Đât Việt trời Nam -Tiểu thuyết lịch sử của Đan Thành. Chương 14

ĐẤT VIỆT TRỜI NAM (Chương 14)

Đan Thành

Vua thánh, tôi hiền cùng xuống trần gian

Phạm Hữu, Nguyễn Bằng trở về quê cũ…

ĐẤT VIỆT TRỜI NAM (Chương 14)

Đan Thành

Vua thánh, tôi hiền cùng xuống trần gian

Phạm Hữu, Nguyễn Bằng trở về quê cũ

Mặt trời xuống dần sau lũy tre phía đầu ô, còn chút nắng vàng hắt hiu rớt lại trên các ngọn cây gợi một nỗi buồn thê thiết. Cứ nghĩ như trong tay ta đang nắm một vật gì đó thật thiêng liêng quý báu mà bắt buộc phải lìa bỏ. Nuối tiếc, day dứt đè nặng trong lòng khiến ta rơi vào trạng thái của một kẻ tội đồ đang giằng xé tim gan trong những giờ sám hối. Anh cả Thìn ngồi một mình đã lâu trong quán rượu vắng khách, chén rượu rót ra chưa đụng đến. Người chủ quán đứng tuổi thấy lạ, hỏi:

– Ơ kìa! Quan bác không uống đi. Hình như quan bác có điều gì phiền muộn? Hay quan bác đánh mất vật gì?

– Vâng! Tôi đang sắp đánh mất cái điều mà tôi không muốn mất tí nào.

– Sắp đánh mất?

– Vâng! Sắp đánh mất! Nhưng thôi! Bác hỏi làm chi.

– Vậy ra bác đang ăn năn hối hận vì việc đã làm?

– Không ăn năn gì cả cũng không hối tiếc gì cả, chỉ đau xót và ngại ngần thôi. Tôi sắp phải báo tin buồn cho gia đình những bạn bè. Giặc Thát đã giết chết bạn bè tôi, còn tôi sắp giết chết tia hi vọng cuối cùng nơi con mắt người thân của họ. Anh bảo phải làm một việc như vậy không đau lòng sao được, nhưng không thể không làm.

– à ra vậy! Thế thì bác uống đi. Cứ uống đi để lấy dũng khí. Tôi hiểu lòng bác. Thật là khó!

– Vâng! Khó lắm bác ạ. Khó hơn cả việc cầm giáo xông vào trận giặc. Tôi đã phải nén chặt trong lòng từ hôm được về nhà tới nay để đợi cho qua cái tết. Nhưng mỗi lần nhìn thấy những khuôn mặt đang khắc khoải chờ mong, hi vọng, ruột gan tôi quặn thắt, như có bàn tay tàn nhẫn của người khổng lồ bóp ngang lồng ngực.

Bác chủ quán mang thêm ra một đĩa thức ăn, ngồi rót rượu cùng uống với cả Thìn, nói:

– Nào! Kính bác một chén. Tôi sẽ cùng uống với bác. Những người ở mặt trận về như  bác thế này đều đáng gọi là anh hùng cả.

– Không! Chính những người tôi sắp đến gặp mới thật sự là những vị anh hùng. Tôi không có quyền để họ phải chờ đợi lâu hơn nữa.

– Bác nói đúng. Họ cần phải biết rõ sự thật, dù cho đó là sự bất hạnh phũ phàng.

Hàng phố đã lên đèn, cả Thìn đứng dậy lấy ít bạc vụn đưa cho người chủ quán. Bác chủ quán gạt đi, nói:

– Hôm nay tôi đãi bác. Mong có lần khác được hầu chuyện. Xin chúc cho những người anh hùng vượt qua được cửa ải của thời thiên hạ thái bình.

Cả Thìn bước ra ngoài, vầng trăng gần tròn mờ mờ sau màn mây mỏng. Từng cơn gió dư tàn của mùa Đông vẫn đem về khí lạnh. Anh vượt qua khoảng tối cuối phố, rẽ vào ngõ nhà bà cụ Hải và chị tư Phúc. Người chủ quán nhìn theo, ái ngại nói:

– Thật tội nghiệp cho anh lính, giặc chạy hết rồi mà đâu đã cười được.

Lát sau tiếng gào khóc váng lên trong nhà chị tư Phúc. Mây kéo dày thêm che khuất hẳn phần còn lại của vầng trăng. Thành Đại La chìm trong thứ ánh sáng trắng đục u hoài. Mưa bay lất phất làm ướt lạnh tiếng kêu gào của người goá phụ. Những cây duối già cũng run lên theo tiếng khóc than thảm thiết não nùng.

Thái tử Hoảng lúc ấy đã mười chín tuổi, các quan mới bàn lập con gái thứ năm của Yên Sinh vương Trần Liễu làm Thiên Cảm phu nhân. Ngày hai mươi bốn tháng hai, Thái Tông nhường ngôi cho thái tử còn mình làm thượng hoàng. Nhà vua tôn thượng hoàng là Hiển Nghiêu Thánh Thọ thái thượng hoàng đế. Thượng hoàng khi còn ít tuổi thích chuyện tà dâm đều do Trần Thủ Độ bày vẽ cho cả, đến khi lớn lên do thiên tính thông minh lại được dạy dỗ cẩn thận, bỏ tật xấu trở nên mộ đạo, nghiên cứu điển cố, kinh thư, làm ra sách Khoá hư lục, lại thích cảnh lâm tuyền, coi chuyện sống chết chẳng có gì đáng kể, tư tưởng hướng về đạo Phật nhưng khoáng đạt hơn nhiều, khi ấy bỏ ngôi báu như trút cái giầy cũ mà thôi. Sau này thượng hoàng thường vui thú tiêu dao khi thì Quỳnh Lâm, lúc tới Hoa Yên, lấy mây núi làm nhà, cỏ cây làm bạn lại thường đàm đạo với các bậc cao sĩ trong thiên hạ, được mọi người vô cùng tôn kính.

Thiên Cảm phu nhân được lập làm hoàng hậu. Hoàng hậu tính tình khoan hoà đại độ, tư chất thông minh, rất sùng kính tam bảo, một hôm giữa ban ngày, đứng tựa lan can nhìn ra vườn sau ngắm đôi chim khuyên trên cành ngọc lan, bỗng thấy phật Quan Âm bồ tát dắt hai đứa bé. Một đứa như tạc bằng vàng, toả ánh hào quang lấp lánh. Một đứa thân hình rắn chắc tựa đúc bằng thép quý. Cả hai cùng khôi ngô đẹp đẽ. Hoàng hậu chắp tay bái chào Quan Âm. Bồ tát nói:

– Ta đem Kim Tiên đồng tử cho hoàng hậu đây.

Nói rồi đẩy đứa bé màu vàng vào lòng hoàng hậu, dắt đứa kia về phía dinh quan ngự sử họ Lê. Cung nhân thấy hoàng hậu đứng yên một cách lạ thường mới lay gọi. Hoàng hậu giật mình tỉnh lại, biết là vừa trải qua giấc mơ lạ. Từ bữa ấy hoàng hậu mang thai.

Công chúa Chiêu Thánh ở nhà họ Lê, suốt ngày khóc than sầu muộn, nghĩ rằng thế nào cũng bị hành hạ giày vò nhưng Lê Tần tuyệt nhiên không có cử chỉ nào gây khó cho nàng. Ngay đêm tân  hôn, Tần cũng không chạm tới công chúa, trước sau một niềm quý trọng không dám phạm, lại sai gia nhân hầu hạ chu đáo tỉ mỉ không để thiếu thứ gì. Mọi việc ăn uống có A Nhi lo toan vẫn như khi ở chùa Bảo Quang. Ngày ngày Lê Tần vào chầu hoàng thượng về lại đến thăm hỏi an ủi. ít ngày sau Chiêu Thánh nhận ra họ Lê cũng là đấng nam nhi quân tử, có ý thương nên không còn sầu khổ như trước nữa. Một hôm Lê Tần từ trong cung về bảo công chúa rằng:

– Nay người Thát đã đại bại nhưng họ cậy thế nước lớn chèn ép vua ta, đòi tăng lễ vật cống tiến hằng năm, tham lam vô hạn. Triều đình cử tôi cùng Chu Bác Lãm sang Vân Nam thương lượng với họ, chỉ ít ngày nữa lên đường. Trong khi tôi đi vắng, công chúa nên giữ gìn sức khoẻ. Đời này kiếp này xin hết lòng phụng sự công chúa. Mong công chúa chớ lo phiền.

Chiêu Thánh nói:

– Tôi đã tuân mệnh hoàng thượng mà về với chàng, là vợ chàng rồi, là người nhà họ Lê rồi. Chàng cũng không nên câu nệ làm gì nữa.

Từ hôm ấy hai người mới có sự ái ân chồng vợ. Chính hôm trong cung xảy ra giấc mộng của hoàng hậu, Chiêu Thánh cũng mơ thấy phật Quan Âm dắt đứa bé đến bảo:

– Cương Thiết tiên đồng của công chúa đây.

Nói xong đặt đứa bé vào vòng tay Chiêu Thánh. Chiêu thánh tỉnh dậy khắp phòng thoang thoảng hương thơm, liền cùng thị nữ ra chùa thắp hương lễ phật. Hôm Lê Tần lên đường, Chiêu Thánh báo cho chàng biết nàng đã mang thai. Lê Tần ra đi trong lòng sướng vui không giấy mực nào tả xiết.

Mùa Đông năm ấy, ngày mười một tháng mười một hoàng hậu Thiên Cảm sinh hoàng trưởng tử, đặt tên là Khâm. Hoàng tử do tinh anh thánh thần sinh ra, thuần tuý đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung cùng cho là lạ đều gọi là Kim Tiên đồng tử. ít ngày sau, bên phủ quan ngự sử, Chiêu Thánh cũng sinh trưởng nam. Đứa bé mới sinh đã vạm vỡ khôi ngô đường đường là một trang tuấn kiệt, giống hệt đứa bé Chiêu Thánh nhìn thấy trong mơ. Lê Tần đặt tên con là Bình Trọng.

Không biết bao nhiêu trai tráng Đại Việt  đã bỏ mình vì nước, trong đó có rất nhiều con em những người dân ở Hải ấp. Hoàng thượng đã ban chỉ dụ cấp cho mỗi binh lính chết trận một đạo sắc phong dũng binh cùng tấm hoành phi với ba chữ đại tử vị quốc sơn son thếp vàng để người thân khói hương thờ phụng, lại cấp cho cha mẹ những người lính ấy mỗi người một suất bổng hàng tháng, hưởng đến trọn đời, con cái được nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Những vợ lính chết trận, nếu không tái giá, được cấp bổng như cha mẹ chồng để lo phần hương hoả.

Từ lúc ở đình về, bà Tô như người điên loạn, bà khóc con. Bà khóc cái thằng Tô Đại Cơ mất dạy của bà. Cái thằng bố phải tức đến chết vì không thể nào nói được. Cái thằng chỉ biết có uống rượu cùng ghẹo gái, ai ngờ đâu lại có hành động anh hùng đến vậy. Người ta bảo rằng thập vận binh số mười lăm chở quân lương bất ngờ bị lính Thát xông ra đánh cướp ở bãi sông, mười anh em quyết đánh trả bọn giặc, chín người kia lần lượt tử thương chỉ còn một mình Tô Đại Cơ chống sào đẩy thuyền  ra xa bờ. Bọn Thát bắn theo như mưa. Trên người Cơ trúng mấy mũi tên. Biết mình không thể sống, chàng lấy gươm chọc thủng thuyền, dìm lương thực xuống sông để quân Thát không cướp mất. Khi quan quân đánh lui toán quân Thát, không ai tìm thấy xác Tô Đại Cơ đâu.

– Ôi con ơi! Con vì nước vì dân mà chết. Từ nay mẹ biết sống thế nào đây?

Linh Từ  quốc mẫu về quê dưỡng bệnh, sang thăm an ủi.

– Thôi chị ơi! Bây giờ dẫu có khóc than vật vã cũng không thể làm người đã chết sống lại được, mà chỉ tổn hao sức khoẻ. Cháu nó đã vì nước vì dân mà hiến thân mình, cũng nên lấy đó làm điều vinh hạnh. Nhà vua, triều đình cùng muôn dân bách tính đâu có quên công ơn ấy.

– ới cô ơi! Ai cũng biết là như vậy. Nó sống chỉ là thằng ăn tàn phá hại. Nó chết, tôi còn có phận  nhờ, còn được mát mặt, nhưng đẻ con ra ai lại mong con chết để mà hưởng cái sự hiển vinh bổng lộc bao giờ.

Cả Hải ấp ai cũng bảo.

– Cái thằng Tô Đại Cơ ở nhà hư thế, mới vào lính rèn dũa được mấy ngày đã trở thành người can trường đến vậy. Thế mới biết ngọc bất trác bất thành khí. Bây giờ nói đến nó ai chả thương.

– Chết vì nước như thế cũng đáng là cái chết.

 

Chị tư Phúc không còn có thể khóc thêm được nữa. Sau cái buổi tối anh cả Thìn báo tin anh tư Phúc đã nằm lại ở chiến trường Bình Lệ, chị như kẻ rơi xuống vực sâu không đáy, vùng vẫy gào khóc nhưng không làm sao thoát ra khỏi cảm giác chơi vơi, hụt hẫng. Hai đứa con còn bé, chúng chưa ý thức được cái điều quan trọng đang xảy ra với gia đình chúng, chỉ lờ mờ hiểu rằng từ nay bố chúng không về và thấy mẹ khóc gào, thằng anh dắt thằng em lùi lũi tìm chỗ ngồi yên. ít ngày sau vị lý tể đến đưa giấy của triều đình báo việc anh Tư Phúc tử trận và cho người treo lên gian chính giữa nhà bức hoành phi có ba chữ đại tử vị quốc cùng mấy quan tiền tỉnh bách do nhà nước cấp. Thôi chẳng phải nói chị tư Phúc vật mình khóc than thảm thiết thế nào nhưng dù nỗi đau buồn có lớn lao đến đâu cũng không thể giết chết được vẻ đẹp căng thừa sức sống của người đàn bà chưa vượt qua tuổi hăm nhăm. Điều đó làm cho lý tể Vũ Tình thấy lúng túng, lúc lúc lại đưa mắt nhìn trộm bộ ngực phồng đẫy của nàng goá phụ rung lên theo tiếng nấc nghẹn ngào. Trong đầu óc giầu sức tưởng tượng của Vũ Tình hiện ra toàn những trò tục tĩu. Nhưng ngày ấy nền văn minh nhân loại chưa “chế tạo” được nhiều kiểu tình ái như dăm bảy thế kỉ sau này mà “kĩ thuật” hôn nhau cũng mới chỉ truyền tới tầng lớp quan trên của đất Đại Việt nên dù có thèm thuồng đến đâu, Vũ Tình cũng chỉ quanh quẩn trong ý nghĩ muốn chị tư Phúc sinh cho mình một đứa con trai.

Bên nhà bà cụ Hải vẫn im ắng, kể cả khi lý tể Vũ Tình đến báo tin con bà tử trận. Bà cụ không khóc, bà ngồi im, một sự im lặng đanh rắn như được vón kết bằng mọi nỗi khổ đau trên thế gian dồn lại. Cô con gái bà thắp mấy nén nhang cắm lên ban thờ, khấn vái người anh trai, hai dòng nước mắt lăn dài trên má. Cô bé khóc tức tưởi không bật lên thành tiếng.

 

Trời nắng như lửa cháy những người lính bị thương tản vào các gốc cây đợi  gọi tên  mình  đến  nhận  tấm thẻ thương tích. Ai có thẻ thương tích khi về quê được miễn lao dịch và được cấp một khoản tiền hàng tháng. Đám lính làng Cao Duệ có mấy người như Nguyễn Văn Điền, Vũ Tuấn đã lĩnh được thẻ. Người ta gọi đến Đoàn Sĩ Hiệp. Viên giám binh hỏi:

– Anh bị thương ở đâu?

Sĩ Hiệp trả lời.

– Tôi bị đập một truỳ vào lưng rơi từ gò cao xuống, từ ấy như người bị ép ngang ngực, thỉnh thoảng ho ra máu chứ không có vết thương nào cả.

Viên thư lại nói:

– Thế này làm sao mà cấp thẻ cho anh được? Thẻ thương tích là phải có thương tích rõ ràng chứ. Ai ép anh ở ngực thì ai biết cái sức ép ấy nó thế nào. Quân dược hiệu uý, ý ngài thế nào?

Quân dược hiệu uý Phạm Hữu nói:

– Để tôi khám cho cậu ấy xem đã.

Nói xong ông bắt mạch khám cho Sĩ Hiệp, nói:

– Anh này bị nội thương chưa khỏi, rõ ràng bị đánh rất mạnh, có thể cấp thẻ thương tích được.

Viên thư lại viết tên Sĩ Hiệp vào tấm thẻ xương. Vị giám binh cầm tờ thân sử của Sĩ Hiệp lên xem, cười nói:

– A! Anh này là người cùng làng với quân dược hiệu uý đây mà. Có phải vì tình thân thuộc mà quân dược hiệu uý nói như vậy không?

Phạm Hữu nói:

– Tôi quả thực không biết anh ta, chỉ đúng hiện tình mà làm thôi.

Viên giám binh nói:

– Ông nói lạ. Người cùng làng mà không biết nhau được ư?

Phạm Hữu nói:

– Tôi đi khỏi làng đã hơn ba mươi năm nay, năm chừng mười họa mới về, làm sao biết được những người mới hai mươi tuổi?

– A! Ông dám bẻ lại tôi à. Bay đâu! Đuổi tên lính này ra ngoài. Quân dược hiệu uý, ông nên dâng lá đơn mà về an dưỡng tuổi già được rồi đấy.

Phạm Hữu đứng lên chắp tay nói:

– Cám ơn ngài! Đó là điều tôi vẫn mong mỏi từ lâu.

Nói xong, Phạm Hữu đứng dậy đi ra. Viên giám binh bảo viên phó hiệu uý quân dược:

– Hắn đi rồi! Từ nay ông không phải dè chừng ai nữa cứ tuỳ ý mà làm, miễn sao chúng ta cùng có lợi là được.

– Tôi sợ ông ta bẩm lên cấp trên, chúng ta khó mà thoát tội.

– Ông lo xa quá làm chi. Tôi chỉ việc cho hắn mấy chữ tư vị cá nhân, coi thường vương pháp, báo man thương tích cho người thân thuộc, dẫu hắn có muốn yên thân về quê cũng không được nói chi đến chuyện làm hại ai.

– Nhưng ông ta là người có công cứu chữa nhiều tướng sĩ, lại rất liêm chính từ trước tới nay, dễ gì mà hại được.

– Ông thật quá khờ dại. Đấy chính là tội của hắn chứ đâu phải là công. Công lao ấy, tư chất ấy có khác nào cái gai trước mắt bao nhiêu người kể cả chánh ty quân dược. Những ai có tư túi ít nhiều đều ghét hắn. Ta chỉ việc hô lên một tiếng khối kẻ làm theo.

– Như thế chẳng hoá ra loạn lắm sao?

Viên giám binh cười hề hề, nói:

– Chứ sao nữa. Hết giặc ngoại bang mới bắt đầu loạn!

 

Đây nói chuyện Nguyễn Bằng giả vờ buôn bán ở thành Thiện Xiển bên Đại Lý đã hơn ba năm, mọi tin tức thu lượm được đều gửi theo mật tuyến về cho hầu tướng Vương Lâm. Hôm ấy trời rét, tuýêt rơi nhiều nhưng vì là tháng cuối năm nên cửa hàng vẫn mở. Khách mua hàng ra vào tấp nập. Đâu đâu cũng nói chuyện chiến sự ở ích châu, ở Ngạc châu và ở Đại Việt. Nhiều kẻ nói rằng thống tướng Cốt Đãi Ngột Lang đánh tan mấy đạo quân Đại Việt, sắp bắt được vua Đại Việt rồi. Lại có người bảo thống tướng bị thua mấy trận liền, hết cả quân lương mà vẫn chưa đến được thành Đại La. Rất nhiều dân phu bị bắt đi phục dịch quân đội quay về nói:

– Chưa biết được thua thế nào nhưng đường sang An Nam khó khăn lắm. Tất cả dân binh chúng tôi không theo kịp được quân đội, đều tụt lại phía sau. Nghe nói phía trước đang giao tranh dữ dội. Quân ta thiệt hại cũng nhiều.

Chiều hôm ấy có người lính truyền tin đưa đến cho Nguyễn Bằng bức thư triệu hồi. Nguyễn Bằng bàn giao công việc cho người ở lại, theo anh lính mật tuyến trở về, đi đến ải Quy Hoá gặp quân của Hà Bổng đang truy đuổi tàn quân Mông Thát. Nguyễn Bằng liền nhập vào đội quân của Hà Bổng cùng đánh giặc cho đến khi bọn Cốt Đãi Ngột Lang chạy hết về bên kia biên giới. Xong việc, Hà Bổng cho người đưa Nguyễn Bằng về đến thành Đại La. Nguyễn Bằng đến phủ họ Vương mới hay tin tướng Vương Lâm đã tử trận, thành ra không biết liên hệ với ai, đành đến binh trạm báo việc mình trở về. ở binh trạm người ta yêu cầu Nguyễn Bằng trình bức thư của Vương Lâm nhưng bức thư đã thất lạc trong khi cùng Hà Bổng truy đuổi quân Thát. Viên đô uý ở binh trạm nói:

– Như vậy là chưa có lệnh của thượng cấp ông đã bỏ vị trí thừa hành công vụ. Tội ấy chẳng nhỏ chút nào. Lính đâu! Giam người này vào nhà lao chờ điều tra rõ đã.

Thế là Nguyễn Bằng bị tống vào thiên lao, chẳng biết kêu với ai.

 

Mùa thu tháng bảy, ngày rằm, dân Đại La cúng cháo thí cầu siêu cho những oan hồn. Các gia đình có người nhà chết trận đốt vàng mã mong cho người cõi âm có được cuộc sống đủ đầy. Bà cụ Hải chia lắm giấy tiền ra làm hai, phần ít đốt trước, phần nhiều đốt sau. Bà vừa đốt vừa khấn. Những tàn tro theo gió bay tản mát như vãi bạc, phân phát cho các cô hồn. Cô con gái hỏi mẹ:

– Sao bu không đốt luôn một lượt lại chia ra làm gì?

– Dương sao âm vậy con ạ. Muốn gửi được tiền vàng quần áo cho anh mày phải đốt cúng các quan trước đã. Đi làm việc gì không có tiền biếu các quan liệu có được không?

Hôm sau, mẹ con bà cụ Hải cùng chị Tư Phúc theo anh cả Thìn dẫn đi Bình Lệ tìm mộ chồng con. Hai đứa trẻ nhà chị tư Phúc gửi cả sang cho chị cả Thìn trông. Bốn người ra đến đầu ô, lý tể Vũ Tình chạy theo gọi bảo:

– Bà với cô Phúc đi Bình Lệ sao không đợi tôi. Khổ! Dù sao các chú ấy cũng là người phường này. Tôi là lý tể phải để tôi có trách nhiệm lo liệu với chứ. Đây! Tôi cũng đem theo  cơm  nắm, thức ăn, gạo nước  cùng đi với  mọi người đây. Có lẽ cũng phải ba bốn ngày mới tới nơi được.

Bà cụ Hải bảo:

– Gớm! Hôm nay thầy lý tốt quá nhỉ, giá mọi việc trong phường phố thầy lý đều chu đáo thế này thì dân cũng được nhờ. Nhưng thôi, thày lý cứ về không nhỡ ai muốn mua lợn con nuôi lại không có người đóng triện. Mỗi con triện thu hai chinh, lại còn bao nhiêu thứ khác nữa. Thày lý đi với chúng tôi, mỗi ngày thất thu đến hào bạc chứ chả chơi. Bà con tôi đã có anh Thìn đây đưa đi là được rồi.

Vũ Tình nói:

– Chết! Bà dạy thế! Con đã đi với mọi người đâu có quản gì hơn thiệt, cô Phúc nhỉ?

Chị tư Phúc không trả lời. Vũ Tình quay sang anh cả Thìn, nói tiếp:

– à chú Thìn này! Mấy hôm nữa về mang giấy sang nhà, tôi đóng triện cho.

Anh cả Thìn nói:

– Cám ơn thày lý nhưng những hào rưỡi tiền triện, nhà tôi chưa kiếm đủ đâu.

Bà cụ Hải bảo:

– Chết! Sao bảo mỗi con triện triều đình qui định chỉ thu có năm đồng cắc, thu đến hai chinh là quá lắm rồi. Nhà anh làm gì mà mất những hào rưỡi?

Cả Thìn nói:

– Dạ nhà con định xin cái giấy mở cửa hàng bán giầy guốc ạ, nhưng thầy lý đây nhất định bắt nộp haò rưỡi mới đóng dấu cho.

Cụ Hải nói:

– Thảo nào cô lý sắm toàn váy đẹp.

Vũ Tình cười làm lành, nói:

– ấy cũng là luật lệ nhà nước cả, nhưng thôi hôm nào về, chú cứ sang tôi triện cho không phải tiền nong gì cả.

Nói xong câu ấy, Vũ Tình đánh mắt nhìn chị tư Phúc. Bà cụ Hải cười bảo:

– Thế hoá ra luật lệ nhà nước ở trong tay, các thày còn kiếm bằng mấy những đứa đi buôn lậu rượu ngoại ấy nhỉ!

Vũ Tình đánh trống lảng:

– Thôi! Bà con mình đi nhanh kẻo nhỡ đò.

 

Nguyễn Bằng  từ  hôm  bị  giam, trong lòng buồn  bực, nghĩ mình tận trung, không làm gì nên tội mà phải giam cầm, mới đưa ít bạc lẻ cho người lính coi ngục nhờ mua chút rượu về cùng uống. Cũng may được anh lính coi ngục mới vào nghề nên hiền lành tử tế, biết Nguyễn Bằng là người đàng hoàng có học thì coi trọng. Nguyễn Bằng xin giấy mực viết bức thư cho Phạm Hữu. Phạm Hữu biết chuyện liền đến nhà ngục đút tiền cho lính canh để vào thăm. Hai người ôm nhau khóc, kể lể sự tình. Nguyễn Bằng nói:

– Anh em mình hết lòng vì nước từ lúc tóc còn xanh, luôn tự nhủ phải lo tròn phận sự, đã hơn ba mươi năm, tuổi ngoại ngũ tuần, tóc bạc trắng cả, ngờ đâu bây giờ đều mắc vào vòng oan nghiệt thế này mà chẳng biết kêu ai!

Phạm Hữu bảo:

– Thôi! Chú cứ yên tâm. Tôi sẽ tìm mọi cách cứu chú ra rồi ta cùng về quê mà di dưỡng tuổi già.

Phạm Hữu về bán đồ đạc trong nhà đem tiền bạc đến đút cho viên đô úy ở binh trạm xin cho Nguyễn Bằng ra. Viên đô uý nói:

– Cũng may mà tôi chưa đưa lên thượng cấp. Ông cứ về đi, ngày Canh Dần đến mà đón ông ấy.

Phạm Hữu nghe nói vậy khấp khởi mừng, đến ngày Canh Dần tới cổng nhà lao chầu chực sớm, không ngờ mãi lúc mặt trời đứng bóng, nắng như thiêu như đốt vẫn chưa thấy Nguyễn Bằng được tha ra. Bọn lính gác ngục đã thay phiên ra ngoài ăn cơm trưa. Phạm Hữu đến gần một người hỏi:

– Chú Lính ơi! Làm ơn cho tôi hỏi thăm ông Nguyễn Bằng đã được ra chưa?

Người ngục tốt mặt lạnh như thoi bạc, nói:

– Ai được tha hôm nay đã tha hết rồi còn gì.

– Tôi ở đây từ sáng sớm đã thấy ai ra đâu?

– Thế thì cũng sắp ra đấy.

Phạm Hữu vừa đói vừa khát nhưng không dám đi ăn uống gì vì sợ Nguyễn Bằng ra lại không gặp nhau, đành đứng chờ đến khi mặt trời xuống sát luỹ tre. Năm sáu thân nhân những kẻ có “tội!” hôm nay được tha cũng đứng chầu chực nhưng chẳng ai đón được người nhà. Quá đói khát mệt mỏi, Phạm Hữu đành ra một ngôi quán gần đấy uống nước, ăn bánh. Bà chủ quán hỏi:

– Ông đi đón người nhà trong lao hay sao?

– Vâng! Tôi đi đón suốt từ sáng đến giờ vẫn chưa thấy đâu.

– Trời ơi! Ông cứ đứng đấy mà đón thì phải đến cuối giờ Hợi mới được tha.

Phạm Hữu ngạc nhiên hỏi:

– Sao vậy bà? Trong giấy nói rõ ràng tha vào ngày Canh Dần mà?

– Thì giờ Hợi cũng còn là ngày Canh Dần chứ đã sang ngày Tân Mão đâu. Ông muốn người nhà ra sớm phải đút cho lính gác cổng kia một ít, nếu không, thuê tôi làm cho.

Phạm Hữu cám ơn người chủ quán, rồi đi về phía cổng nhà lao. Người chủ quán dặn với:

– Này ông! Nó có bảo xin chai rượu đừng có thực thà mua rượu vào mà hỏng việc đấy

Phạm Hữu hiểu ý, bước đi. Anh lính gác cổng còn trẻ, tươi cười hỏi:

– Bác có chuyện gì?

Phạm Hữu nói:

– Này chú lính. Tớ cũng là lính có việc này chú mày giúp cho được không? Tớ có ông em bị giam trong đó, hôm nay được tha mà sao giờ chưa thấy ra?

Anh lính gác cổng cười nói:

– Việc này nó tế nhị lắm bác ạ

– Lính tráng cả với nhau; cái tế nhị lắm ấy nó thế nào cứ nói cho tớ biết.

– Bác cho chai rượu để cháu bảo các anh ấy kí giấy cho là ra ngay không đợi đến đêm.

Phạm Hữu đã được bà chủ quán mách nước mới đưa cho anh lính bốn đồng tiền hào, bảo:

– Tớ không biết các vị uống rượu gì, trăm sự nhờ cậu giúp cho.

Tuy số tiền có thể mua được năm chai rượu ngon cùng với đồ nhắm nhưng người lính vẫn có vẻ ngần ngừ. Phạm Hữu hỏi:

– Như thế liệu đã đủ chưa?

Anh lính cười, nói:

– Kể ra hơi ít.

Phạm Hữu dúi thêm cho một hào nữa, hỏi:

– Thế đã được chưa?

Anh lính tươi cười nói:

– Tốt quá rồi. Bác cứ ra ngoài ấy đứng đợi, một tí là ra ngay đấy.

Phạm Hữu ra gốc cây gần đấy đứng đợi, chừng nhai giập miếng trầu, thấy người lính gác cổng gọi:

– Này người nhà bác ra rồi đây này.

Mấy người đi đón thân nhân ồn lên hỏi:

– Ơ! Sao người nhà chúng tôi chẳng thấy đâu cả nhỉ?

– Sao bây giờ mới có một người ra là thế nào?

– Quái! Sao đến tối mới tha người ta thì làm sao mà lần mò về nhà được.

Anh lính gác bảo mọi người:

– Tất cả đứng ra ngoài kia đợi, biết điều sẽ được ra sớm không đến đêm, nghe chửa.

Phạm Hữu nói nhỏ với đám người nhà phạm nhân câu gì đó. Tất cả chạy dồn lại phía anh lính gác. Trên đường về Phạm Hữu hỏi Nguyễn Bằng:

– Tôi đã xin nghỉ việc, định ngày mai đem cả nhà về quê, chú có về một thể không?

Nguyễn Bằng nói:

– Em muốn về lắm nhưng nghĩ cũng tức. Mình công khó công nhọc bao nhiêu năm chả lẽ bây giờ về tay trắng. Có lẽ em phải tìm đến phủ thái sư.

– Thôi chú ơi! Thái sư bây giờ già về Thiên Trường nghỉ rồi. Chú tìm đến thì thái sư biết chú là ai. Có khi còn mang vạ. Tôi cũng có hơn gì đâu, suýt nữa bị nó hại cho mất mạng ấy chứ. Qua cơn binh lửa được nguyên tuyền về với vợ con là may rồi.

Nguyễn Bằng buột mồm chửi:

– Mẹ cha những thằng quan đểu, không biết lúc chống giặc chúng ở đâu mà bây giờ chui ra lắm thế. Thôi về quách nhà quê vậy.

Phạm Hữu cười bảo.

– Này! Nhưng đừng tưởng về quê mà không có quan đểu đâu nhé.

Tháng bảy mưa ngâu, từng đợt mưa sùi sụt lê thê như nỗi buồn chia li, tưởng không bao giờ dứt. Người ta bảo đó là nước mắt của đôi vợ chồng phải xa nhau, mỗi năm chỉ được gặp một lần. Đôi vợ chồng ấy thật là bất hạnh, nhưng dù sao họ cũng còn có hạn có kì để mà hẹn gặp. Còn những người vợ có chồng nằm lại nơi này…

Trời về chiều mưa tầm tã, từng đoàn người đi tìm mộ thân nhân ngày càng kéo đến đông, vợ mọn con thơ, ông già bà lão đội mưa lội lóp bóp trong bùn, tiếng than khóc kêu gào ướt nhoè trong hơi gió, vô cùng thảm đạm thê lương. Chị tư Phúc tìm thấy mộ chồng ngay từ hôm vừa đến, khóc lăn khóc lộn làm lý tể Vũ Tình vất vả lắm mới đỡ cho đứng lên được. Sự tận tâm của Vũ Tình với chị tư Phúc làm mẹ con bà cụ Hải và anh cả Thìn yên lòng đi tìm mộ chú Sơn. Mấy nghìn ngôi mộ lính được chia làm hai khu vực. Một khu có ghi tên tuổi quê quán từng người, khu kia là những ngôi mộ vô danh. Tất cả các bia mộ đã được đọc kĩ càng, nhẩm đi nhẩm lại nhưng vẫn không tìm thấy mộ chú Sơn. Bà cụ Hải hỏi anh cả Thìn:

– Có còn ở đâu nữa không anh?

Cả Thìn trả lời:

– Sát bìa rừng đằng kia còn một khu nữa. Bà con mình lại đằng ấy xem sao.

Ba người đi lại phía bìa rừng. Vũ Tình vẫn đỡ cho tư Phúc khỏi lăn xuống đám nước bùn, trong khi nâng đỡ ấy thầy lý đã nhỡ tay đụng phải cái chỗ nhạy cảm nhất của người đàn bà. Không ngờ cái nhỡ tay được tính toán chu đáo và chờ đúng thời điểm ấy lại có tác dụng như một liều linh đơn thần dược. Chị tư Phúc không gào khóc nữa chỉ còn ấm ức trong cổ, nhẹ nhàng nép mình nhận sức nóng từ khuôn ngực thầy lý. Những nén hương trên mộ anh tư Phúc đã tắt hết, bột hương cũng rã ra trôi theo nước, trơ lại những cọng xương tăm run rẩy trong sự dập vùi thô bạo của gió mưa. Lý tể Vũ Tình vuốt mặt, mỉm cười, sau khuôn mặt bảnh bao dễ coi của y là bao nhiêu ý nghĩ bậy bạ đang đú đởn quay cuồng.

Anh cả thìn cùng mẹ con bà cụ Hải tìm hết các bia mộ bên bìa rừng nhưng cũng không có tấm nào đề tên chú Sơn. Cả Thìn bảo:

– Thế này nhất định chú Sơn nằm trong khu mộ vô danh kia rồi. Không thể nào tìm được nữa.

Ba bà con tần ngần đến trước khu mộ vô danh nhưng chỉ có bạt ngàn nấm đất. Không hi vọng tìm ra ngôi mộ của Sơn. Bà cụ Hải bảo cả Thìn và cô con gái che áo tơi lá, châm lên một bó hương lớn, bà cầm nắm hương nói:

– Sơn ơi! Mẹ không tìm thấy con nhưng tất cả các con nằm đây đều là con của mẹ. Tất cả các con đều là con của mẹ!

Nói xong, bà cụ cắm nắm hương nơi đầu gió, mưa ngớt dần, khói hương lan toả khắp khu mộ những người lính chiến vô danh. Dáng người mẹ cao vời giữa khoảng đồng không đầy gió mây vần vũ.

 

 

Con ngựa già gõ móng kéo chiếc xe trên mặt đường lầm bụi. Vầng kim ô xuống dần, hoàng hôn thu lại chút nắng vàng cuối cùng còn rơi rớt trên những ruộng mạ non. Không gian vắng lặng. Tít phía xa có bóng vài người nông phu cùng mấy chú mục đồng thong thả dắt trâu về làng, đôi ba cánh cò lấp lánh trên khoảng trời trong veo. Những chú dơi nhào lộn trên không như  nghệ nhân biểu diễn trò tạp kỹ.

Đã gần năm năm Nguyễn Bằng mới được trở về, ông say sưa ngắm nhìn phong cảnh quê hương, bỗng tiếng chuông vọng lại  từ  một ngôi chùa cổ phía xa làm Nguyễn Bằng dứt ra khỏi trạng thái nửa mơ nửa tỉnh, chàng nói:

– Bác Hữu ạ! Em chưa bao giờ thấy quê mình đẹp đến thế này. Hồi ở bên Đại Lý,

có những lúc nhớ nhà đến cồn cào gan ruột. Giờ gần về đến làng rồi cứ nghĩ như ngày còn trẻ chúng mình vẫn đi học qua cánh đồng này.

Phạm Hữu bảo:

– Chú thật là người đa cảm… Đường về làng không còn xa nhưng cũng chẳng ít ổ gà đâu. Đúng là ngôn ngữ của anh chàng tha hương, ai đi xa trở về mà chả yêu qúi gốc vối nhà mình.

Nguyễn Bằng nói:

– Vẫn biết là thế nhưng nghĩ đến lúc đặt chân trên mảnh vườn nhà sao em thấy nao nao trong lòng thế nào ấy.

Chử thị vợ Phạm Hữu bảo:

– Cũng phải coi chừng khối bọ nẹt đấy, nó lại chả đốt cho xưng mặt lên ấy.

Nguyễn Bằng nói:

– Sâu bọ ở đâu chả có hả chị, cứ sợ nó làm sao mà sống được.

Phạm Hữu cười lớn, khen:

– Khá lắm! Thế  mới đáng  là trang nam tử. Hết giặc rồi ta về dọn sạch vườn nhà, có lẽ đâu lại sợ loài sâu bọ.

Chử thị thấy chồng hào hứng quá, cũng cười bảo:

– Thôi! Lạy các ngài. Các ngài cứ liệu mà sống yên cho chị em tôi nhờ, bắt sâu bắt bọ ở đâu chẳng thấy nó lại cho mỗi thày một miếng có mà kêu giời cũng xa.

Mải vui chuyện, giời đã sập tối. Người đánh xe cho ngựa ngoặt vào cổng làng. Bỗng phía trước có người thét:

– Nó đây rồi! Bắt lấy nó.

Theo tiếng thét, mấy người tuần đinh cầm mồi lửa, tay thước xồng xộc kéo đến. Con ngựa già sợ hãi chùn lại. Nguyễn Bằng, Phạm Hữu cùng nhảy xuống xe. Tiếng la hét dội lên càng dữ dằn hơn trước, có cả tiếng xích sắt loảng xoảng. Một người nói:

– Xích cổ nó lại cho ông chứ chúng mày sợ à?

Thật là:

Vừa qua nạn nước cơn binh lửa

Lại thấy quê hương cảnh xích xiềng

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem tráng đinh đang đuổi người nào.

Đ.T

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder