà không ngủ. Điều này không ngờ lại khó đến thế. Nam phải cố gắng hết sức để có thể tỉnh táo nghe ngóng xung quanh và coi chừng những hành động tội ác của bọn cướp.
Thời gian qua chậm chạp và nặng nề. Những mối đe dọa vẫn lẩn quất quanh đây. Bây giờ chúng không làm Nam lo lắng, sợ sệt nữa, mà trái lại, kích thích Nam. Nam muốn làm một việc gì đó, một hành động phi thường gì đó để có thể giúp các chú công an tóm được bọn cướp.
Đêm đã qua về sáng. Con thuyền như lọt hẳn vào khoảng không gian mênh mông của rừng, của cửa sông. Ngoài kia sóng bể rì rầm báo trước một ngày biển động. Hai đứa vẫn ngồi ăn giò, uống rượu với nhau, chúng uống rất nhiều nhưng nói năng vẫn tỉnh táo, suôn chảy. Còn Hùng Lé? Nó vẫn phải canh gác trên mui thuyền – Nam chắc vậy.
– Có xuồng của cánh Đầu Mom, anh Sáu! – Hùng Lé nói chõ xuống cửa sổ.
– Sao biết?
Sáu Xồm ngừng nhai, vểnh tai lên. Qua đôi mắt mở hé, Nam theo dõi cử chỉ của hắn và thấy hắn như một con thú đang xé con mồi, chợt phát hiện thấy một con mồi khác to hơn.
– Họ bấm đèn báo!
– Hai, một, hai. Đúng thế không?
– Đúng. Hai, một, hai.
Sáu quỳ lên, lấy một chiếc đèn pin đưa qua cửa sổ cho Hùng Lé.
– Trả lời đi, cho chúng nó đến. Vỡ tổ hay sao mà mò đến chỗ chúng mình vào buổi này? – Sáu Xồm nói với Muỗi Vằn.
Hắn giả vờ vô tình đè cái bắp đùi nặng như đá lên tay Nam. Nam tưởng như tay mình đang gãy, nhưng chú vẫn nằm im thở nhẹ. Một lúc sau có tiếng lạch cạch bên mạn thuyền. Nam đoán có một chiếc xuồng nhỏ đang cập mạn thuyền lớn. Sáu Xồm bảo Muỗi:
– Chú ngồi đây, anh ra. Không cho chúng nó lên thuyền. Hắn lấy một gói thuốc lá bỏ vào túi, chừng để tiếp khách.
Con thuyền tròng trành dưới bước chân hắn. Rồi có tiếng thì thầm khá lâu, tiếng nước lõm bõm. Sáu Xồm trở vào khoang:
– Mặc cánh vào, đi! – Hắn bảo Muỗi.
Bộ cánh đây là chiếc áo bộ đội cũ, dài tay. Muỗi mặc vào và Nam hé nhìn thấy hắn có vẻ tử tế hẳn lên. Chú Miên bảo rằng bọn trộm cắp mua áo bộ đội cũ giá rất đắt là vì thế. Đó là bộ cánh mà con sáo mượn của con công.
Muỗi hất hàm chỉ Nam:
– Thằng kia?
– Số 8! – Sáu nói – Rồi giao nó cho thằng Hùng. Chúng nó đánh thức Nam dậy. Sáu Xồm nói:
– Này, chú bé. Vì chú chưa trả lời những điều anh nói với chú nên bắt buộc phải làm thế này. Bọn anh đi có tí việc, về ngay. Ở nhà với Hùng phải tử tế đấy nhé!
Muỗi lấy một cái còng sắt (có lẽ chúng nó tự làm lấy vì trông nó thô kệch và nhớp nhúa) đút tay Nam vào, bóp một cái tách. Chúng ra đi. Tiếng va chạm lạch cạch, nước róc rách, nghe xa dần. Một lúc lâu, Hùng Lé nhảy từ trên mui xuống làm con thuyền lạng hẳn về một bên.
– Chú mày vẫn thức cơ à? Ở trên ấydĩn1 nhiều quá. Nó ăn thịt tao nãy giờ rồi – Nó bảo Nam.
Trông nó vội. Ngay cả khi nói với Nam, giọng cũng không tự nhiên.
Nam nghĩ Hùng Lé đang lên cơn sốt.
– Mày đừng nhìn tao như vậy, Nam! Tao có chuyện bàn với mày – Hùng nói. Chợt nó nhìn thấy cái còng sắt trên cổ tay Nam – Lại thế nữa cơ à? Thằng Muỗi! Để tao mở cho mày.
Nó rút trong túi ra chùm chìa khóa kỳ lạ mà Nam đã từng thấy. Nó tìm chìa.
– Vừng ơi, mở cửa…
Cái khóa bật ra. Hùng Lé nghiến răng đập chiếc còng xuống sạp thuyền làm mấy cái chén nhảy lên như khiêu vũ rồi quẳng xuống sông.
Khôn ngoan, ác độc mấy cũng có lúc dại dột. Sáu Xồm và cả Muỗi nữa quên mất rằng Hùng Lé có một chùm chìa khóa, không phải chỉ mở được cửa nhiều nhà lương thiện mà còn mở được cái còng của chúng nữa.
– Thằng Muỗi đã từng còng tao một lần. Nó cóc biết rằng tao phải sắm riêng chiếc chìa này để thoát lúc chúng nó muốn nhốt tao.
Nhưng bây giờ thì không còn thì giờ dông dài chuyện trò với mày nữa. Mày phải làm theo lệnh tao, nghe không? Nếu mày muốn sống và muốn thoát cái ổ này! – Hùng nói tiếp, nghĩa là nó ra lệnh – Mày đừng hỏi gì tao, mở cái sạp thuyền phía mũi lên, lấy một số thứ cần dùng rồi đi ngay. Trong vòng nửa giờ nữa, chúng sẽ trở lại, hiểu chưa?
Nam nhận ra nhiều thứ đồ đạc quen thuộc của nhà bác Thịnh. Đây là cái quạt Nhật có mấy cái cánh màu xanh da trời. Đây là cái va li da bò… Bỗng nó nhìn thấy một con búp bê nhỏ lăn lóc bên cạnh cái va li. Nó cầm lên. Đúng là con búp bê của bé Liên.
– Lấy cái này theo được không? – Nó hỏi Hùng Lé.
– Tùy mày! Còn tao thì tao đã chuẩn bị sẵn đây rồi – Nó nạy một tấm ván bên cạnh cái bếp rồi lấy lên một chiếc ba lô con cóc căng phồng.
Nam bỏ con búp bê vào túi quần (một con Mariútca1 của Liên Xô bằng nửa cái lọ mực). Giá như nó có cách gì lấy lại tất cả các thứ về trả cho bác Thịnh.Nhưng Hùng Lé vỗ vào vai nó nói:
– Lên mui đưa thuyền vào bãi với tao.
Nam lẳng lặng làm theo lệnh Hùng. Nó nghi ngờ, khó hiểu, đầu óc cứ rối mù vì những câu hỏi không trả lời nổi. Nhưng dù sao thì thằng phản bội ấy đã mở khóa cho nó, đã quẳng cái còng xuống sông và bây giờ nó đã được tự do.
Phút chốc hai đứa đã đứng bên mép bãi sú, bùn ngập tận đầu gối.
Hùng bấm đèn pin về phía mũi thuyền bảo Nam:
– Mày hãy nhớ những con số này: TX 162. Số đăng kí chính thức của chiếc thuyền buôn chạy biển. Giấy tờ của con thuyền cũng như của chúng nó đều là những giấy giả giống như thật!
Hai đứa trẻ giống như hai chiếc lá nhỏ rơi vào cánh rừng sú vẹt mênh mông ở vùng cửa sông. Bùn lỏng mút chặt cẳng chân chúng, trên đầu là màn đêm và tán lá cây đen kịt. Vừa thoát khỏi cái còng số tám của lũ trộm cướp. Nam rơi tõm vào bùn lầy và bóng đêm.
Có điều khác là, cái còng thì có thể không bao giờ được mở ra, nhưng bùn lầy rồi sẽ hết và bóng đêm sẽ lùi dần khi bình minh trở lại. Miễn là Nam có thể bước tiếp, bước mãi chứ đừng quỵ xuống bùn lầy.
Nhưng bùn lầy và bóng đêm vẫn chưa phải là điều làm Nam sợ hãi nhất.
– Hùng, mày dẫn tao đi đâu thế này?
– Im lặng là vàng, thằng nhóc.
– Tao thèm vào vàng bạc của mày. Tao không đi nữa.
– Mày điên à?
– Nhưng mày dẫn tao đi đâu mới được chứ?
– Đi trốn. Thằng ngốc, thằng thộn, thằng quê ạ.
Cứ một chữ là Hùng bước một bước, bùn ọp ọp dưới chân.
Nam sợ bị tụt lại sau. Nó dấn lên, cố đuổi kịp Hùng Lé.
– Mày vừa nói gì vậy?
– Vừa nói như thế đấy.
– Thằng phản bội! Thằng lừa đảo! Tao không để mày lừa lần nữa đâu.
– Tao còn là thằng ăn cướp nữa, mày hiểu chưa? Thằng đuôi , cái mũi, cái kính trong các vụ đánh vòm, mày vừa lòng rồi chứ? Nhưng im mồm đi, mày nói là tao đánh đấy. Ban đêm tiếng nói nghe xa đến
bốn mươi kí lô mét chứ không phải vừa đâu. Cứ bơi sang cái lạch Rốn kia thì mày hát cũng được. Nào, đưa tay đây tao kéo qua cái rễ cây này.
Những cây sú đan nhau. Rễ chúng thành hàng rào, bao năm rồi, chúng phải tự vệ để chống lại sóng gió. Nam phải khó nhọc lắm mới bước qua được những hàng rào như thế trong đêm. Nhưng Hùng Lé là một con chồn ăn đêm, nó đi qua thật dễ như bước trên hè phố giữa ban ngày ban mặt vậy.
Nó kéo mạnh một cái, lôi thằng Nam ra khỏi đám lầy. Hai đứa ngồi xuống đám rễ cây, thở hổn hển.
– Tao sẽ nói cho mày sau, nhóc ạ. Nhưng nếu mày không tin tao thì quay lại đi. Để Sáu Xồm nó đón tiếp mày.
– Có phải mày quẳng miếng giấy xuống cho tao không?
– Thế mày tưởng nó ở trên trời rơi xuống à? Tao sợ mày nổi khùng với chúng nó thì sẽ khốn nạn cái thân mày. Mày có biết bơi không?
– Tao bơi được nhưng chóng mệt lắm. Chưa bao giờ tao dám bơi xa, ở chỗ sâu.
– Vậy thì mày sẽ chết chìm.
Có tiếng hú dài từ phía con thuyền đậu. Tiếng hú vọng đến chỗ hai đứa như tiếng bò rống ngày mưa. Hùng Lé nhảy xuống bùn.
– Ra lạch ngay đi, chúng nó trở về rồi đấy.
Hai đứa đã rời thuyền khoảng hơn nửa tiếng rồi. Nhưng Nam phải bơi qua một cái lạch như thế nào nhỉ? Nó sẽ chết đuối mất.
– Tao bơi kém quá, Hùng à!
– Thì mày chỉ có cách ở lại bên này thôi, chờ nước xuống mà lội sang, thằng quỷnh à! Hay là mày trở lại thuyền với bọn chúng nó?
– Tao sẽ dẫn các chú công an trở lại thuyền để bắt chúng nó.
– Thằng ngốc ơi, mày tưởng Sáu Xồm cũng quỷnh như mày đấy hẳn? Nó có phải là con bò cái đâu mà bắt dễ dàng như mày nói. Nhưng im mồm đi, mày không nghe thấy gì à?
Nam nghe tiếng rì rầm, tiếng gọi nhau và những tiếng ì oạp của nhiều người trong đám bùn. Chúng nó đang lùng tìm. Mà không chỉ có Sáu Xồm và Muỗi. Còn những đứa khác, chắc là đến trên chiếc xuồng.
Hùng không nói không rằng, tóm tay Nam vừa chạy vừa ngã dúi ngã dụi, lóp ngóp trong đám bùn. Cành sú gãy do cơn bão cuối mùa năm ngoái bây giờ đã khô, làm rách toạc mấy miếng áo của chúng. Nam bị một vết xước rỉ máu gần thái dương. Kẻ gian đuổi người ngay, tình thế thật ngược đời. Khi kẻ gian đi săn đuổi thì chúng đã thừa thãi kinh nghiệm của kẻ chạy trốn nên chúng biết cách rút ngắn khoảng cách và thời gian. Sáu Xồm biết chắc chắn Hùng Lé và Nam đang chạy trốn theo lối nào vì chính hắn đã bày vẽ cho bọn đàn em con đường tốt nhất để “tháo cày” khi bắt buộc phải rời thuyền trong tình cảnh khẩn cấp. Cho nên, theo sự chỉ huy của Sáu, mấy tên kia đã bấm đèn pin tìm đúng dấu vết hai đứa trẻ vừa để lại phía sau.
Hùng Lé và Nam đã đến mép lạch. Chỗ này có một đống đá, nguyên trước đây là móng của một ngọn hải đăng hướng dẫn tàu bè vào cảng. Chính Sáu Xồm đã có lần dẫn Hùng và Muỗi ra đây chỉ cho đàn em con đường ngắn nhất, dễ vượt qua lạch nhất sang bên kia.
Nhưng từ vực thẳm này, Nam và Hùng lại rơi xuống vực thẳm khác. Hai đứa vừa thoát được bóng đêm và rừng cây thì lại đứng trước một con lạch dào dạt nước thủy triều.
– Chết rồi, mày ơi! – Hùng thảng thốt – Nước đang lên! Nước này thì đến tao cũng không bơi sang nổi.
Nam nhìn con sông, một con sông thực sự và nó thấy rằng Hùng nói đúng. Nhưng biết làm thế nào bây giờ?
Hùng bỗng vồ lấy tay Nam, reo lên:
– À, phải rồi! Bây giờ ta quay lại, chiếm lấy cái xuồng rồi biến. Lại thong dong nữa chứ.
– Nhưng chúng nó cũng quay về và đuổi kịp thì sao? – Nam lo lắng hỏi.
Hùng suy nghĩ một chút, rồi bảo:
– Cởi quần dài ra, vứt lại đây, làm như tao với mày đã bơi sang bên kia. Rồi cứ theo dấu chân cũ, đi trở lại một đoạn ngắn. Sau đó rẽ đường khác tìm đến cái xuồng.
Nam vẫn khư khư cầm con búp bê của bé Liên. Nó không muốn bỏ lại thứ đồ chơi thú vị ấy. Hai đứa quay lại, rẽ sang trái đã nghe giọng Sáu Xồm:
– Tìm được Hùng Lé thì tao chọc tiết! Nó đi thì công an đến, chúng mày hiểu chưa?
Lũ chó săn đang đi ngược phía với hai con mồi.
Khoảng cách giữa hai bên ngày càng xa. Có lẽ lúc Nam và Hùng Lé đến chỗ cái xuồng bỏ không ở mép bãi thì đằng kia, phía sau cánh rừng bạt ngàn, đen kịt, lũ Sáu Xồm đang đứng bàn bạc với nhau trên đống đá.
Hùng Lé nhảy lên xuồng trước. Nó nhổ sào và hai đứa nằm mọp xuống lòng xuồng, đề phòng thằng gác trên mui thuyền có thể phát hiện ra. Nhưng chúng quá lo xa. Muỗi Vằn đang ngủ. Nó buồn tình nốc hết chỗ rượu còn lại và ngủ say tít trên mui thuyền. Vả lại trời còn tối, trời chỉ sắp sáng thôi, chưa sáng hẳn.
Hai thằng bé đã có chỗ tính nhầm. Chúng không biết rằng nước thủy triều bắt đầu xuống. Vùng cửa sông đang hiền hòa bỗng trở nên hung dữ, nước cuộn chảy như sông Hồng trong mùa mưa lũ.
Hai thằng bé, với chiếc xuồng bé như lá tre, bị nước cuốn băng băng, không cách nào hãm nổi. Trên xuồng chỉ có một cái sào, khi Hùng Lé định cho sào xuống nước để lái xuống chếch về phía bờ bên kia thì sào bị hụt. Hùng buông tay ra và thế là cái sào cũng mất nốt. Chiếc xuồng trôi ra sông cái, phía xa là cửa biển. Hai đứa vừa thoát được rừng thì đang gặp phải biển. Rừng chỉ tối tăm, bùn lầy, còn biển là sóng bạc đầu, là gió lớn. Ở rừng thì sợ, vất vả nhưng lần mãi rồi thế nào cũng có lối ra. Còn ở biển thì có thể bị lật xuồng và làm mồi cho cá.
Dòng sông vẫn còn tối om khi chúng qua thành phố nổi: Đó là khu cảng. Những con tàu sáng rực ở bờ bên kia, chỉ cần lạng xuồng sang bên đó là có thể được cứu thoát, được gặp các chú công an và mọi việc đều tốt đẹp. Nhưng cửa sông bên này vẫn tối om, bên kia sáng bao nhiêu thì bên này tối bấy nhiêu. Vì quầng ánh sáng lớn của những chiếc tàu thủy khổng lồ ấy mà hai thằng bé lóa mắt. Chúng không thể nhận ra phương hướng nào nữa. Chỉ biết rằng xuồng đang trôi như tên bắn và trước mặt là chân trời, thỉnh thoảng chớp sáng một ngọn hải đăng từ đâu rất xa. Chúng nó biết rằng đó là biển.
Hai đứa chạm tay làm loa kêu cứu. Nhưng tiếng kêu của chúng chỉ là một tiếng dế trong khung cảnh ồn ào của bến cảng. Một chiếc tàu kéo lưới đi qua suýt nữa va vào mũi xuồng, nhưng không ai trên tàu nghe thấy tiếng chúng gọi. Ra gần biển, sông càng rộng và chúng càng ít gặp thuyền hay tàu. Nam và Hùng Lé mỗi lúc một lo sợ hơn. Riêng Nam càng nóng ruột, nó sợ thời gian càng kéo dài thì Sáu Xồm càng có khả năng chạy trốn.
Trời sáng dần, hai đứa giật mình kinh hãi: Bốn bề là nước mênh mông. Dãy núi đảo mờ mờ đằng xa không đủ gây được ấn tượng về đất liền mà chỉ như một đám mây. Chúng thực sự bị trôi ra biển. Chiếc xuồng xem ra quá bé nhỏ với khung cảnh chung bao la, nhưng may mắn là sông buổi sáng thường nhỏ nhẹ nên ngồi trên chiếc lá tre ấy chúng nó vẫn thấy vững vàng. Vả lại, nước cũng ngừng chảy mạnh. Gió đông hây hẩy thổi chỉ đủ làm tròng trành conthuyền. Hùng Lé tươi tỉnh lắm. Nó khoan khoái hít thở bầu không khí trong sạch và khoáng đãng của biển khơi, trong khi Nam lo âu, suy nghĩ. Biết thế Hùng an ủi Nam:
– Mày biết không, ngay bây giờ đây này, xuồng chúng mình đang nằm trong ống kính ngắm của đài quan sát hải quân! Rồi bộ đội biên phòng ở Đồ Sơn và ở đảo nữa. Tao biết lắm, khó mà lọt mắt họ đâu. Oắt con ơi, tao chỉ lo người ta tóm chúng mình sớm, không được chu du một chuyến trên Biển Đông mà thôi!
Vậy ra Hùng Lé vững vàng vì nó biết chắc chắn sẽ bị tóm, đúng hơn, được cứu đúng lúc. Nhưng ngay cả điều ấy cũng không làm Nam yên tâm hơn. Nhỡ có một cơn lốc?
– Nam Quỷnh này, giá như con tàu chúng mình chắc chắn một chút thì chúng ta sẽ làm một chuyến phiêu lưu trên mặt biển – Hùng nói, vẻ tự tin – Tao sẽ là thuyền trưởng Nê-mô, còn mày, mày muốn là Nét, là Công-xôn1 hay nhà bác học?
– Mày cũng đọc sách cơ à?
– Ừ nhỉ, mày hỏi câu ấy cũng phải. Thưa ông oắt con, Hùng này cũng đã từng học hết lớp sáu rồi đấy, nhưng tao gặp chuyện không may, vậy thôi – Hùng hạ giọng, mắt nó hơi buồn – Mà tao phải kể cho mày nghe mới được. Tao định trốn khỏi thuyền là bảo mày đến gặp công an. Mày sẽ nói với họ về bọn Sáu Xồm. Ngày hôm nay và tối nay chúng định tổ chức một trận đánh vòm vào kho cảng. Sáu Xồm phối hợp với bọn trên sông đêm qua chèo xuồng đến ấy. Rồimày cũng sẽ nói với họ về tao, mày sẽ nộp tao cho họ. Nhưng vậy là ý định ấy không thực hiện được rồi.
– Sao mày không tự mình đến gặp các chú ấy?
– Tao không muốn. Dù sao tao với chúng nó cũng từng là một hội! Tao sẽ về quê tao.
Hùng nghẹn giọng. Nó ngả người nhìn từng đám mây trắng bay qua bầu trời, bắt đầu kể:
– Mẹ tao rất hiền…