Đất Việt Trời Nam – tiểu thuyết lịch sử của Đan Thành

ĐẤT VIỆT TRỜI NAM( Chương 24)

Tướng Việt phòng thủ ải Nội Bàng

Quân Nguyên tấn công thành Quy Hoá…

ĐẤT VIỆT TRỜI NAM (Chương 24)

Tướng Việt phòng thủ ải Nội Bàng

Quân Nguyên tấn công thành Quy Hoá

Đang nói Toan Đô bị khốn ở Chiêm Thành, lại mơ thấy long vương Ngao Quảng đến báo mộng, trong lòng hoảng hốt không yên. Lưu Khuê thấy vậy mới xin hiến kế. Toa Đô bảo:

– Ông cứ nói đi.

Lưu Khuê thưa:

– ở mãi đây tất không thể được, chi bằng ta đưa quân lên miền Ô, Lý1 để chờ viện binh rồi cùng đánh sang Đại Việt thì hơn.

Toa Đô nói:

– Đúng là lên miền Ô, Lý có thể kiếm lương thực và tránh được đại binh của Chiêm, Việt, nhưng chúng đang vây chặt thế này, ta làm sao mà đi?

Lưu Khuê nói:

– Việc này cũng không khó. Nếu ta chịu bỏ hết thuyền bè thì giải vây được. Nguyên soái chọn lấy hai trăm quân già yếu thương tích không còn khả năng đánh trận, bắt chúng căng buồm kéo năm mươi chiến thuyền, nhân đêm vượt biển về nước. Quân Việt thấy ta rút, tất đuổi theo. Đương nhiên quân Chiêm  cũng phải cho thuyền ra trợ giúp. Quân ta đi thuyền không, chạy nhanh, ra đến ngoài xa có thể cắt bỏ những thuyền phía sau chạy càng nhanh, chưa chắc bọn chúng đã bắt được. Lực lượng quân Chiêm trên bờ sẽ bớt đi nhiều. Tôi nghe nói tướng Chiêm vây phía Bắc là Phan Sầm, người này là con thứ hai của Phan Ma Lôi. Ngày trước Ma Lôi học được binh pháp của người An Nam là Đỗ Nguyên Bá nên đánh đâu thắng đấy, sau truyền cho các con. Phan Sầm cậy mình có học vấn của thân phụ để lại nên rất kiêu căng, thường không nghe lời nói phải, hay uống rượu trong trại quân, chẳng coi ai ra gì, đến canh hai thì say bét nhè. Đó chính là nơi sơ hở của quân Chiêm. Ta có thể lợi dụng chỗ ấy mà ra được.

Toa Đô nói:

– Nếu quả đúng như vậy con đường sống của chúng ta đã mở ra rồi.

Hôm sau Toa Đô sai Hắc Đích chọn trong quân được ba trăm người già yếu, cứ ba mươi người chèo một thuyền, lại kéo theo một dãy thuyền không, đúng canh hai đốt đuốc đánh trống vượt vòng vây về Nguyên. Quân hải thám Đại Việt liền dùng khinh thuyền2 đuổi theo, tiếng reo hò vang cả mặt biển, đèn đuốc sáng như sao sa. Các tướng Chiêm là Chế Năng, Tra Diệp cũng huy động thuyền chiến kéo ra bao vây. Quân Nguyên liền cắt dây bỏ hết các thuyền không lại, chỉ mười chiếc có người chèo căng buồm vượt đi.

Trong thành, Toa Đô thấy vòng vây quân Chiêm đã dãn bớt liền cho quân mở cửa Bắc xông ra. Hắc Đích múa kích đánh thẳng vào trại quân Chiêm. Lính Chiêm vào báo với Phan Sầm nhưng Sầm còn đang say rượu, ôm một cô gái Xiêm nằm ngủ không biết trời đất là gì. Khi quân Nguyên vào đến gần đại doanh, lính Chiêm phải khiêng Phan Sầm lên xe mà chạy.

Lúc bấy giờ tướng Đại Việt là Trần Quốc Khang đang đứng trên lâu thuyền quan sát, nói với các tướng:

– Ta xem quân Nguyên không phải muốn rút ra biển. Ai lại đi trốn còn đánh trống, đốt đuốc thế kia. Đây hẳn là chúng muốn vượt lên hướng Bắc để thoát vây thôi. Phan Sầm giữ cửa Bắc, kiêu căng mà bất tài, chắc sẽ làm hỏng việc.

Quốc Khang nói xong liền ra lệnh điểm ba nghìn quân, cử Lê Trừng đi gấp đến tiếp ứng cho Phan Sầm. Lê Trừng nhận lệnh đem quân đi ngay nhưng tới nơi thì Toa Đô đã chạy xa mà Phan Sầm cũng chẳng thấy đâu. Trừng cho quân đuổi theo Toa Đô suốt nửa ngày không kịp nên thu quân trở về. Dọc đường quân lính bắt được một người trốn trong chiếc chòi hoang, liền dẫn đến trình Lê Trừng. Trừng nhận ra chính là Phan Sầm. Hoá ra lúc ban đêm lính Chiêm đưa Phan Sầm trốn chạy, không may gặp phải quân Nguyên, bọn lính bị giết sạch, Phan Sầm lủi vào rừng thoát được. Lê Trừng đưa Phan Sầm về Thư Mi Liên gặp Quốc Khang. Phan Sầm biết mình tội lớn, xin với Quốc Khang cho theo trong quân Đại Việt. Quốc Khang nói:

– Nhà ngươi làm tướng mà trễ nải chức mệnh để đến nỗi thua trận thiệt quân, làm hỏng việc lớn. Ta đâu cần một kẻ như vậy.

Trương Phúc nói:

– Phan Sầm nay đã cùng đường, tiểu tướng thiết nghĩ cũng nên mở cho y một con đường sống.

Quốc Khang nói:

– Ta không muốn vì hắn mà làm tổn thất tình bang giao Chiêm Việt.

Nói xong sai người dẫn Phan Sầm trả cho vua Chiêm. Vua Chiêm liền tước bỏ mọi hàm cấp của Phan Sầm, thét võ sĩ lôi ra chém, lại thu hồi mọi phẩm trật của nhà họ Phan, bắt đi lao dịch. Thật tiếc thay cho Phan Ma Lôi là người tài hoa mà con cái không giữ được đạo nhà để đến nỗi vong thân nhục tộc, âu cũng là bài học cho những kẻ ăn hậu lộc giữ trọng nhiệm mà không biết làm tròn bổn phận.

Lại nói Toa Đô kéo quân lên miền Ô Lý, đi đến đâu cướp bóc đốt phá chém giết đến đấy vì thế quân lính mới có lương ăn tiến đến Ô thành. Tướng giữ Ô thành là Chế Chương nghe báo liền điểm binh ra ngoài thành nghênh chiến. Phó tướng là Ngưu Thủ can rằng:

– Quân giặc vừa tới, khí thế đang hăng, tướng quân không nên đánh vội.

Chế Chương không nghe, nói:

– Bọn giặc này chẳng qua là một lũ ma đói có gì đáng sợ. Để ta ra bắt sống chúng cho mà xem.

Chế Chương nói xong cho mở rộng cồng thành, dẫn quân tiến ra bày trận, rồi cầm cây truỳ gai tám cạnh tiến lên trước. Bên quân Nguyên, tướng tiên phong là Hắc Đích vác giáo hăng hái xông vào, nói:

– Nhà ngươi chẳng qua là một tên tiểu tướng giữ miền biên viễn của xứ Chiêm Thành nhỏ bé này, sao không biết điều hàng ngay đi để hưởng lượng khoan dung của nguyên soái có hơn không.

Chế Chương quát:

– Các ngươi đói khổ đã lâu ngày, về bảo với nguyên soái của ngươi có muốn sống thì hàng ta tất sẽ được cơm no áo ấm.

Hắc Đích nổi giận múa giáo đâm tới. Chế Chương đưa truỳ đón đánh nhưng mới chưa được ba hiệp bị đâm một nhát vào giữa bụng, rơi xuống ngựa chết. Toa Đô xua quân tiến lên cướp được cửa thành. Quân Chiêm thấy chủ tướng bị giết, chen nhau chạy vào trong. Cửa thành không đóng kịp, quân Nguyên tiến vào giết hại vô số dân lành cùng binh lính Chiêm. Ngưu Thủ chống không nổi, đập đầu vào tường thành tự sát. Toa Đô chiếm được Ô thành, không phải lo chuyện thiếu lương thảo nữa mới viết thư sai người về Nguyên xin tiếp viện.

Đây nói chuyện Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn nhận mệnh của nhà vua mang quân đi phòng thủ mặt Bắc, lấy ải Nội Bàng làm đại bản doanh, ngày đêm cùng Phạm Ngũ Lão bàn định kế sách chống giặc, cử tướng Lương Uất cùng với các chúa động Nguyễn Thế Lộc, Nguyễn Lĩnh chia quân giữ ải Lộc Bình1, Khâu Ôn, Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn cùng hai vị quản quân phụng ngự Đỗ Vĩ, Đỗ Hựu đem ba nghìn quân đóng chẹn ải Khả Ly trên Khâu Cấp lĩnh, Minh Hiến vương Trần Uất cùng Đoàn Thai cắm trại từ thôn Biên Trú đến Nội Bàng, đi lại thông tin tình hình, lại sai Tần Sâm đem ba nghìn quân án ngữ ở Động Bản.

Lúc bấy giờ là giữa tháng tháng Chạp, rét lắm, những chiếc lá vàng lìa cành rải đầy mặt đường. Hưng Đạo vương đang đi thị sát từ đèo Khâu Cấp trở về, bỗng trong rừng có tiếng ồn ào rồi một đoàn người ngựa kéo ra chặn ngay phía trước, đi đầu là một tráng sĩ râu rậm, hàm vuông, mặc áo chàm, tay cầm một cây đinh ba cực lớn. Nguyễn Địa Lô nói:

– Chắc đây là bọn sơn tặc. Đức ông để con ra đánh chúng.

Nói xong cầm đao xông lên. Hưng Đạo vương ngăn lại rồi sai Hưng Trí vương Quốc Hiện lên hỏi xem đám người ấy là quân nào. Quốc Hiện phi ngựa lên phía trước nói lớn:

– Tráng sĩ kia vì sao lại ngăn đường quan binh?

Tráng sĩ ấy không trả lời mà hỏi lại:

– Tướng quân có phải đang hộ vệ Hưng Đạo đại vương không? Chúng tôi muốn gặp đại vương.

– Hôm nay đại vương đang bận tuần tra. Các ngươi hãy để khi khác.

Tráng sĩ nghe nói vậy vội vã xuống ngựa quì ở bên đường. Những người phía sau cũng quì xuống cả. Hưng Đạo vương thấy vậy liền xuống kiệu, đến gần, ân cần hỏi:

– Tráng sĩ hãy đứng dậy, có việc chi mà muốn gặp ta?

Tráng sĩ ấy trả lời:

– Trình đại vương! Bần dân là Nguyễn Khả Lạp, ở bản gần đây, ơn nhờ đại vương từ khi đem quân đến nơi này, diệt trừ sơn tặc, cứu đói cho dân. Dân chúng vùng này biết ơn đại vương lắm lắm. Nay giặc Hồ vào cướp nước ta, anh em mấy bản chúng tôi họp nhau tình nguyện xin đầu quân theo đại vương đi đánh giặc.

Hưng Đạo thấy Nguyễn Khả Lạp tướng mạo quắc thước, dáng vóc hiên ngang, ăn nói khoát đạt thì mến lắm, liền cho tất cả theo về Nội Bàng.

Trời rét buốt nhưng không làm bớt được vẻ phấn khích trên gương mặt những chàng  lính trẻ. Mấy đội binh hết giờ tập luyện, chia nhau ra thành nhiều tốp chơi trò đá cầu1. Họ hồ hởi đua tranh cho sự hơn thua. Có anh cười, có anh hò hét thúc giục bạn, có anh ngã lăn ra đất. Giây phút ấy họ vô tư làm sao, không ai nghĩ rằng ngày mai ra trận có thể phải nằm lại vĩnh viễn ở chốn sa trường. Mấy đội lính khác đang khiêng đất đắp thành những ụ lớn để đặt  giàn nỏ liên châu và pháo lệ chi. Phạm Ngũ Lão đứng trên mặt tường thành nhìn ra phía chiến luỹ ngoại vi, trong lòng chàng còn có điều băn khoăn lo lắng không yên, chàng quay vào tướng doanh thưa với Hưng Đạo vương:

– Trình đại vương! Đại quân của ta đã đóng cả ở đây, tôi xin đem quân lập thêm hai đồn ở làng Biên Trú làm thế phên giậu cứu giúp cho nhau mới có thể yên tâm được.

Hưng Đạo vương tươi cười kéo tấm vóc trên vách, để lộ ra một bức hoạ đồ bằng da, cầm cây trúc nhỏ chỉ từng vị trí, thong thả nói:

– Nay quân Thát đã đến Tư Minh, chẳng bao lâu sẽ đánh vào ải Lộc Bình nước ta. Ta đã có chủ kế cho tướng quân Lương Uất. Từ Lộc Bình giặc nhất định chia làm hai đường tiến xuống kẹp đại quân của ta vào giữa. Ta dặn Lương Uất rút dần về Thiết Lược, Khâu Ôn, Lão Thử2, lại cử Trung Thành vương tiếp ứng cho cánh ấy, chỉ cần tiêu hao binh lực của giặc chứ  không cần chặn giữ. Khi giặc đi qua thì quay lại đánh vào sau lưng chúng. Hướng tiến quân này của giặc tuy không gặp nhiều đồn ải của ta nhưng đường xa không dễ gì chúng đến sớm được. Đại quân của giặc nhất định sẽ tiến theo hướng Đông. Từ Lộc Bình chúng tiến qua Khâu Cấp lĩnh, Động Bản. Tất cả những nơi này đều có quân ta đóng giữ. Giặc dù có vượt qua được hết các cửa ải đến đây binh lực của chúng cũng không thể còn nguyên vẹn, khi ấy ta sẽ đọ sức với chúng. Tuy nhiên nơi này cũng chưa phải là điểm chung cục cho số phận Thoát Hoan và A Lý Hải Nha. Cái miệng rọ chờ chúng còn ở phía sau kia. Nay còn có một trọng sự ta chưa biết trao cho ai nên trong lòng phân vân.

Ngũ Lão nói:

– Đại vương có việc khó khăn gì, tiểu nô tuy là hạng tầm thường cũng xin hết lòng gánh vác.

Hưng Đạo vương bước tới gần Phạm Ngũ Lão, cử chỉ dịu dàng như một người cha, ông nói:

– Ta cần có một cái cánh cửa thật chắc.

Ngũ Lão nói:

– Tiểu nô hiểu rồi, xin nguyện làm cái cánh cửa ấy.

– Giặc đi từ xa đến, lương thảo, quân cụ tất ở phía sau. Nếu ta cắt đứt được đường vận chuyển của chúng thì Thoát Hoan, A Lý Hải Nha càng đông quân càng chóng vỡ. Ngươi đảm đương nổi việc này là tạo được phần chắc thắng cho quân ta.

– Xin đại vương yên lòng. Tiểu nô nhất định đóng chặt cửa cho đại vương đánh chúng.

Hưng Đạo vương liền cấp cho Phạm Ngũ Lão năm nghìn quân, dặn dò mẹo mực, cho đi. Phạm Ngũ Lão nhận lệnh liền cùng bọn tiểu Cao Lỗ Vương Thanh, tiểu Đô Hồ Văn Thắng và tiểu Thác Đao Phạm Bình mang quân đi ngay. Lúc bấy giờ bọn Vương Thanh, Văn Thắng, Phạm Bình cũng đều được phong là đô trưởng, luôn đi cùng Phạm Ngũ Lão. Trong số các vị đô trưởng còn có một người nữa là Đoàn Thị Hoa con ông Đoàn Sĩ Hiệp người làng Cao Duệ huyện Trường Tân. Đoàn Thị Hoa sau khi đóng giả trai, chia tay với mẹ ở cổng làng, cô đi thẳng sang huyện Đông Ngàn là nơi tướng quân Phạm Ngũ Lão đang luyện binh cho Hưng Đạo vương nhưng không biết làm thế nào để ra mắt nên tạm đến nghỉ trong tửu quán. Chiều hôm ấy có mấy anh lính ra quán uống rượu. Khi đã ngà ngà say, họ kéo nhau ra bãi cỏ trước quán đấu võ. Đoàn Thị thấy hay hay cũng ra xem. Một anh bị anh khác vật ngã, đau quá kêu thét lên. Đoàn Thị không nhịn được, cười thành tiếng. Anh lính kia thấy người lạ cười mình, máu uất bốc lên mặt, xông đến nói:

– Thằng công tử bột, mặt như mặt con gái thế này biết gì mà cười, có giỏi  vào đây.

Thị Hoa thấy đây là dịp tốt để làm quen vơi mấy anh lính nên nói:

– Xin lỗi huynh trưởng. Tiểu sinh ở nơi xa tới đây, có điều sơ xuất, mong các huynh lượng thứ cho.

Một anh lính nói:

– Anh này đặc tướng học trò, đã không dám vào lính lại còn đeo kiếm ra đường. Hay nhà ngươi là quân gian tế của bọn Thát?

Thị Hoa chắp tay tươi cười nói:

– Tiểu đệ là học trò quê ở Trường Tân, nghe nói Phạm tướng quân chiêu binh, đến đây muốn theo dưới cờ nhưng nghẹt vì chưa có ai tiến dẫn nên còn chưa dám vào quân doanh.

Mấy anh lính cùng cười phá lên, một anh nói:

– Ôi giời ơi! Người ẻo lả như cây mạ thế này vào lính làm sao được. Chúng tôi bảo thật, làm lính là để đi đánh giặc chứ không phải ngày ngày cắp sách đi dong, tối về lại thắp đèn chong hao dầu đâu. Cậu nên về dùi mài kinh sử, mai sau hết giặc đi thi mà kiếm chút công danh có hơn không?

– Các huynh đánh được giặc, đệ tất cũng đánh được giặc, chốn sa trường chưa biết ai hơn.

Một anh lính nói:

– Giỏi giỏi! Lời nói nghe có khí phách lắm. Đã thế, nếu cậu đánh ngã được tôi, tôi sẽ dẫn cậu vào gặp đô trưởng Vương Thanh.

Thị Hoa cúi chào theo kiểu con nhà võ, nói:

– Tiểu đệ xin vâng lời huynh trưởng.

Hai người bước ra bãi cỏ. Kẻ qua người lại vài đường, anh lính kia cậy to khoẻ nhẩy tới định ôm đối thủ vật xuống. Thị Hoa né người lánh khỏi, thuận tay gạt theo một nhát. Anh lính mất đà ngã sấp mặt xuống, đất cát dính đầy mồm miệng. Mấy anh lính đứng ngoài cười như nắc nẻ, cùng nói:

– Khá lắm ! Khá lắm. Làm lính được đấy, nhỏ người nhưng mà nhanh nhẹn.

Mấy người liền dẫn Thị Hoa vào gặp đô trưởng Vương Thanh. Vương Thanh thấy người mới đến nhỏ bé quá mà tướng mạo lại như con gái, không muốn nhận nhưng thấy mấy anh lính tiến cử rất sốt sắng, mới bảo:

– Nhà ngươi đeo gươm đi đầu quân, hẳn là tinh thông kiếm thuật, vậy hãy múa vài đường cho ta xem.

Thị Hoa liền cúi chào mọi người rồi rút kiếm múa bài Bát Diện Mai Hoa, trên tám dưới sáu, tả bốn hữu ba, tiền công hậu thủ. Lưỡi gươm bay loang loáng như gió táp mưa sa, muôn phần ngoạn mục. Vừa hay đúng vào lúc tướng quân Phạm Ngũ Lão ở thao trường về, trông thấy vậy cất lời khen:

– Thật là tinh diệu! Thật là tinh diệu. Nhà ngươi tên họ là chi?

– Dạ! Trình tướng quân! Tiểu sinh là Đoàn Hoa quê ở Trường Tân.

Phạm Ngũ Lão liền bảo Vương Thanh ghi tên vào sổ. Mấy ngày sau xem ra các môn bắn cung, bắn nỏ, ném lao, đánh giáo, đánh kiếm, bơi lội lặn ngụp môn nào Đoàn Hoa cũng đạt đến điểm tuyệt kĩ, được tướng quân Phạm Ngũ Lão rất ưng lòng, giao cho chức đô trưởng để huấn luyện tân binh. Vương Thanh càng yêu quí Đoàn Hoa hơn, hai người chơi với nhau thân thiết lắm, đi đâu, chơi trò gì họ cũng tìm nhau. Trong đám lính có người nói:

– Hai vị đô trưởng này cứ như phải lòng mặt nhau vậy.

Tuy thế nhưng Đoàn Hoa khéo giữ gìn nên không ai biết nàng là gái. Đến nay giặc đã tới ngoài biên, Phạm Ngũ Lão mang quân lên Nội Bàng hội với Hưng Đạo vương, Đoàn Hoa đã là một vị đô trưởng chững chạc.

Bấy giờ Phạm Ngũ Lão nhận lệnh đi rồi, Hưng Đạo vương lại gọi Yết Kiêu đến dặn:

– Ngươi phải sắp sẵn một đội thuyền ở bãi Tân1 để đợi quan binh, riêng thuyền của ngươi ở lại chờ ta.

Yết Kiêu nhận lệnh đi ra. Hưng Đạo bảo Dã Tượng:

– Ngươi chia voi chiến ra làm hai đội, cử người đưa ngay về Vạn Kiếp, nhập với đoàn voi ở núi Phả Lại sau này ắt có việc cần dùng.

Dã Tượng nói:

– Trình đức ông! Ta đánh nhau với giặc ở đây sao lại cho voi về Phả Lại?

– Việc ấy ta đã trù tính cả rồi. Ngươi hãy đi đi.

Dã Tượng không hiểu ra sao nhưng cứ theo lệnh thi hành. Hưng Đạo vương lại gọi Nguyễn Địa Lô, Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện đến dặn việc bố phòng. Chiều hôm ấy có hai thủ lĩnh người man, mỗi người dẫn hơn trăm trai tráng đến xin đầu quân. Một người là Trần Thông có tài bắn nỏ, cưỡi ngựa phi nhanh bắn đâu trúng đấy trăm phát không sai, thường đeo trong mình một cây nỏ cánh ngắn. Một người là Nguyễn Truyền2 có tài ném đá, đứng xa ngoài trăm bước ném vỡ gáo dừa. Quân lính nghe nói vậy chẳng ai tin. Hưng Đạo vương sai lính cắm năm ngọn giáo xếp hàng ngang, đem năm chiếc niêu đất úp lên đốc giáo, bảo Nguyễn Truyền ném. Nguyễn Truyền đứng cách xa trăm bước, nói:

– Tôi chỉ ném một lần đã vỡ ba cái ở giữa cho mà xem.

Nói xong vung tay ném một nhát ra ba viên đá cỡ quả trứng gà. Chỉ nghe tiếng đá bay viu víu, quả nhiên ba chiếc niêu đất ở giữa cùng vỡ tan tành.

Truyền lại nói:

– Tôi ném chiếc phía tả này.

Nói rồi tung người lên không, lộn ba vòng, trong khi đang nhào lộn thì phóng ra một viên đá. Nghe một tiếng “chát” khô gọn, chiếc niêu bên tả vỡ tung, mảnh bắn ra tứ phía. Truyền lại nói:

– Còn chiếc bên hữu này tôi xin lấy nó đặt lên bãi cỏ mà không vỡ.

Truyền vung tay ném. Viên đá bay ra quay tít trong không gian, trúng vào cán giáo, không rơi xuống đất mà lăn ngược lên trên hất chiếc niêu đất xuống bãi cỏ không sứt mẻ gì. Quân lính đứng  xem reo hò vang dậy, ai cũng bảo:

– Thật là thần thủ phi thạch.

Hưng Đạo vương mừng lắm, liền nhận cho vào ở trong quân. Đêm ấy gió bấc rít ràn rạt, Hưng Đạo vương thức đến khuya trước bức địa đồ, trên đó có ghi chi chít các vị trí đóng quân, các đồn ải của Đại Việt. Ông dự đoán đường tiến binh của Thoát Hoan và trù liệu đường đi nước bước, phương lược ra quân cho từng trận đánh. Người lão bộc già bưng chiếc lò than tới gần rồi pha một ấm trà dâng lên. Hưng Đạo vương đón chén trà từ tay lão bộc, tươi cười nói:

– Lão cũng chưa ngủ ư?

– Tôi đã có tuổi, đêm khó ngủ lắm nhưng đức ông đi nghỉ để giữ sức cho ngày mai.

– Lão nói phải nhưng lão cũng phải nghỉ đi một chút mới có sức mà xem đánh giặc chứ.

Hưng Đạo vương nói xong, cầm cây bút lông quệt mực khoanh lên các vị trí Nội Bàng, Vạn Kiếp, Thăng Long mỗi nơi một chiếc vòng tròn. Khi buông cây bút, vương mỉm một nụ cười hài lòng như người vừa hoàn thành một công việc khó khăn nặng nhọc. Người lão bộc đợi vương ngẩng lên, nói:

– Đại vương coi thường lão già đến thế ư? Đôi tay này còn vung được đao lớn, giương nổi cây nỏ mạnh, đâu đã đến nỗi phải đứng xem đánh giặc.

Hưng Đạo vương vui vẻ đang định nói một câu gì đó thì một anh lính truyền tin bước vào báo:

– Trình đại vương! Giặc từ Vân Nam đã đánh vào Qui Hoá.

Đây nói Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật từ khi tay không dụ yên được xứ Đà Giang, tiếng tăm lừng lẫy, uy tín ngày càng tăng. Trong triều đình, trên từ thượng hoàng đến nhà vua, dưới các quan đai thần đến binh lính ai ai cũng quí mến nhưng Nhật Duật vốn thích đọc sách, ham học hỏi, ham sự hiểu biết, thường la cà đến các tửu quán để nghe hát, xem múa, chẳng thiết gì đến tiền của chức tước, lại rất tôn sùng đạo Lão, chỉ thích ngao du sơn thuỷ với bạn bè, vạn nhất có sự xích mích tranh chấp thì lấy điều dĩ hoà vi quí, không chấp chi những việc nhỏ nhặt. Vì thế các anh hùng nghĩa sĩ, tao nhân mặc khách đến với Nhật Duật có tới mấy nghìn người. Trong số đó có một người là Phó Tường quê ở Phong châu. Người này mình cao bảy thước, tay dài quá gối, mặt đen, râu quăn, võ nghệ cao cường, có sức vật đổ trâu mộng thật là tay kiện tướng hiếm thấy trên đời, được mọi người gọi là Nam Thiên dũng sĩ. Một người nữa là Trương Tích ở huyện Bàng Hà, mồ côi cha từ nhỏ, nhà nghèo chuyên nghề đốn củi bán lấy tiền nuôi mẹ, đêm đêm lại cùng bạn bè luyện tập côn quyền đến khi trăng lặn mới ngừng tay. Về sau Trương mẫu qua đời, Trương Tích tìm đến theo Nhật Duật. Nhật Duật thấy là người có tài, có trí mới nhận làm môn khách. Khi nhà Tống bị nhà Nguyên diệt, rất nhiều người Tống trốn sang Đại Việt, có một người là Triệu Trung đem hơn nghìn lính Tống đến theo. Nhật Duật nói chuyện, biết Trung là người có nghĩa nên nhận làm gia tướng, cùng với Phó Tường, Trương Tích lo việc quân tình. Triệu Trung có hai người thân tướng. Người thứ nhất tên là Giả Cương mình cao bảy thước, râu rậm, mắt sáng, tiếng nói như sấm rền thường dùng một cây thiết kích nặng tới sáu mươi cân, cưỡi ngựa ô truy rất kiêu dũng, y giáp đều màu đen, đi đến đâu xám cả một vùng nên có biệt hiệu là Vân lôi dũng sĩ. Người thứ hai là Tiết Hùng, mặt đẹp như hoa, mày tằm mắt phụng, bào trắng giáp bạc, cầm cây trường thương, cưỡi ngựa bạch câu lướt trên chiến trận như một bông hoa tuyết bay trong gió bão. Nhật Duật thường khen:

– Người này tài dũng có thừa mà phong thái lại ung dung đẹp đẽ như một tiên đồng, hẳn là hậu duệ của Tiết Đinh Sơn1 ngày trước.

Tiết Hùng còn có hai người bạn là Dương Lâm và Đặng Hoành cũng là những tay kiệt hiệt trên đời cùng theo Triệu Trung đến với Nhật Duật, đều được trọng dụng. Một hôm Nhật Duật cùng mâý gia đồng đi chơi Tây hồ, đến một xóm thấy có nhiều cây lạ, hoa quý mới cùng nhau vào xem, nhà nào cũng có non bộ, cây cối, chim, hoa rất đẹp. Lại có một con ngõ trồng toàn trúc, dẫn thẳng vào một ngôi nhà tranh nhỏ treo tấm mành mành, phong quang sạch sẽ, trong nhà văng vẳng tiếng đàn cầm. Nhật Duật bảo:

– Đây há chẳng phải là nơi ẩn dật của bậc tiên thánh hay sao. Các ngươi hãy đứng ở ngoài đợi ta.

Nói xong một mình cầm quạt đi bộ vào nhà. Trong nhà có một chú bé chừng mười một mười hai tuổi chạy ra chào khách, nói:

– Xin mời quan khách vào nhà.

Nhật Duật hỏỉ:

– Ai đang chơi đàn vậy?

– Dạ! Thầy tôi.

– Thầy ngươi là ai?

– Dạ! Thầy tôi là Đạo Chiêu tiên sinh.

Khi vào tới cửa, có một người đàn ông tuổi khoảng tứ tuần, mặt đẹp, mắt sáng, râu ba chòm, phong thái ung dung như một tiên tử bước ra khoanh tay làm lễ, nói bằng tiếng phương Bắc:

– Chẳng hay có việc chi mà quan khách lại đến lều cỏ này?

Nhật Duật cũng nói bằng tiếng phương Bắc:

– Tôi là Trần Nhật Duật, nhân đi dạo qua đây, trộm nghe tiếng đàn mà ghé vào làm kinh động đến tiên sinh, thật là đắc tội đắc tội.

Người kia vội vái Nhật Duật một vái, nói:

– Kẻ hèn này cũng họ Trần, nghe tiếng vương công đã lâu, hôm nay được tiếp kiến, thật muôn vàn vinh hạnh.

Trần Đạo Chiêu nói xong, mời Nhật Duật vào nhà cùng ngồi đối ẩm, chuyện trò rất tương đắc. Ngôi nhà của Đạo Chiêu nhỏ mà chỗ nào cũng thấy la liệt toàn sách vở, trên tường có treo một cây kiếm ngắn. Hai người nói chuyện hồi lâu, Đạo Chiêu gảy cho Nhật Duật nghe một khúc đàn. Tiếng đàn ngân nga khi bổng khi trầm gợi một nỗi buồn man mát như kẻ lữ hành chạnh nhớ quê hương. Nhật Duật hỏi:

– Tiên sinh trong lòng đang có chuyện không vui chăng?

Đạo Chiêu nói:

– Tôi nay là kẻ vong quốc, có nhà mà chẳng dám về, lại giận thân vô dụng, không giúp được gì cho giang sơn trong lúc lâm nguy thì vui sao được.

– Tiên sinh thật là có tấm lòng của kẻ trượng phu.

Từ khi ấy Nhật Duật thường đến thăm Đạo Chiêu. Hai người tình cảm ngày càng thân thiết mà phần thủ lễ có vẻ sơ sài. Trần Đạo Chiêu là người có kiến thức rộng rãi nên mỗi khi bàn việc thế sự đều rất hợp ý Nhật Duật. Đến khi Nhật Duật được nhà vua cử đem quân đi phòng thủ Tuyên Quang1 mới nói với Đạo Chiêu rằng:

– Tôi vâng mệnh hoàng thượng, mang quân lên mạn ngược, chẳng biết khi nào mới về gặp được tiên sinh.

Đạo Chiêu nói:

– Đại vương giầu sang đã đến tột đỉnh, lại theo đạo thần tiên, sao không rứt bỏ hồng trần mà chuyên vào việc tu hành, còn vướng vào vòng binh lửa làm chi?

Nhật Duật nói:

– Xã tắc lâm nguy thất phu hữu trách huống chi tôi là một vương thần, lẽ nào lại bàng quan với vận mệnh của non sông. Nhỡ ra một mai Đại Việt cũng chung số phận như Tống triều, dẫu tôi có thành tiên, cũng là ông tiên mất nước, phỏng sung sướng nỗi gì. Thôi thì kiếp này đường tu chưa trọn, hãy làm trọn kiếp người vậy.

Trần Đạo Chiêu nói:

– Tôi hỏi thử vương công thế thôi. Chiêu Văn thật là người có tấm lòng cao cả. Ngài thật đáng sánh ngang với các bậc thượng tiên rồi. Nếu ngài không chê kẻ bần nhân này ngu muội, xin được làm một tên lính dưới cờ.

– Nếu được tiên sinh hạ cố, phúc cho Chiêu Văn này lắm.

Từ đấy Nhật Duật cho Trần Đạo Chiêu đi theo trong quân làm mưu sĩ. Trần Đạo Chiêu lại tiến cử một người Tống nữa là đạo sĩ Hứa Tôn Đạo. Nhật Duật cũng thu nhận và xuất tiền riêng cho Hứa Tôn Đạo đi trước lên ngã ba Bạch Hạc thuê thợ giỏi xây Thông Thánh quán2 làm chỗ thờ phụng. Hứa Tôn Đạo có một người đồ đệ tên là Mã Phi Thái tuổi mới đôi mươi mà võ nghệ cao cường, thông minh, mẫn nhuệ, được Hứa Tôn Đạo rất yêu mến. Khi ấy thấy Nhật Duật sắp kéo quân lên biên ải, Mã Phi Thái nói với Hứa Tôn Đạo:

– Đệ tử được sư phụ nuôi dạy từ khi còn nhỏ tới nay, công lao ấy nặng tựa Thái Sơn, kiếp này chưa trả được. Thày trò ta nước mất nhà tan, may được người Đại Việt ưu hậu có chỗ dung thân, nghĩa cử ấy kể cũng lớn lắm. Con muốn theo lên ải giúp Chiêu Văn vương ngăn giặc mạnh, trước là trả thù cho nước nhà, sau là đền ơn Đại Việt.

Hứa Tôn Đạo nói:

– Con là đệ tử  mà ta yêu quý nhất, công ta nuôi dạy con quả là không uổng. Nay gặp Chiêu Văn là người hiền tướng, con hãy cố giúp rập cho ngài hoàn thành sứ mệnh, chớ để hổ danh là môn đệ của ta.

Từ đấy Mã Phi Thái đi theo Nhật Duật. Đến khi Nhật Duật kéo quân qua Bạch Hạc thì Thông Thánh quán đã xây xong nhưng thấy còn ít cây cối, ông tự tay đào hố ở trước cửa quán trồng một hàng tùng.

Trần Đạo Chiêu bảo với mọi người:

– Vương công thật là thấu hiểu lòng chúng nhân, anh em ta nên phải gắng sức mà đền ơn tri ngộ.

Phó Tường, Trương Tích, Triệu Trung, Mã Phi Thái cùng nói:

– Đạo Chiêu tiên sinh nói phải lắm. Chúng tôi xin hết lòng theo giúp vương công đánh tan giặc mạnh.

Đây nói Thoát Hoan đem quân đến Tư Minh, ngấp nghé việc tràn sang Ôn châu. Quân sư là A Lý Hải Nha nói:

– Trình điện hạ! Nay quân ta đã áp sát cửa ngõ An Nam. Việc đánh Ôn châu cũng không có gì là khó, nhưng thần e rằng khi vào sâu trong đất man mới gặp nhiều khó khăn. Xin điện hạ truyền lệnh giục Nạp Tốc Lạt Đinh, Toa Đô tiến binh gấp để quân Nam phải chia binh chống giữ hai đường ấy, bớt những điều ngăn trở cho ta.

Thoát Hoan bảo:

– Quân sư nói phải lắm.

Liền cho ngựa trạm hoả tốc truyền lệnh cho Nạp Tốc Lạt Đinh tiến đánh ải Quy Hoá, Toa Đô từ Bắc Chiêm Thành đánh ra Hoan, ái.

Lúc bấy giờ Nạp Tốc Lạt Đinh cùng bọn Tín Thư Long, A Tất Hoạt, Bố Đà Hoa Lặc đã mang năm vạn quân Thát, ba vạn quân Đại Lý và hai vạn quân người các man thuộc, tổng là mười vạn ra khỏi ải Mã Quan nhưng còn án binh đợi lệnh. Hôm ấy nhằm ngày mồng hai tháng chạp năm Giáp Thân (07-01-1285) Nạp Tốc Lạt Đinh nhận được lệnh của Thoát Hoan giục tiến binh, liền họp chư tướng bàn cách lên ải. Tín Thư Long nói:

– Cha tôi xưa là Tín Thư Phúc đã bỏ mình ở đất An Nam, nay tôi xin được lĩnh ấn tiên phong, trước chém Nhật Duật sau bắt vua Nam mới hả lòng này.

Nạp Tốc Lạt Đinh cho Tín Thư Long đem năm nghìn quân đi tiên phong, lấy Đoàn Vi Đề làm phó tiên phong, A Tất Hoạt lĩnh hai vạn quân đi đội nhì tiếp ứng cho tiền đội, cho Bố Đà Hoa Lặc đi đoạn hậu coi giữ lương thảo còn tự mình cùng với Ngụy Phong, Ngụy Lôi thống lĩnh trung quân. Các đội lập tức tiến đến ải Quy Hoá.

Tướng giữ ải Quy Hoá là Hà Tất Năng đứng trên mặt thành nhìn thấy quân Nguyên tầng tầng lớp lớp tiến đến mới quay lại bảo các thủ hạ:

– Quân Nguyên đông đến hàng chục vạn mà quân ta chưa đầy một nghìn người khó giữ được ải, chi bằng ta lui vào rừng để cho chúng đi qua rồi đánh vào lưng chúng mới có thể được.

Một viên đầu lĩnh là Voòng San bước ra nói:

– Quân giặc tuy nhiều nhưng địa thế nơi này rất hẹp, chúng không thể đem binh ồ ạt mà đánh ta được. Có rút đi cũng phải đánh vài trận cho tỏ rõ cái lòng quyết chiến của người Nam ta đã.

Các vị đầu lĩnh khác cũng đồng tình như vậy, Tất Năng mới cho quân sĩ mang máy bắn đá, máy bắn tên dàn cả lên mặt thành đợi quân Nguyên đến.

Tín Thư Long tới nơi còn muốn chỉnh đốn quân mã rồi mới đánh. Phó tướng Đoàn Vi Đề nói:

– Quân ta vừa đến, khí thế đang hăng cần đánh ngay mới thắng được. Ngày xưa thống tướng Cốt Đãi Ngột Lang chỉ vì trùng trình đưa tín sứ qua lại mà đến nỗi nhỡ cả việc.

Tín Thư Long nghe theo, liền xua quân tiến đánh. Quân Nguyên cậy đông ồ ạt xông lên. Trên thành gỗ đá, tên nỏ bắn xuống như mưa. Quân Nguyên lớp này chết, lớp khác lại tiến lên. Hai bên đánh nhau suốt một ngày từ giờ Thìn1 đến giờ Dậu2. Quân Nguyên chết nhiều đến nỗi xác chồng lên nhau cao gần bằng mặt thành. Đoàn Vi Đề cho quân trèo qua đống xác lính đánh vào. Voòng San thấy vậy, nói với Hà Tất Năng:

– Gỗ đá, tên nỏ, quân cụ của ta cạn cả mà quân giặc đã trèo lên được mặt thành. Nhân lúc trời tối xin chủ công hãy đem quân vào rừng ngay để tôi ở lại cản giặc.

Tất Năng nói:

– Sau khi ta mang quân đi, ngươi phải cẩn thận lắm mới được. Ta đợi ngươi ở ải Yên Khâu.

– Chủ công cứ đi đi, không phải lo gì cho tôi cả.

Tất Năng liền mang quân vượt rừng về Yên Khâu. Voòng San cùng mười thủ hạ ở lại cản giặc nhưng chỉ lúc sau anh em lần lượt thương vong. Voòng San bị một mũi tên vào vai, liền rút gươm tự sát không để quân Nguyên bắt được. Tín Thư Long lấy được Quy Hoá, ngày hôm sau đến Yên Khâu cho quân tiến đánh. Hà Tất Năng mang quân lên mặt thành chống giữ. Tín Thư Long cầm giáo chỉ lên thành, nói:

– Quân thiên triều đi đến đâu là núi lở rừng tan, không kẻ nào dám chống lại. Lũ chuột phương Nam kia sao lại ngu dại đem sức châu chấu tưởng cản được bánh xe ư.

Hà Tất Năng ở trên thành nói xuống:

– Thằng thất phu vong quốc vong phụ kia. Cha mày đã chết mất xác ở đất Đại Việt mà mày còn theo phường diều cú vác mặt đến đây, hẳn là muốn đi với cha mày chăng?

Tín Thư Long uất quá giương cung bắn một phát, Tất Năng tránh không kịp, mũi tên cắm vào cánh tay phải xuyên sang bên kia, quân sĩ vội đỡ xuống thành. Quân Nguyên thấy tướng giữ ải bị thương liền hò nhau tràn lên, bắc thang trèo vào ải. Quân Việt giữ không nổi đem chủ tướng chạy vào rừng. Tín Thư Long vừa ra quân được mấy ngày đã chiếm xong hai ải, có vẻ tự đắc lắm liền đem quân xuống Lê Hoa. Chợt có thám mã về báo tất cả các ngọn núi phía trước đều có quân Đại Việt đóng giữ, chỗ nào cũng thấy tinh kì la liệt. Tín Thư Long không biết quân Việt nhiều ít thế nào, liền dừng lại cho quân cắm trại đợi chủ tướng. Gần chiều Nạp Tốc Lạt Đinh mới đến, Tín Thư Long liền dẫn đi xem địa hình, nói:

– Quân Nam bố phòng dày đặc, ngày mai tôi mang quân khiêu chiến để tìm ra nơi sơ hở của chúng.

Nạp Tốc Lạt Đinh nói:

– Người Nam làm gì có nhiều quân mà đòi bố phòng dày đặc. Ngươi trông kia, bây giờ là chiều rồi chỗ nào có quân lính đóng tất có khói bếp. Những nơi khác chỉ cắm cờ làm nghi binh đấy thôi. Ngươi nhớ cho kĩ, ngày mai sửa cho chúng một mẻ. Nhật Duật khôn ngoan lắm nhưng làm sao qua mặt được ta.

Sáng hôm sau Nạp Tốc Lạt Đinh gọi Tín Thư Long đến bảo:

– Ta để ý từ chiều qua đến giờ, chỗ có dải cây xanh kia tuyệt nhiên không thấy có chút khói bụi nào bay lên, chim chóc cũng không xao động. Ngươi mang một nghìn quân thiết kị xông thẳng vào đấy rồi đánh sang phía tả là nơi quân Nam tập trung đông, tất nhiên chúng phải rối loạn mà vỡ. Khi nào lên đến nơi thì phất ngọn cờ vàng này, ta sẽ cho quân tràn lên.

Tín Thư Long cầm giáo lên ngựa, dẫn quân xông thẳng vào dải cây xanh. Hoá ra đấy là một khe suối cạn, tuyệt nhiên chẳng có người lính Việt nào đóng giữ. Quân Nguyên cứ thế tiến thẳng lên một đoạn xa. Tín Thư Long cho quân phất ngọn cờ vàng. Lập tức núi rừng chuyển động, phèng la, tù và, trống mõ ở đâu cùng nổi lên, gỗ đá, tên nỏ bắn xuống ầm ầm. Quân Nguyên vội vã tháo lui nhưng phía sau lửa đã cháy rần rật. Hơn nghìn quân Nguyên bị hãm trong ke núi kêu khóc vang trời. Nạp Tốc Lạt Đinh thấy hiệu cờ vàng, tưởng Tín Thư Long đang đánh ép quân Đại Việt, liền cho quân tràn lên, không ngờ sa ngay vào trận đồ toàn chuỳ chông bẫy đá, chết hại không biết bao nhiêu mà kể. Quân Việt ở trên cao lăn các xe phong hoả xuống. Quân Nguyên không dám tiến nữa, ôm đầu chạy tháo thân.

Trước đây Trần Nhật Duật đem bảy vạn quân từ Bạch Hạc lên, chọn thung lũng Lê Hoa làm nơi mai phục, được tin ải Quy Hoá mất, giặc đánh Yên Khâu rất gấp liền gọi Trương Tích đến, nói:

– Ta giao cho ngươi năm nghìn quân phải đi gấp ngày đêm đến cứu Yên Khâu.

Mưu sĩ là Trần Đạo Chiêu ngăn lại, nói:

– Yên Khâu là thành nhỏ, quân giặc có tới mười vạn, Hà Tất Năng chỉ có không đầy một nghìn quân tất nhiên không giữ nổi. Từ đây đến Yên Khâu phải hành quân ba bốn ngày đường, cứu sao cho kịp. Chắc chắn Hà Tất Năng đã cho quân lánh vào rừng để đánh phía sau lưng giặc. Ta ít quân hơn nên bày trận sẵn ở đây mà chờ mới ngăn được chúng.

Triệu Trung, Phó Tường, Mã Phi Thái cùng nói:

– Lời bàn của Đạo Chiêu tiên sinh rất phải.

Trần Nhật Duật mới chọn những nơi hiểm yếu đóng quân, lại dặn chỉ được ăn lương khô chứ không cho nấu cơm, không động đến củi lửa, còn những nơi khác cắm nhiều cờ, cứ tới bữa cho người đốt các đống lá, giả như quân sĩ nấu bếp để lừa quân Nguyên.

Hôm ấy Nạp Tốc Lạt Đinh mắc lừa, thiệt hại mất nhiều quân lính cùng ngựa chiến, lại không biết Tín Thư Long sống chết thế nào nên cho quân lui mười dặm đóng trại đối mặt với tuyến phòng thủ của quân Đại Việt. Trong khi ấy Tín Thư Long mắc giữa vòng vây. Quân Việt từ hai bên sườn núi đánh dồn xuống. Quân của Thư Long mười phần chết đến bảy tám. Thư Long được bọn thủ hạ tâm phúc hộ vệ, bỏ hết ngựa nghẽo, trèo qua núi trốn được về, nói với Nạp Tốc Lạt Đinh:

– Tôi mang quân đi lần này không ngờ trúng phải quỉ kế của Nhật Duật, hao tổn binh mã, xin chịu tội với quan bình chương.

Nạp Tốc Lạt Đinh nói:

– Việc bại trận hôm nay không phải tại ngươi mà vì ta không ngờ Nhật Duật lại mưu mô đến thế.

Hôm sau Nạp Tốc Lạt Đinh nói với các tướng:

– Trần Nhật Duật là tướng vừa có đức vừa có dũng, lại cơ trí hơn người. Ta không thể lấy sức mạnh mà đè bẹp được. Muốn thắng chỉ có dùng mưu bắt hắn mới xong.

Các tướng đều cho là phải. Nạp Tốc Lạt Đinh liền dẫn quân đến dưới ải bày trận rồi cho người gọi Nhật Duật ra nói chuyện. Nhật Duật nghe báo, kéo quân xuống ải. Tả có Phó Tường, Trương Tích, hữu có Giả Cương, Tiết Hùng đi theo hộ vệ. Khi hai bên đối trận, Nạp Tốc Lạt Đinh không cầm binh khí, cưỡi ngựa lên trước nói:

– Ta là bình chương chính sự Vân Nam, xin mời Chiêu Văn ra nói chuyện.

Bên trận Đại Việt quân lính chuyển động, mở ra một cửa trận. Trần Nhật Duật cưỡi ngựa bạch long ung dung tiến ra. Các tướng Nguyên trông thấy đều nói:

– Người ta thường đồn Nhật Duật ở đất An Nam có cốt cách thần tiên, nay mới biết quả không sai.

Nhật Duật vòng tay thi lễ với Nạp Tốc Lạt Đinh. Nạp Tốc Lạt Đinh cũng vòng tay đáp lễ, nói:

– Tôi với Chiêu Văn xa cách đã lâu ngày, không ngờ ngày nay lại gặp nhau trong cảnh ngộ thế này, chẳng hay ngài có thường được mạnh khoẻ?

– Cảm ơn lời thăm hỏi của quan bình chương. Tôi vẫn mạnh khoẻ. Nếu ngài nhớ đến tình bằng hữu khi xưa, sao còn mang quân xâm lấn nước tôi?

– Khi xưa tôi nhiều lần sang sứ nước Nam, được ngài ân cần khoản tiếp, khi nâng chén lúc ngắm hoa, cùng vui trong cuộc cờ tiếng hát. Người ấy, tình ấy quên sao được, nhưng nay tôi phụng mệnh thiên tử đem quân đi là việc quốc sự đâu dám vì tình riêng mà bê trễ. Nay tôi muốn cho quân đôi bên hưu chiến hai ngày để hai ta chung vui cuộc cờ chén rượu cho thoả cái tình bằng hữu rồi ai nấy hãy làm bổn phận của mình, vậy có nên chăng?

– ý quan bình chương đã như vậy, xin hãy về trại rồi tôi thư thả trả lời sau.

Nhật Duật nói xong liền trở vào trong trận, kéo quân lên ải. Nạp Tốc Lạt Đinh cũng mang quân về trại, buổi chiều viết thư cho người mang sang trại quân Việt, hẹn với Nhật Duật hôm sau hưu chiến, hai người đến chơi ở phía Nam đồi Lê Hoa là nơi có phong cảnh rất hữu tình. Nhật Duật nhận thư, liền họp chư tướng. Mã Phi Thái nói:

– Nạp Tốc Lạt Đinh mời hội kiến chẳng phải có ý thực lòng. Tôi e có chuyện Hồng Môn yến chăng. Việc chinh chiến chỉ có đánh nhau, vương công chớ nên đi.

Phó Tường nghe nói vậy, dựng hết cả râu tóc lên, nói:

– Lưu Bang xưa có Phàn Khoái, tôi không là Phàn Khoái của vương công được sao? Đi thì đi! Làm sao phải sợ bọn chó đồng hoang.

Trương Tích, Triệu Trung cũng mỗi người góp một lời, mãi hồi lâu vẫn chưa ngã ngũ xem có nên đi hay không. Trần Đạo Chiêu ghé vào tai Nhật Duật nói nhỏ mấy câu. Nhật Duật mủm mỉm cười, nói:

– Mưu kế của ông hợp ý tôi lắm.

Thật là:

Kẻ ấy rắp tâm bày mẹo quỉ

Người này dụng ý đặt mưu thần

Mưu kế của hai bên đều ghê gớm cả. Xin mời độc giả theo dõi tiếp chương sau xem họ lừa nhau thế nào.


1 Ô, Lý: Miền cực Bắc của Chiêm Thành xưa, tức vùng Thừa Thiên, Quảng Nam ngày nay.

2 Khinh thuyền: Thuyền nhẹ.

1 Lộc Bình (Lộc Châu): Thuộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay

1 Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVsktt) có ghi: “Bấy giờ có viên độc bạ là Trần Cụ tính khoan hậu, cẩn thận, thật thà, giỏi nghề đánh cá, bắn nỏ và chơi cầu. Vua sai dạy thái tử các nghề ấy… Cụ làm cầu cân nhắc các muí da, cho  mười hai múi cân nhau, duy ba múi ở miệng cầu là chỗ bỏ cái bong bóng lợn vào thì hơi nhẹ và mỏng, để cân với sức nặng ở đầu bong bóng, cho nên khi đá cầu, múi nào ở trên khi rơi xuống lại nguyên như cũ, không bao giờ chuyển khác”. Qua mô tả ở trên thì quả cầu của thời Trần giống quả bóng đá hiện đại. Phải chăng đây chính là tiền thân của môn bóng đá ngày nay?

2 Ải Lão Thử: Ải Chi Lăng

1 Bãi Tân: Một địa điểm trên sông Lục Nam.

2 Nhiều tài liệu cho rằng Nguyễn Truyền là em Nguyễn Khả Lạp.

1 Tiết Đinh Sơn: Danh tướng đời Đường, có tiếng đẹp trai. Khi ông ra trận, nữ tướng đối phương là Phàn Lê Hoa vì quá yêu ông nên tìm mọi cách buộc ông phải lấy nàng làm vợ.

1 Tuyên Quang: Miền Tây Bắc, thuộc tỉnh Lào Cai ngày nay.

2 Nơi đây về sau (1321) có đúc một quả chuông lớn,  trên quả chuông ấy khắc một bài minh của Hứa Tôn Đạo nói về việc Trần Nhật Duật hội thề ở Bạch Hạc.

1 Giở Thìn: Từ 8 đến 10 giờ.

2 Giờ Dậu : Từ 18 đến 20 giờ.

ĐT

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder