Đánh Đông Bộ Đầu, Quốc Tuấn thu toàn thắng
Chặn Quy Hóa giang, Hà Bổng lập đại công… (chương 12)
Đánh Đông Bộ Đầu, Quốc Tuấn thu toàn thắng
Chặn Quy Hóa giang, Hà Bổng lập đại công… (chương 12)
Đang nói chuyện Tô Đại Cơ trái lệnh bị Thiên Cực công chúa thét võ sĩ lôi ra chém, hoảng quá hoá liều hét toáng lên rồi lại đập trán xuống thềm xin tha chết. Người thị nữ đứng cạnh thương tình nói với Thiên Cực công chúa:
– Anh này ngày đầu vào lính chưa được rèn luyện nên mới mắc tội lớn, mong công chúa ra ân cho lập công chuộc tội.
Mấy viên vệ uý cũng thương là tân binh nên cùng xin cho. Công chúa nói:
– Đã vào lính phải theo phép nhà binh, không được như ở nhà với mẹ. Nể lời mọi người ta tha cho tội chết nhưng phải đánh hai mươi roi để nhớ lấy, lần sau không được lười nhác.
Tô Đại Cơ mếu máo đập đầu lạy tạ nhận đòn. Thiên Cực công chúa cho xếp vào thập vận binh thứ mười lăm, chiều hôm ấy theo thuyền chuyển lương ra trận.
*
Cốt Đãi Ngột Lang dừng quân trên bến Bồ Đề một đêm, cho thám binh sang sông dò xem quân Đại Việt phòng thủ kinh thành thế nào. Gần trưa các đội thám binh về đều báo Thăng Long bỏ ngỏ, không có quân sĩ canh giữ. A Truật nói:
– Phụ thân để con mang quân sang trước, nếu gặp quân Nam sẽ đánh mở đường. Phụ thân cùng Đoàn tướng quân đem quân tiếp ứng.
Cốt Đãi Ngột Lang nói:
– Hôm trước Trần Quốc Tuấn đã dùng trận Điểu vân đánh ta, hôm nay lại bỏ trống thành trì. E có quỉ kế gì đây.
Hoài Đô nói:
– Tôi cho rằng quân Nam đã thiệt hại nặng, không đủ binh lực để giao tranh với ta nữa nên bỏ đi chứ không có mưu kế gì đâu. Xin nguyên soái cứ sang sông.
Cốt Đãi Ngột Lang bảo:
– Nếu vậy, các tướng nghe lệnh. A Truật, Hoài Đô mang ba nghìn quân sang trước, đánh chiếm bờ sông. Ta đem đại binh tiếp ứng. Bố Nhĩ Hải cho quân lương đi thứ ba. Đoàn Hưng Trí sang sau để giúp Bố Nhĩ Hải bảo vệ quân lương. Đội nào đến bờ gặp quân Nam phải đánh ngay.
Các tướng tuân lệnh lần lượt tiến binh, sẵn sàng tác chiến nhưng quân sang hết bên hữu ngạn vẫn chả thấy lính Đại Việt ở chỗ nào mà đánh. Đến chiều Cốt Đãi Ngột Lang đóng bản doanh trên bến Đông Bộ Đầu, vào nghỉ trong điện Phong Thuỷ, sai lính đi thám sát. Trời tối, lính thám sát về báo trong thành Đại La không một tiếng gà kêu chó cắn. Thăng Long không có lính giữ cửa. Cốt Đãi Ngột Lang sai A Truật tức tốc điểm năm nghìn binh vào thành. Hoài Đô, Đoàn Hưng Trí đem năm nghìn quân tiếp ứng, tự mình giữ một vạn quân làm ngoại viện. Bố Nhĩ Hải bảo vệ quân lương, quân dược đóng tại Đông Bộ Đầu. Sáng hôm sau quân tướng vào cả trong thành mà chẳng thấy dân chúng, triều đình Đại Việt đâu cả. Cốt Đãi Ngột Lang lệnh cho Bố Nhĩ Hải tải hết lương thực vào thành Thăng Long. Hoài Đô can:
– Quân ta tuy đã chiếm được thành nhưng không biết quân Nam ở đâu, nếu vào cả trong thành, quân Nam vây bốn mặt, quân ta khốn ngay. Lương thực còn không đáng bao nhiêu, làm sao giữ vững được. Xin thống tướng chia quân, đóng ở bên ngoài, chỉ để số ít trong thành, khi hữu sự còn ứng cứu cho nhau. Mặt khác, phải kiểm điểm kho tàng của quân Nam lấy thêm lương thực cho ta.
Cốt Đãi Ngột Lang nghe theo, giữ Hoài Đô cùng năm nghìn quân ở lại trong thành tìm lương thực. A Truật đem một vạn quân trở về Đông Bộ Đầu cùng Bố Nhĩ Hải. Đoàn Hưng Trí đem năm nghìn quân đóng ở Mi Động giữ phía Nam thành Đại La. Ba nơi tạo thành thế chân vạc ứng cứu cho nhau. Một nơi bị đánh, hai nơi đến cứu ứng.
Năm nghìn quân của Cốt Đãi Ngột Lang xục tìm suốt ngày chẳng được chút lương thực nào, khi vào đến nhà ngục chỉ thấy bọn sứ giả Ngạch Vu Tháp bị trói nằm khò khoeo ở đó, một tên đã chết từ đời nào, mới đưa ra gặp Cốt Đãi Ngột Lang. Ngột Lang thấy vậy uất quá nói:
– Phen này ta quyết bắt vua tôi nhà Trần mà băm vằm ra mới được.
Nói xong sai Nghạch Vu Tháp ra Đông Bộ Đầu lĩnh binh, ngày mai dẫn đường đuổi bắt vua Nam.
Hoài Đô nói:
– Quân ta nay còn không được ba vạn, lương thực dè xẻn chỉ đủ bốn năm ngày. Thống tướng mang quân đi, nhỡ quân Nam úp phía sau thì quân ta tan nát hết. Xin thống tướng hãy cứ ngưng binh, chỉ đánh các vùng lân cận để cướp lương, cướp người, bắt trai tráng bổ sung vào lính cho ta tăng quân số đã. Khi đã vững chân rồi, có thể lấy người Nam đánh người Nam, có phải quân ta đỡ đổ máu không. Nếu không, phải ngược lên phía Bắc sang đất Tống ngay.
Cốt Đãi Ngột Lang nói:
– Ta mà đem quân lên phía Bắc nhất định bị quân Nam đuổi theo. Vả lại đường lên phía Bắc có nhiều đồn ải không dễ vượt qua nhanh chóng được, như vậy lấy gì ăn mà đi. Trước hết hãy ở lại đây, cho quân nghỉ ngơi, tìm lương thảo bổ sung cái đã. Nếu biết vua Nam trốn ở đâu, ta sai sứ đến doạ cho chúng quy phục là hơn.
Hoài Đô nói:
– Việc dụ vua Nam qui thuận không phải là dễ. Xin thống tướng lo việc kiếm lương ngay.
Cốt Đãi Ngột Lang nói:
– Ta có bảy viên đại tướng, nay đã chết mất hai, A Nhĩ Hải bị thương chưa khỏi, còn bốn người chia ra lo giữ các nơi, biết dùng ai vào việc này bây giờ?
Hoài Đô thưa:
– Trong mười đại dũng sĩ, đã tử trận mất bảy viên, nay còn Nghạch Vu Tháp, Lâm Tằng Cơ, Đa Xích Nãn cũng đều là những người đã lập được công; sao thống tướng không dùng họ vào việc chỉ huy ba quân.
Cốt Đãi Ngột Lang nghe theo, phong Nghạch Vu Tháp, Lâm Tằng Cơ, Đa Xích Nãn làm tướng, sai đến Đông Bộ Đầu bảo A Truật chia cho mỗi người một nghìn quân ra các vùng phía Tây, phía Nam tìm lương và bắt người.
*
Trong khi Cốt Đãi Ngột Lang đang lúng túng tìm đối sách ở Thăng Long, Trần Thái Tông đóng đại bản doanh trên sông Thiên Mạc cùng Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Lê Tần ngày đêm bàn kế phá giặc. Hôm ấy là chiều ngày rằm tháng chạp, Thái Tông cùng mấy vệ sĩ đi thuyền nhỏ kiểm tra thuỷ trại, được tin Cốt Đãi Ngột Lang đã vào Thăng Long, nhà vua liền đến chỗ quân Tinh Cương do Trần Nhật Hiệu chỉ huy nhưng không thấy quân sĩ đâu cả, chỉ mỗi mình Nhật Hiệu ngồi trong thuyền. Nhà vua hỏi:
– Nay quân Thát đã vào Thăng Long, ngự đệ có kế gì phá giặc không?
Nhật Hiệu sợ hãi, không nói được, cũng không đứng lên nổi, lấy tay chấm vào nước viết lên mạn thuyền hai chữ nhập Tống, ý bảo nhà vua nên chạy vào đất Tống. Nhà vua bảo:
– Nhà Tống tự lo giữ lấy thân còn chẳng nổi, ta bỏ dân bỏ nước sang nhờ họ sao được. Quân Tinh Cương đâu cả?
Nhật Hiệu đáp:
– Không gọi được chúng đến.
Thái Tông lắc đầu bỏ đi. Thực ra không phải quân Tinh Cương không đến. Số là Thái Tông nhiều lần đem việc quân bàn với Trần Nhật Hiệu nhưng Nhật Hiệu toàn bàn chùn, nhà vua biết là người không làm nên việc, chỉ giao cho một toán quân nhỏ, chủ yếu để hầu hạ và bảo vệ Nhật Hiệu, nhưng người xã Tinh Cương biết Nhật Hiệu hèn nhát nên không theo mà ra nhập các đội quân khác để được đi đánh giặc.
Nhà vua lúc ấy dời thuyền Nhật Hiệu đến thuyền Trần Thủ Độ, có cả Trần Quốc Tuấn và Lê Tần ở đấy. Nhà vua kể lại lời Trần Nhật Hiệu. Mọi người cười ầm cả lên. Nhà vua bảo:
– Em ta còn sợ giặc như vậy, biết liệu thế nào?
Trần Thủ Độ nói:
– Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác.
Nhà vua hỏi:
– Các khanh đã trù hoạch mọi việc đến đâu rồi?
Trần Quốc Tuấn đứng ra tâu:
– Quân giặc vào thành Thăng Long không khác gì cá vào lưới. Ta vây chặt không cho chúng ra các làng mạc cướp phá, chỉ mấy ngày quân chúng hết lương tất có biến, lúc ấy thần sẽ có kế đánh tan bọn chúng.
Nhà vua nói:
– Phải lắm!
Hôm sau Trần Quốc Tuấn phân công lão tướng Bùi Khâm đem năm nghìn quân vây cánh Bắc, Hoài Đức vương Trần Bà Liệt lĩnh một vạn quân chặn suốt dải phía Tây. Đại tướng Trần Khuê Kình chỉ huy đại đội binh mã chặn mọi con đường xuống hướng Nam. Hẹn đêm hai ba tháng chạp táo quân lên chầu giời, gió Đông Bấc thổi mạnh, thấy lửa cháy ở Đông Bộ Đầu tất cả cùng tiến đánh. Các tướng lĩnh quân đi ngay. Quốc Tuấn lại gọi Trung Thành vương đến giao cho một trăm năm mươi thuyền nhẹ dặn cứ như thế như thế mà làm. Trung Thành vương lĩnh kế bước ra. Quốc Tuấn nói với Lê Tần:
– Phiền tướng quân trông coi cho đại đội binh thuyền, trong vòng mười ngày ắt phải dùng đến. Lúc ấy xin mời Quan gia cùng thái sư lên đài cao xem phá giặc.
*
A Truật cùng Bố Nhĩ Hải đóng quân trên bến Đông Bộ Đầu, ngày nào cũng bị binh thuyền quân Đại Việt tiến đánh nhưng khi đem quân ra nghênh địch, thuyền Đại Việt lại rút đi, ban đêm quân lính định ngủ, quân Việt đốt lửa hò reo tiến vào, đem binh ra, quân Việt đã đi đâu mất. Cứ như thế mấy ngày liền, quân Thát mất ăn mất ngủ sinh ra trễ nải việc canh phòng. Bọn Đa Xích Nãn, Lâm Tằng Cơ, Nghạch Vu Tháp không phá nổi vòng vây để đi tìm lương. Quân lính đào cả cây chuối, mò cá ốc ở hồ Lục Thuỷ lên ăn nhưng những thứ ấy cũng chẳng có nhiều nên ngựa bị thương hoặc ốm yếu phải đem ra làm thịt. Cốt Đãi Ngột Lang muốn điều quân của A Truật đi giúp bọn Nghạch Vu Tháp nhưng lại sợ mất Đông Bộ Đầu. Hoài Đô nói:
– Tình cảnh quân ta hiện nay muôn phần bi đát. Xin thống tướng hãy cử ngay sứ giả đến chỗ vua Nam, một là dụ chúng, hai là xem binh tình chúng thế nào. Nếu binh lực của chúng yếu, ta có thể dốc toàn lực đánh một trận mà diệt đi. Nếu quân lực của chúng mạnh mẽ, ta chiêu an cho chúng giảng hoà hoàn quốc. Như vậy ta có thể an toàn mang quân về nước hoặc sang Ngạc châu.
Cốt Đãi Ngột Lang đã chọn sứ giả nhưng còn dùng dằng chưa đi. Cánh quân bảo vệ phía Nam của Đoàn Hưng Trí hết sạch lương ăn, mò đi kiếm, bị dân binh Đại Việt đánh rát một trận, không dám thò đầu ra nữa. Ngày hai mươi tháng chạp, Trần Khuê Kình cho quân áp sát Mi Động, chia nhiều đội nhỏ, theo phép luân xa chiến thay nhau đêm nào cũng vào quấy phá nên quân Đoàn Hưng Trí vừa đói khổ, vừa lo chống cự không lúc nào được yên. Sau ba ngày căng thẳng không chịu nổi, Đoàn Hưng Trí dẫn quân chạy dồn cả về Đông Bộ Đầu làm tình hình trở lên rối loạn. Cốt Đãi Ngột Lang thấy vậy mới vội cho sứ đi thuyền nhỏ đến gặp quân Đại Việt. Trung Thành vương liền cho giải về Thiên Mạc gặp nhà vua. Lúc ấy Thái Tông đang họp bàn cùng Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn, thấy báo có sứ của Cốt Đãi Ngột Lang đến. Nhà vua hỏi:
– Có nên gặp sứ của chúng hay không?
Trần Quốc Tuấn nói:
– Quan gia cứ nên cho gặp xem ý tứ bọn chúng thế nào.
Nhà vua truyền cho sứ giả vào gặp. Hai sứ giả quân Thát thấy thuyền bè Đại Việt san sát liên tiếp mấy mươi dặm, hàng nào đội ấy rất tề chỉnh, có ý sợ nhưng vẫn nghênh ngang bước vào thuyền của nhà vua, không quì lạy mà chỉ cúi chào. Trần Quốc Tuấn quát:
– Quì xuống.
Sứ Thát vênh vang nói:
– Ta là sứ nước lớn không phải quì trước vua nước nhỏ.
Thái Tông nói:
– Các ngươi là đám quân ma đói mà vẫn còn hống hách thế ư? Võ sĩ đâu! Lôi hai tên này lên bờ chém cho ta.
Sứ Thát lúc ấy mới hoảng lên vội quì lạy xin tha mạng. Thái sư Trần Thủ Độ nói:
– Hai bên đang giao tranh cũng không nên chém sứ. Xin hoàng thượng tha tội chết cho chúng, xem chúng nói gì.
Thái Tông nói:
– Các ngươi đã biết tội thì ta tha chết cho, vậy có chuyện gì hãy nói đi.
Sứ Thát lắp bắp nói:
– Muôn tâu quốc vương! Thống tướng chúng tôi không muốn kéo dài việc chinh chiến nên muốn cùng quốc vương nghị hoà, xin hoàn quốc cho ngài. Hai bên bãi binh để quân sĩ đỡ hao tổn xương máu, chỉ xin quốc vương cho mượn đường lên phía Bắc thôi.
Thái Tông cười lớn nói:
– Thống tướng nhà ngươi nhân đức thế còn mang quân cố chết đến đây làm gì? Ai hoà với các ngươi mà nghị. Quân đâu! Lôi ra đánh mỗi tên hai mươi roi, trói đưa trả về, dạy cho Cốt Đãi Ngột Lang một bài học.
Chu Bác Lãm bảo hai sứ Thát:
– Đến nước này mà còn đòi nghị hoà, thống tướng nhà các ngươi hoá dại mất rồi.
Hai sứ Thát bị đánh đau quá, lại bị trói chặt vất nằm co quắp trong khoang thuyền, nhịn đói suốt cả ngày đưa về trả cho quân Thát ở Đông Bộ Đầu. A Truật cho cởi trói, dẫn vào Thăng Long gặp Cốt Đãi Ngột Lang. Sứ giả kể lại tình hình binh thế của Đại Việt rất lớn. Vua Đại Việt không chịu nghị hoà. Cốt Đãi Ngột Lang nghiến răng thét:
– Không nghị hoà ta cho chúng biết thế nào là chiến!
*
Trần Quốc Tuấn sau khi cho sứ Thát về, liền ra lệnh tiến binh. Đó là đêm hai mươi ba tháng chạp năm Nguyên Phong thứ bảy (Đinh Tỵ-28/01/1258). Lệnh cho lão tướng Bùi Khâm bỏ cửa phía Bắc không vây, đem quân lên phục trong cánh rừng phía Bắc hồ Dâm Đàm, khi nào giặc thua chạy về đấy đổ quân ra đánh. Lệnh cho Hoài Đức vương canh ba đem quân đánh vào cửa Tây thành. Đại tướng Trần Khuê Kình chia ba nghìn quân cũng canh ba đánh vào phía Nam Thăng Long, còn đại binh theo ven sông lên phục ở phía Nam Đông Bộ Đầu khi nào thấy phía Bắc đốt lửa xông vào đánh. Thuỷ binh do Lê Tần, Trung Thành vương, Chu Bác Lãm tiến lên Nhị hà ngăn không cho quân Thát vượt sông sang tả ngạn, canh ba đốt lửa từ phía bắc thuận theo chiều gió đánh xuống. Thái Tông cùng Quốc Tuấn đem quân thánh dực đến bến Triều Đông dựng đài cao bên bờ sông quan sát. Thái sư Trần Thủ Độ tiếp ứng phía sau.
*
Hôm ấy Cốt Đãi Ngột Lang cho lính ở Đông Bộ Đầu đặt lưới bắt cá chép cúng ông Công ông Táo mong phù hộ kiếm được quân lương để bếp lính lúc nào cũng đỏ lửa. Lính tráng bảo nhau tết nhất đến nơi rồi, chả kiếm được cái gì mà ăn, không khéo chết đói hết. Tất cả các ao hồ trong thành Đại La đều bị khoắng đi khoắng lại đục ngầu để tìm cá, ốc. Cây chuối, rau lang cũng cắt sạch, cái gì người không thể nuốt được thì cho ngựa, cho trâu. Tình cảnh thật muôn phần ngao ngán.
Hoài Đô lên lầu cao quan sát rồi xuống, nói:
– Tôi xem các cánh rừng bên tả ngạn yên tĩnh, không có khói bụi, chắc quân Nam không chặn ngả ấy. Ngày mai nguyên soái nên dồn quân đánh sang mới có thể tìm được đường về.
Cốt Đãi Ngột Lang nói:
– Ta nghĩ khác. Đã đem quân đến đây, thiệt hại mấy vạn nhân mã lẽ nào lại về không. Ngày mai ngươi ở lại giữ thành. Ta sẽ đem quân đi phá vây, đánh xuống hướng Tây Nam thế nào cũng tìm được lương thực.
Nói xong cho lính đến Đông Bộ Đầu bảo A Truật sáng hôm sau đem năm nghìn quân vào thành cùng đi phá vây. A Truật bảo Bố Nhĩ Hải:
– Ngày mai tôi theo nguyên soái đi kiếm lương thực, ông ở nhà phải cẩn thận, không cho binh thuyền quân Nam đến gần thuỷ trại của ta. Nếu chúng tấn công hãy đốt lửa to lên, tôi sẽ đem binh về cứu.
Bố Nhĩ Hải nói:
– Tướng quân cứ yên lòng mà đi, cốt sao mau chóng tìm được quân lương, nếu không lòng quân sinh biến mất.
Đêm ấy A Truật cho quân ngủ yên để sáng mai đi sớm. Canh ba lính gác vào báo có quân Nam từ hướng Bắc đốt lửa tiến vào. A Truật bảo:
– Kệ chúng, đêm nào mà chả thế, chỉ có vài tên quấy rối vậy thôi, đại quân của chúng ở phía Nam cơ.
Nói chưa dứt lời lại có quân vào báo quân Nam đã phá cổng Bắc tràn vào trại rồi. A Truật, Bố Nhĩ Hải vội vã ra xem, thấy lửa từ phía Bắc theo gió bốc lên cuồn cuộn sáng rực trời đất. Lửa cháy vào tàu ngựa, những con ngựa chiến rứt cương chạy bổ tứ tung, giẵm đạp lên quân sĩ. Nhiều con không chạy được, chết cháy khét lẹt. Lính Thát nhốn nháo chạy quàng chạy xiên như ong vỡ tổ, dạt cả về hướng Nam. Bỗng pháo nổ liên thanh, một đạo quân Đại Việt từ hướng Nam đánh vào. Thấp thoáng trong ánh lửa, quân Thát nhận ra tướng Việt đi đầu là Trần Khuê Kình, vội vã chạy té cả ra phía bờ sông. Bố Nhĩ Hải xông ra ngăn Trần Khuê Kình. Đánh nhau mới được bốn năm hiệp, Bố Nhĩ Hải không địch nổi, quất ngựa bỏ chạy. Khuê Kình thúc quân xốc vào đánh phá, chém giết quân Thát không biết bao nhiêu mà kể.
Thuỷ binh của Lê Tần, Trung Thành vương, Chu Bác Lãm giăng kín mặt sông, đánh vào thuỷ trại quân Thát, đốt hết thuyền bè rồi thúc quân đánh lên bờ. Quân Thát không biết chạy đường nào, giày xéo lên nhau mà chết. Bố Nhĩ Hải đang chỉ huy một đám lính mở đường máu đánh về phía Bắc, gặp ngay Lê Tần chặn lại. Hải luống cuống bị Lê Tần chém một nhát rơi đầu, quân sĩ chạy tan cả. Hai bên đánh nhau đến sáng. Hơn hai vạn quân Thát đóng ở Đông Bộ Đầu chết gần hết, chỉ có A Truật dẫn mấy trăm kị binh cố sống cố chết chạy lên phía hồ Dâm Đàm. Mấy nghìn quân của Đoàn Hưng Trí mới từ Mi Động rút về, đóng ở bên trong mở cửa trại chạy vào Thăng Long, bị quân Việt đuổi đánh, xác chết đầy đường. Đoàn Hưng Trí không dám ngoảnh lại, cắm đầu cắm cổ chạy, may thoát được.
Trong khi ở Đông Bộ Đầu đang xảy ra giao tranh, lính Thát trong thành Thăng Long vẫn ngủ yên, lại than thở kêu khổ vì đói, quá canh ba bỗng thấy phía Tây và phía Nam thành lửa bốc lên ngùn ngụt, trống đánh, pháo nổ, quân sĩ reo hò vang trời dậy đất xông vào. Phía Đông, ánh lửa từ Đông Bộ Đầu chiếu đến, sáng rực cả một vùng. Cốt Đãi Ngột Lang, Hoài Đô chạy ra, quân sĩ khắp nơi đã náo loạn cả, liền thét bọn Nghạch Vu Tháp, Lâm Tằng Cơ trấn an quân sĩ giữ thành, lát sau thấy bọn Đoàn Hưng Trí chạy về gọi mở cửa. Cốt Đãi Ngột Lang cho vào. Đoàn Hưng Trí quỳ khóc, nói:
– Nguyên soái ôi! Đông Bộ Đầu mất rồi, quân lính tan nát hết cả. Thành này cũng không thể giữ được đâu. Xin nguyên soái lo liệu sớm đi.
Cốt Đãi Ngột Lang cau mày, hỏi:
– A Truật, Bố Nhĩ Hải đâu?
– Bố Nhĩ Hải chết rồi. Công tử A Truật không biết chạy đi đâu.
Hoài Đô nói:
– Tình thế không thể ở lại được nữa. Nay chỉ có cửa Bắc không có quân vây, xin nguyên soái cho chạy ra phía ấy.
Cốt Đãi Ngột Lang hạ lệnh cho bọn Nghạch Vu Tháp, Đa Xích Nãn đem lính đi đốt phá cung điện dinh thự nhưng bọn này mải lo chạy nên chưa phá phách được nhiều. Cốt Đãi Ngột Lang cầm đại đao đi trước, dặn Hoài Đô cùng Lâm Tằng Cơ đi đoạn hậu, Đoàn Hưng Trí, Đa Xích Nãn, Nghạch Vu Tháp đi tả hữu. A Nhĩ Hải vết thương ở đầu chưa khỏi cũng nai nịt lên ngựa. Trời sáng rõ, quân Thát mở cửa Bắc chạy về hướng hồ Dâm Đàm định theo bờ sông mà đi.
Quân Đại Việt thấy quân Thát đã ra khỏi thành mới hò nhau đuổi đánh. Quân Thát cứ bặm môi chạy không dám quay lại, qua khỏi hồ Dâm Đàm có một con đường theo bờ sông ngược lên phía Bắc, một bên là rừng, một bên là bãi sông. Cốt Đãi Ngột Lang thúc quân đi cho nhanh bỗng một tướng Việt trong rừng xông ra cản đường, quát:
– Ta là Bùi Khâm đợi ở đây đã lâu. Tướng Thát không xuống hàng còn định chạy đi đâu.
Quân Thát bủn rủn cả chân tay, nhiều đứa ngã quỵ không đứng lên được. Cốt Đãi Ngột Lang lao vào đánh nhau với Bùi Khâm để mở đường. Đằng sau, Trần Khuê Kình đem quân khinh kỵ xốc tới. Phía Tây, Hoài Đức vương Trần Bà Liệt đánh áp vào. Dưới sông, thuỷ binh của Trung Thành vương hò reo đánh lên. Quân Thát bỏ đội ngũ, mạnh ai nấy chạy tứ tung. Cốt Đãi Ngột Lang thấy nguy đến nơi, không dám ham đánh, dẫn đám kỵ binh co giò chạy tháo thân. A Nhĩ Hải, Lâm Tằng Cơ bị vây không chạy được, đâm cổ tự tử. Hoài Đô, Đoàn Hưng Trí, Nghạch Vu Tháp, Đa Xích Nãn mỗi người chạy tán loạn một nơi. Quân sĩ bị chết rất nhiều, một số bị bắt hoặc buông vũ khí đầu hàng xin được sống. Hoài Đô chạy đến trưa tới bến Cổ Sở trên sông Đáy gặp Nghạch Vu Tháp dẫn một đội quân thất thểu đi tới. Tự nhiên con ngựa của Hoài Đô khuỵu chân không đi được nữa. Trong đám lính có đứa nói đây là điềm chẳng lành. Nghạch Vu Tháp bảo:
– Đã đến nông nỗi này còn có điềm gì xấu hơn được nữa, chẳng qua là nó đói quá không đi được. Chúng bay xẻ thịt ra nướng ăn cho đỡ đói, đưa con khác cho tướng quân đi.
Nghạch Vu Tháp quay về phía Hoài Đô, nói:
– ở đây có nhiều làng mạc, để quân lính ăn xong, ta hợp binh lại đánh vào kiếm lấy ít lương thảo cho quân sĩ mang đi ăn đường.
Hoài Đô bảo:
– Chính tôi cũng đang nghĩ như vậy.
Quân sĩ lấy kiếm xẻ thịt ngựa nướng nhếu nháo, dâng lên cho Hoài Đô và Nghạch Vu Tháp. Ai nấy nhai trệu trạo nuốt vội nuốt vàng lấy mấy miếng cho tỉnh lại. Hoài Đô kiểm điểm quân số thấy có gần năm trăm người mới hò hét xông vào làng cướp phá, không ngờ dân ở đây đã biết trước, đặt rất nhiều hầm chông, bẫy đá. Lính Thát thụt xuống không lên được, kêu khóc như ri, lại bị dân binh bắn tên nỏ, nhiều kẻ đeo tên mà chạy. Mấy làng bên cạnh đem cơm gạo ra nhử nhưng quân Thát sợ mắc bẫy không dám cướp, cứ cắm đầu chạy miết. Một cô dân binh bảo:
– Đang đói mà chê cơm. Có lẽ bọn này là giặc phật!
Từ đấy người Việt có từ giặc phật để mỉa mai chỉ đám tàn quân Mông Thát bại trận mải chạy không dám cướp phá.
Đám quân của Hoài Đô và Nghạch Vu Tháp chạy đến chiều, gặp bọn Cốt Đãi Ngột Lang ở gần ngã ba Bạch Hạc mới tựa vào rừng cây để nghỉ và bàn tính chuyện vượt sông. Đựơc một lúc Đoàn Hưng Trí cũng tìm đến. Ngột Lang nói:
– Người ngựa đã mệt mỏi lắm rồi, ta cho lính cụm lại trong cánh rừng này, xem còn cái gì ăn được thì ăn, lấy sức sáng mai vượt sông sớm.
Hoài Đô nói:
– Như thế thật là nguy hiểm, nhỡ quân Nam đuổi kịp, ta biết chạy vào đâu. Vùng này dân Nam cũng có thể bất ưng thành lính, chúng lợi dụng ban đêm tiến đánh, quân ta rệu rã chống sao nổi. Xin nguyên soái cho lính cứ năm người cử một người đi chăn ngựa, một người nấu ăn, còn ba người đi đẵn tre nứa đóng bè, cơm chín, ngựa no, quân sĩ ăn xong sang sông ngay. Về được bờ bên kia là sống rồi.
Đoàn Hưng Trí nói:
– Tướng quân Hoài Đô nói phải lắm.
Cốt Đãi Ngột Lang nghe theo, cho các đội y kế thi hành. Cuối canh hai đêm ấy bè mảng mới đóng xong mà ngựa lại nhiều con lăn ra chết. Cốt Đãi Ngột Lang lệnh cho lính giết hết những con ngựa đã yếu, lóc lấy thịt gói đem đi làm cái ăn, thành ra đến canh tư mới sang sông được. May! Thuỷ quân của Trung Thành vương ngược nước nên không đuổi kịp. Quân Thát sang sông gần hết, trời vừa sáng. Cốt Đãi Ngột Lang nói:
– Thôi thế là thoát rồi.
Bỗng đâu nổi lên một hồi tù và, trống thúc liên hồi, một đạo quân trong rừng kéo ra, tướng đi đầu là Trần Khánh Dư. Quân thát hồn bay phách lạc, bảo nhau:
– Gặp Trần Khánh Dư khó mà hòng trông thấy quê hương.
Trần Khánh Dư xốc tới, quát:
– Cốt Đãi Ngột Lang không lại hàng mau, còn muốn ta ra tay hay sao?
Nghạch Vu Tháp nói:
– Tôi còn có thể ra giao chiến được. Xin thống tướng yên lòng.
Nói xong quất ngựa xông ra. Trần Khánh Dư bảo:
– Các ngươi là một lũ ma đói không biết điều hàng mau còn thích đánh nhau đến thế ư ?
Nghạch Vu Tháp xông vào đánh mới được mấy hiệp, con ngựa không chịu được quị xuống, hất Nghạch Vu Tháp ngã quay ra đất. Khánh Dư chỉ ngọn giáo vào mặt bảo:
– Rõ cái đồ trẻ con, không đáng để ta giết.
Nói xong hô quân xông lên bắt Cốt Đãi Ngột Lang. Hoài Đô, Đoàn Hưng Trí liều chết cùng xông ra cản Trần Khánh Dư nhưng quân sĩ người ngựa mỏi mệt đánh không lại, Nghạch Vu Tháp bị ngựa xéo chết trong đám loạn quân. Đang lúc khốn quẫn thấy hậu quân của Trần Khánh Dư rối loạn. Hoá ra Đa Xích Nãn đã sang được sông từ trước, dẫn gần một nghìn quân đến cứu. Trần Khánh Dư rơi vào thế lưỡng đầu thọ địch vội cho quân lui cả vào rừng. Cốt Đãi Ngột Lang thừa cơ chạy miết về Quy Hoá. Khi chạy đã xa, Cốt Đãi Ngột Lang hỏi Đa Xích Nãn:
– Làm sao ngươi biết ta ở đây mà đến cứu?
Đa Xích Nãn thưa:
– Trình nguyên soái! Hôm qua lúc quân sĩ chạy tan nát, không biết thống tướng đi về hướng nào. Tôi thu thập được gần nghìn anh em đợi trời tối sang sông, nhổ sắn nhổ khoai ăn tạm, đêm ngủ trong rừng, bỗng dưng tôi thấy có người đến bên nói: “ ngươi mau đến cứu thống tướng ở bến sông”. Tôi nhìn kĩ hoá ra tiên phong Triệt Triệt Đô. Tôi hỏi : “Tiên phong sao vẫn còn ở đây? ”. Ngài nói: “ Ta đã thành quỉ, bị giam ở nơi này, không về được. Ngươi nói với thống tướng Đại Việt là đất địa linh, đừng bao giờ dại dột mà xâm phạm tới nữa ”. Tiên phong nói xong chỉ cho tôi mấy người đứng cạnh đấy, bảo:“Các anh em này cũng bị giam hết cả rồi ”. Tôi nhận ra mấy người ấy là Tín Thư Phúc, Bố Nhĩ Hải, A Nhĩ Hải và tám anh em dũng sĩ. Tất cả đều bị trói, có quân Nam áp giải không biết đi đâu. Tôi giật mình tỉnh dậy, dẫn quân ra bờ sông may cứu được nguyên soái.
Cốt Đãi Ngột Lang than:
– Triệt Triệt Đô thật là trung thành. Tiếc rằng ta một lúc nóng giận giết mất ông ấy.
Quân Thát chạy xa rồi, Trần Khánh Dư đem quân về xuôi. Mấy viên tỳ tướng hỏi:
– Sao tướng quân không đuổi đánh mà lại rút về?
Khánh Dư nói:
– Ta muốn đám tàn quân này làm mồi cho Hà Bổng ăn tết.
Lại nói A Truật từ khi đem mấy chục lính kị chạy trốn khỏi Đông Bộ Đầu, men theo bờ sông mà đi. Về đến Yên Khâu, dừng lại nghỉ, cho quân đi tìm măng, tìm củ rừng ăn tạm. Chiều hôm ấy Cốt Đãi Ngột Lang dẫn tàn quân chạy đến. Cha con gặp nhau tủi cực không biết nhường nào, khóc như mưa như gió. Hoài Đô nói:
– Xin thống tướng bớt bi thương. Nơi này vẫn trong đất giặc, nhỡ bị đánh úp thì nguy to.
Cốt Đãi Ngột Lang nói:
– Ta mang đi bảy viên đại tướng chết mất bốn, mười viên đại lực sĩ chết chín, gần năm vạn quân nay còn không nổi một vạn không đau lòng sao được. Cả đời chinh chiến chưa bao giờ cay đắng thế này.
Rừng già ban đêm như đứa trẻ đỏng đảnh, đầy những trò tinh nghịch oái oăm. Sau tấm màn đen bí mật ngập tràn tiếng i…i…on…on, ái ái…ừm ừm, quân Thát không biết thần chết vẫn lần theo từng bước, nhất cử nhất động không thoát khỏi những đôi mắt của thám binh Hà Bổng. Nửa đêm về sáng, trời lạnh thấu xương, quân Thát vừa đói vừa mệt, ngủ say như chết. Mấy tốp lính gác, áo quần tơi tả, đi lại dật dờ trong ánh đuốc như những hồn ma, không còn sót lại chút gì vẻ kiêu dũng của những chiến binh đồng cỏ đã từng làm sụp đổ bao nhiêu lâu đài thành quách dưới gầm giời.
Cuối canh tư, phía sau trại có tiếng pháo nổ, tiếng tù và nổi lên, tiếng trống đồng hoà với tiếng quân reo vang ầm rừng núi. Quân Thát nháo nhác gọi nhau:
– Quân Nam đánh đến, chạy thôi!
A Truật bảo:
– Cha chạy trước để con chặn hậu cho.
Cốt Đãi Ngột Lang, Hoài Đô cùng mấy nghìn binh lính người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên cứ trần trùi trụi mà chạy. Đến sáng Cốt Đãi Ngột Lang dừng lại thở hổn hển bảo:
– Chạy cũng xa rồi, đây gần ải Quy Hoá có lẽ quân Nam không đuổi nữa. Ta đi từ từ đợi A Truật.
Hoài Đô nói:
– Chỗ này đường hẹp, hai bên vách núi dựng như thành, thật là mạt địa. Thống tướng nên đi mau, quân Nam đặt bẫy đá thì quân ta chết hết.
Hoài Đô nói chưa dứt lời, trên đỉnh núi nổ một tiếng pháo, gỗ đá rơi xuống như mưa. Quân Thát tranh nhau chạy, chết hại vô số. Cốt Đãi Ngột Lang chạy đến gần ải Quy Hoá lại có một cánh quân dựng thành gỗ chặn mất đường, quân sĩ ùn cả lại, tên nỏ từ trong rừng bắn ra. Lính Thát mải chạy mất hết khiên mộc lẫn áo giáp, đứng làm mồi cho tên thuốc độc. Cốt Đãi Ngột Lang than:
– Thôi! Uy danh mấy mươi năm của ta chôn vùi ở đây mất rồi.
Nói xong rút gươm ra tự sát.
Thật là:
Biết trước đất Nam đầy linh khí
Thì đâu đến nỗi phải ngậm ngùi
Xin mời bạn đọc tiếp chương sau, xem Cốt Đãi Ngột Lang sống chết thế nào.
Đ.T