Quan Đại tướng ở trên gác, người gác cổng ở dưới nhà hầm. Hai gia đình sống rất xa cách nhau, trước hết là tầng dưới nhà ngăn biệt họ, sau nữa là do sự khác nhau về đẳng cấp. Nhưng họ cùng sống dưới một mái, cả hai tầng nhà cùng trông ra một phố và nhìn ra một sân.
Trong sân có một bãi cỏ, ở giữa có một cây dạ hợp ra hoa vì lúc ấy đang mùa dạ hợp nở. Thỉnh thoảng chị vú em ăn vận đỏm dáng quá mức đến bên gốc cây, tay ẵm đứa con gái quan Đại tướng, cô bé Êmily, ăn vận còn đỏm dáng gấp mấy lần chị vú kia. Trước mặt cô, cậu con trai người gác cổng, chân đất, đang nhảy múa. Chú có đôi mắt to, đen và bộ tóc hung hung đỏ. Cô bé mỉm cười và giơ đôi bàn tay xinh xinh về phía chú. Khi quan Đại tướng đứng trên cửa sổ nhìn thấy cảnh tượng ấy ngài gật đầu mà rằng: “Thật là tuyệt!”
Đại tướng phu nhân, trẻ đến nỗi người ta có thể tưởng lầm là con gái của đức ông chồng, không bao giờ thèm nhìn qua cửa sổ xuống sân. Bà đã ra lệnh rằng thằng cu, con cái nhà ở dưới hầm, rất có thể được chơi đùa trước mặt cô chiêu để mua vui cho cô, nhưng không được động vào cô bé. Chị vú em rất trung thành với mệnh lệnh của bà chủ. Nắng soi vào nhà những người ở dưới hầm, cũng soi vào nhà những kẻ ở trên gác. Hoa dạ hợp theo từng mùa nở rồi lại rụng. Năm sau cũng lại thế. Chú bé con người gác cổng bụ bẫm, cái đầu đáng yêu với đôi má hồng giống như một bông hoa huệ to đang nở. Cô con gái quan Đại tướng thì thanh tao và xinh xắn, da trắng hồng như hoa dạ hợp. Cô rất ít khi đến dưới gốc cây. Cô thường đi xe ngựa ra ngoài hóng mát với mẹ. Khi đi và khi về bao giờ cô cũng gật đầu với con trai người gác cổng tên là Gioóc: Ừ, mà cô lại còn lấy tay ra hiệu gửi cho chú những cái hôn, cho đến khi mẹ cô bảo rằng bây giờ lớn rồi, làm như thế không còn hợp nữa.
Một buổi sáng, Gioóc phải mang cho quan Đại tướng báo chí, thư từ gửi đến nhà từ lúc sớm. Khi leo lên cầu thang, đi ngang qua trước cái ngăn chứa cát chú nghe thấy bên trong phát ra tiếng chiêm chiếp. Chú tưởng đấy là tiếng kêu của một con gà bị lạc vào đấy. Nhưng hoá ra là con gái quan Đại tướng, cô Êmily mặc toàn hàng sa mỏng và đăng ten.
Cô thì thầm: – Đừng nói gì với ba má nhé, không thì ba má lại giận đấy!
Gioóc hỏi: – Nhưng cái gì thế mới được chứ?
Cô trả lời: – Cháy cả rồi, bốc lửa tất cả rồi!
Gioóc nhảy phắt lên thang và vào nhà quan Đại tướng. Chú mở cửa buồng cô bé. Những bức rèm đã gần thành tro, còn những cây suốt bằng sắt thì đỏ rực. Gioóc trèo lên một cái ghế, giật tất cả những thứ đang cháy và kêu cứu. Không có chú thì cả căn nhà đã làm mồi cho thần lửa.
Quan Đại tướng và phu nhân đem cô bé Êmily ra tra hỏi ngọn ngành. Cô nói:
– Con đã đánh một cái diêm, có mỗi một cái thôi. Nó bùng lên và cái rèm cửa cũng bùng lên nốt. Con nhổ nước bọt, cố hết sức nhổ để dập tắt. Khi hết nước bọt, con chạy đi trốn, sợ ba má giận.
Đại tướng phu nhân nói:
– Nhổ! Con nói cái gì thế? Có bao giờ con thấy ba má nói tiếng ấy không? Chắc con lại học được của cái bọn dưới nhà hẳn?
Dẫu sao Gioóc cũng được một hào tiền thưởng công. Chú không đi mua bánh ngọt mà bỏ vào ống tiền để dành. Chẳng bao lâu sau chú đã có đủ tiền mua một hộp bút chì màu để tô tranh vẽ của chú cho rực rỡ, vì Gioóc hay vẽ lắm. Nom những ngón tay nhỏ nhắn của chú sai khiến cái bút chì thì thật là tuyệt khéo. Chú đem tặng những bức tranh màu đầu tiên cho Êmily. Quan Đại tướng khen: “Thật là tuyệt!” Ngay Đại tướng phu nhân cũng phải đồng ý là mọi người đều nhận ra rất rõ những cái mà chú bé muốn diễn tả. “Thằng bé có thiên tài đấy!” Đó là những lời mà bà gác cổng nghe thấy và chạy xuống hầm kể lại.
Quan Đại tướng và phu nhân đều là những người quyền quý. Các ngài đã cho sơn lại hai bên xe ngựa mỗi bên một tấm gia huy của riêng mình. Phu nhân còn cho thêu lên từng chiếc áo quần hai hình chiếc gia huy đó, một chiếc vào mặt phải, một chiếc vào mặt trái, thêu vào những túi đựng đồ đi du lịch và cả những chiếc mũ trùm đầu đi ngủ. Gia huy nhà phu nhân là do cụ thân sinh mua rất đắt, mất vô khối là tiền mặt, trả bằng đồng Đơniê đếm mỏi cả tay. Khi mới sinh ra cả cụ thân sinh lẫn phu nhân đều chẳng phải là dòng dõi quyền quý, phu nhân đã ra đời trước tấm gia huy bảy năm. Hầu hết mọi người đều nhớ việc ấy, nhưng phu nhân thì không mảy may nhớ đến.
Gia huy của quan Đại tướng thì cổ kính và rắc rối. Đeo cái loại gia huy ấy phải đứng ưỡn người ra, xương kêu răng rắc. Không biết có thêm những chiếc khác nữa thì làm thế nào? Bởi thế cho nên người ta nghe thấy xương Đại tướng phu nhân kêu lên răng rắc mỗi khi bà thẳng đừ trong bộ áo diện nhất, leo lên xe để vào triều dự hội khiêu vũ.
Quan Đại tướng đã già, tóc đã bạc. Nhưng khi cưỡi ngựa thì trông ngài cũng còn ra vẻ lắm. Ngài biết thế lắm nên ngày nào ngài cũng đi ngựa. Một chú lính hầu đi theo cách ngài một quãng rõ đúng kiểu cách. Khi ngài tiến vào phòng khách, người ta tưởng ngài vẫn còn chót vót trên lưng con ngựa cao lớn của ngài. Còn mề đay thì ngài có nhiều vô kể, chằng chịt nặng trĩu cả người. Nhưng cái đó thực ra không phải lỗi tại ngài. Ngài vào quân đội từ ngày còn trẻ măng. Ngài vẫn thường dự những buổi hành quân tập trận nhỏ mà quân đội vẫn tiến hành vào mùa thu trong thời bình. Về vấn đề ấy ngài thường kể một giai thoại, và ngài cũng chỉ biết có một chuyện ấy thôi.
Một hôm, một hạ sĩ quan dưới quyền ngài cắt đứt đường rút lui của một ông hoàng và bắt được Đức ông cùng với cả đoàn tuỳ tùng làm tù binh. Ông hoàng và đoàn theo hầu, với tư cách là tù binh, phải đi ngang qua thành phố, theo sau vị tướng thắng trận. Đó là một sự kiện đáng ghi nhớ mà quan Đại tướng năm nào cũng kể đi kể lại. Ngài kể lại một cách trung thành những lời mà ngài đã nói khi trao trả lại cho ông hoàng thanh kiếm: “Chỉ có một hạ sĩ quan mới bắt được Đức ngài làm tù binh. Tôi thì chẳng bao giờ có thể làm thế được.” Ông hoàng đã trả lời ngài: “Ông thật là người có một không hai.”
Quan Đại tướng chưa hề ra trận bao giờ. Có lần nổ ra chiến tranh thì ngài lại được cử làm sứ thần sang ba triều đình. Ngài nói tiếng Pháp rất thạo, đến nỗi gần quên cả tiếng mẹ đẻ. Hơn nữa ngài khiêu vũ tuyệt thạo. Bởi thế cho nên mề đay mọc trên ngực ngài như cỏ dại mọc trên đồng. Lính gác bồng súng chào ngài. Một trong những cô gái trẻ đẹp nhất Đan Mạch cũng kính phục ngài và trở thành Đại tướng phu nhân. Họ sinh được một cô gái tuyệt mỹ. Cô bé xinh đẹp đến nỗi người ta bảo là con giời cho. Đó là cô Êmily của chúng ta. Thoạt đầu con trai bác gác cổng nhảy múa ngoài sân trước mặt cô để mua vui cho cô, rồi về sau lại cho cô những tấm tranh tự tay chú vẽ và tô màu. Cô bé Êmily xem tranh, lấy làm vui thích tợn, nhưng rồi xé luôn. Thế nhưng cô vẫn ngoan làm sao!
Đại tướng phu nhân bảo:
– Cánh hồng của ta ơi, con sinh ra là để sánh vai với một ông hoàng.
Ông hoàng chẳng phải ở đâu xa, ở ngay trước cửa ấy. Nhưng chẳng ai biết tý gì cả. Người ta chẳng bao giờ nhìn xa quá ngưỡng cửa. Một hôm bác gác cổng gái nói với chồng rằng:
– Hôm kia con giai chúng mình đã chia nhau với tiểu thư cái bánh ngọt của nó, bánh chẳng có nhân thịt mà cũng chẳng có pho mát. Nhưng cô bé thì lại cho là rất ngon, cứ như ba tê ấy. Nếu Đại tướng hoặc phu nhân mà trông thấy bữa ăn của trẻ em ấy thì lại lắm chuyện. Nhưng các ngài chẳng biết tí gì cả.
Gioóc đã chia sẻ tấm bánh của mình cho cô bé Êmily. Chú cũng sẵn lòng chia sẻ trái tim cho cô nếu điều đó làm cho cô vui thích. Chú là đứa trẻ rất tốt, thông minh, lanh lợi. Chú thường theo học lớp vẽ buổi tối. Cô bé Êmily cũng đi học, cô nói tiếng Pháp với vú em và đã bắt đầu học nhạc.
Bác gác cổng gái nói với chồng:
– Thế là thằng Gioóc sắp sửa phải chịu lễ ban thánh thể vào ngày lễ phục sinh này rồi.
Ông lão nói:
– Tốt hơn hết là cho nó đi học việc. Phải chọn cho nó một nghề nghiệp chắc chắn. Như thế thì nhà này sẽ vắng nó.
Bà lão trả lời:
– Bao giờ mà nó chả ngủ ở nhà. Có ông chủ nào lại cho thợ học việc ngủ trong nhà bao giờ. Chúng mình vẫn phải may mặc cho nó. Thế thì thà giữ nó ở nhà còn hơn. Chúng ta cũng có thể bòn đủ nuôi miệng nó. Vài củ khoai, thế là nó hài lòng rồi. Nó đi học vẽ không mất tiền. Thầy giáo nó chả bảo: “Cứ để cho nó theo đuổi”, rồi sau này nó sẽ làm cho chúng ta sung sướng hay sao?
Quần áo mặc ngày lễ ban thánh thể đã may xong. Mẹ Gioóc tự tay khâu lấy. Bác thợ may hàng xóm, vốn là một người khéo tay, đã cắt hộ. Bác gác cổng gái bảo:
– Nếu ông ta có thể có một cửa hàng lớn với đủ thợ và người học việc ở một phố lớn thì ông ta sẽ trở thành thợ may của nhà vua.
Quần áo đã may xong và Gioóc cũng đã sẵn sàng. Đến ngày đại lễ, chú được ông bố đỡ đầu là một người làm công già ở cửa hiệu buôn sắt tặng cho một chiếc đồng hồ quả quýt to bằng bạc, cũ kỹ và đã qua tay nhiều người. Nó vẫn chạy nhanh, nhưng như thế còn hơn là chạy chậm. Đó là một món quà rất quý.
Cô tiểu thư bé nhỏ mà Gioóc vẫn tặng tranh gửi cho chú một tập thánh thi bọc da. Trên đầu quyển sách có ghi tên Gioóc và Êmily với những chữ: “Người bảo hộ thân ái của anh.” Câu đó do Đại tướng phu nhân đọc cho cô bé viết từng chữ. Quan Đại tướng đã xem và bảo: “Thật là tuyệt!”
Bác gác cổng nói: – Thật là một biểu hiện của những con người dòng dõi quyền quý.
Gioóc phải mặc quần áo đẹp, cầm quyển thánh thi lên gác để trình diện và tạ ơn.
Đại tướng phu nhân quấn đầy khăn san và áo choàng, ngồi trên ghế xô pha. Ngài đang bị một con nhức đầu ghê gớm, thường hay mắc vào những lúc buồn phiền. Ngài cố giữ vẻ không dịu dàng lắm với Gioóc, chúc chú mọi sự may mắn, và nhất là không bao giờ mắc chứng nhức đầu.
Quan Đại tướng đang đi dạo trong bộ áo ngủ, đầu trùm chiếc mũ có ngù lớn. Ngài đi một đôi ủng da có sọc đỏ. Chìm đắm trong sự suy nghĩ hoặc trong hồi ức của mình, ngài đi đi lại lại liền ba lần khắp gian phòng, rồi dừng lại bảo: “Thế là thằng bé Gioóc được nhận vào hàng ngũ con chiên! Hãy trở nên một người lương thiện và phải tôn trọng nhà nước. Làm đúng lời răn ấy thì mày sẽ khá và lúc về già mày có thể tự nhủ rằng chính quan Đại tướng đã dạy mày như thế.”
Nói liền một mạch như thế là quá nhiều so với thói quen của quan Đại tướng. Bởi thế cho nên ngài lập tức trở lại trầm tư mặc tưởng. Ngài có một vẻ nghiêm nghị rất thích hợp với con người của ngài. Nhưng, trong tất cả những cái mà Gioóc nghe thấy và trông thấy hôm ấy, trên gác, chỉ có hình ảnh cô bé Êmily là khắc sâu vào tâm trí của chú, không thể nào phai nhạt được, hơn cả mọi cái khác. Dịu dàng, thanh tao và đáng yêu, trông cô như một con chim non đang bay nhảy.
“Có lẽ phải vẽ cô ta lên một cái bong bóng xà phòng.” Gioóc tự nhủ khi thấy cái vật lơ lửng trên không ấy. Những búp tóc to vàng óng của cô toả ra một hương thơm như hoa hồng mới nở. Chính với nàng tiên ấy, con người thần tiên ấy, năm nào chú đã cùng chia sẻ tấm bánh ngọt và cô bé đã ăn phần của mình một cách ngon lành, cứ mỗi miếng lại gật đầu với chú, tỏ vẻ hài lòng. Không biết cô còn nhớ đến chuyện ấy hay không? Chắc là có và chính cô đã tặng quyển thánh thi này để cảm ơn chú.
Sau chuyện trên đây, đến tuần trăng đầu tiên năm mới, chú ra giữa đồng, trong túi để một mẩu bánh, tay cầm quyển thánh thi mở ra bói một quả xem hậu vận ra làm sao, vì người ta thường làm thế và tin rằng lời phán của thánh không bao giờ sai cả.
Chú mở quyển sách, bói đúng vào một đoạn thơ nói về sự tạ ơn, tiên đoán cho chú một hậu vận sung sướng. Chú mở ra lần thứ hai để bói xem số phận cô bé ra sao. Chú hết sức chú ý để đừng mở sách vào đúng những đoạn thơ nói về sự chết, nhưng chú mở phải trang sách chỉ nói đến sự chết và mồ mả. Gioóc kêu lên để tự làm yên lòng: “Đó chỉ là những điều mê tín dị đoan.” Nhưng chú mới lo sợ làm sao khi ít lâu sau cô bé đáng yêu ốm liệt giường và xe thầy thuốc ngày nào cũng đến đỗ trước cửa.
Bác gác cổng gái nói:
– Họ chả giữ được cô bé đâu. Ông giời chí nhân rất sáng suốt khi định bắt ai về chầu!
Thế nhưng họ vẫn giữ được và cô bé thoát khỏi những sự đe doạ của lời bói toán. Khi cô đang an dưỡng Gioóc vẽ tranh và gửi cho cô mua vui. Một hôm chú vẽ lâu đài của Sa hoàng, điện Kremlanh cổ kính, với những ngọn tháp nóc tròn, trông như những quả bí khổng lồ vàng rực dưới ánh mặt trời. Ít ra chúng cũng giống như thế trong bức tranh của Gioóc. Cô bé Êmily xem thích lắm. Thế là Gioóc lại vẽ cho cô xem một loạt tranh mới, toàn nhà là nhà, vì chú tự nghĩ rằng cô bé sẽ vui tươi tưởng tượng đến vô khối những vật xinh đẹp có thể có ở đằng sau những cửa lớn và cửa sổ trong tranh.
Chú vẽ một ngôi chùa Trung Quốc có mười sáu tầng, tầng nào cũng có chuông. Chú vẽ hai ngôi đền Hy Lạp, có cột đá cẩm thạch thanh nhã, tứ phía đều có bậc thang. Chú vẽ lại một nhà thờ Nauy mà nhìn tranh cũng thấy rõ là làm bằng gỗ, các bộ phận đều được chạm trổ với một nghệ thuật lạ kỳ.
Nhưng cái tranh đẹp nhất là cái mà chú gọi là lâu đài của cô Êmily, vì chú cho rằng cô phải được sống trong một toà nhà như thế. Chính chú nghĩ ra kiểu toà nhà. Chú đã tập hợp vào đấy tất cả những gì chú cho là đẹp nhất trong các lâu đài kia. Trong đó có những chiếc dầm chạm trổ như ở đền đài Hy Lạp, rồi tầng lầu nào cũng có chuông như ở những ngôi chùa Trung Quốc, cuối cùng trên mái có chụp những vòm óng ánh vàng như mái điện Kremlanh của các Sa hoàng. Đó thật là một lâu đài trong những chuyện thần tiên.
Dưới từng cửa sổ Gioóc đã ghi rõ buồng ấy, phòng ấy dùng làm gì. Ví dụ: “Đây, Êmily ngủ. Chỗ này, cô học nhảy. Đây, cô chơi. Chỗ này tiếp khách v.v…” Nhìn vào tòa lâu đài kỳ lạ ấy thật là thích thú nên mọi người ngắm mãi không chán. Quan Đại tướng khen:
– Thật là tuyệt!
Vị bá tước già, vì lúc ấy cũng có mặt một vị bá tước già dòng dõi còn quý phái hơn cả quan Đại tướng, cũng có một tòa lâu đài. Vị bá tước ấy không nói gì cả. Ngài được nghe kể rằng toà lâu đài ấy do một chú bé con trai người gác cổng tưởng tượng mà vẽ ra. Chú ta còn bé, bé lắm. Nhưng không, nói thế thì cũng quá vì chú đã được làm lễ ban thánh thể rồi. Vị bá tước già, sau khi xem những bức tranh ấy, đã có chủ định, nhưng còn giữ kín.
Đúng vào một buổi sáng giời xấu, xám xịt và ẩm ướt, thì ngày đẹp đẽ nhất, ngày xán lạn nhất của Gioóc bắt đầu. Giáo sư viện Hàn lâm gọi chú và bảo:
– Cậu bạn bé nhỏ của ta ơi, hãy nghe ta bảo. Thượng đế đã sinh phúc cho chú có tài lại còn run rủi cho cậu gặp những người nhân đức. Vị bá tước già ở góc phố gần đây đã nói với ta về cậu. Ta đã xem tranh cậu vẽ, chúng mình không cần bàn luận dài dòng. Có nhiều chỗ cần phải sửa lắm. Nhưng ngay từ hôm nay trở đi, cậu có thể đến chỗ ta học vẽ mỗi tuần hai lần để lần sau cậu có thể vẽ khá hơn. Ta nghĩ rằng có lẽ cậu thiên về kiến trúc hơn là hội hoạ. Rồi cậu cũng còn đủ thì giờ suy nghĩ và lựa chọn. Bây giờ thì hãy đến gặp vị bá tước già và cảm ơn Thượng đế đã run rủi cho cậu gặp được ông ta trên đường đời.
Toà nhà của vị bá tước ở góc phố đằng kia thật là to và đẹp. Xung quanh cửa sổ có chạm hình voi, lạc đà, kỳ lân, tác phẩm của thời cổ. Tuy nhiên vị bá tước thích tất cả những tác phẩm đương thời, mặc dù những người sáng tạo ra chúng là người ở trên gác, ở dưới hầm hay ở sát mái nhà. Bác gác cổng gái nói:
– Tôi cho rằng những dòng dõi càng cao quý bao nhiêu thì càng ít kiêu kỳ bấy nhiêu. Hãy xem cụ bá tước già ấy, sao mà cụ ấy giản dị và hoà nhã thế! Cụ ấy nói chuyện cứ như ông và tôi vậy. Quan Đại tướng và ngay cả phu nhân cũng không được như thế. Vì thế hôm qua thằng Gioóc mừng quýnh lên vì sự tiếp đãi của cụ bá tước. Hôm nay vừa được gặp cụ lớn, tôi cũng thấy như thế. Cũng may mà chúng mình không gửi thằng Gioóc đi học thợ, Cụ bá tước đã bảo tôi là nó có năng khiếu đấy!
Ông bố nói: – Đúng đấy, nhưng phải có người giúp thì nó mới làm nên được.
– Người ta sẽ giúp, cụ bá tước đã hứa chắc chắn với tôi như thế.
Ông bố bảo: – Chắc có lẽ cũng có lời của quan Đại tướng. Chúng mình phải sang cám ơn ngài mới được.
Bác gác cổng gái lại nói: – Ừ mà phải đấy. Nhưng dẫu sao tôi cũng không hề tin rằng nhờ ông ấy mà chúng mình có diễm phúc này. Tôi sẽ cám ơn Thượng đế và cũng sẽ cầu nguyện cho cô bé Êmily chóng bình phục.
Quả nhiên cô bé Êmily đã khỏi hẳn. Cô lớn lên và đẹp ra. Về phía mình, Gioóc cũng tiến bộ rất nhanh. Tại viện Hàn lâm, chú giành được huy chương bạc, rồi huy chương vàng.
Bác gác cổng gái vừa nói vừa khóc:
– Dẫu sao cho nó đi học nghề còn hơn, có thế thì mới giữ được nó ở nhà. Nó đi La Mã làm gì chả biết được? Tôi sẽ không bao giờ được gặp nó nữa, thằng bé thân yêu ấy, ngay cả khi nó trở về đây. Nhưng chắc là nó chả muốn rời bỏ cái xứ mà người ta khen là đẹp lắm cơ đấy.
Ông bố nói: – Đó là vì hạnh phúc của nó, nó đi như thế có lợi cho sự nghiệp của nó hơn, bà ạ!
Bà mẹ đáp: – Ông an ủi tôi, tôi xin cảm ơn, nhưng bản thân ông cũng buồn chẳng kém gì tôi, ông ạ!
Thực ra cả hai vợ chồng đều rất buồn, vì đứa con trai sắp đi xa, dù rằng tất cả mọi người xung quanh đều bảo họ rằng thằng bé được đi như vậy là rất sung sướng và vinh dự. Gioóc từ biệt cha mẹ và cũng sang chào cả gia đình quan Đại tướng. Đại tướng phu nhân không ra vì bị nhức đầu ghê gớm. Còn quan Đại tướng vớ được dịp tốt, liền kể ngay giai thoại độc nhất của mình, kể những lời ngài đã nói với ông hoàng và ông hoàng trả lời: “Ông thật là người có một không hai.” Đến đây ngài chìa cho Gioóc bàn tay mềm nhũn và như không có sinh khí. Êmily cũng chìa bàn tay bé nhỏ cho Gioóc hôn. Cô bé có vẻ hơi buồn nhưng chính Gioóc thì cảm thấy đau khổ thực sự.
Khi người ta làm việc thì thời gian trôi đi nhanh chóng. Ai cũng có thời gian như nhau, nhưng không phải ai cũng sử dụng thời gian tốt như nhau, mà cũng chẳng ai lợi dụng được thời gian như nhau cả. Cũng vì Gioóc lợi dụng được thời giờ nhiều nên chú thấy nó trôi qua nhanh chóng, trừ những lúc chú tưởng nhớ đến quê hương. Chú tự hỏi: “Chẳng biết những người ở nhà ra sao rồi, kể cả người nhà dưới lẫn người nhà trên.”
Chú nhận được nhiều thư và trong một lá thư thì có nhiều chuyện lắm, có những tin như ánh nắng nồng nàn sưởi ấm lòng ta, lại có những tin dìm ta vào bóng đêm dày đặc. Những tin này nằm trong lá thư báo cho Gioóc biết là ở nhà cha chú đã mất, còn mẹ chú đang ở góa một mình. Trong thư còn nói thêm: Êmily giống như một nàng tiên thường hay xuống bên người thiếu phụ đáng thương để an ủi và cô đã hết sức can thiệp đến nỗi người ta phải giao cho bà nhiệm vụ gác cổng.
..(còn nữa)
Kho tư liệu của Hội NVHP)