
Đan Thành
Cuộc tình éo le trong vườn Yên Hoa
Thú chơi phiêu bồng bên hồ Lục Thuỷ..
Đan Thành
Cuộc tình éo le trong vườn Yên Hoa
Thú chơi phiêu bồng bên hồ Lục Thuỷ
Đang nói Đặng Ma La xử án cứu được Nguyễn Bằng ra thì đã gần chết. Vợ con Nguyễn Bằng kêu khóc om sòm. Phạm Hữu bảo:
– Mẹ con cô hãy ra ngoài kia để tôi còn chữa cho chú ấy.
Phạm Hữu nói xong, cầm tay Nguyễn Bằng, thấy mạch trầm hoãn không có lực, người lạnh, thở gấp như hụt hơi, nói:
– Khổ thân chú ấy. Bị bỏ đói đây mà. Chú lính cho tôi ít nước nóng rồi chạy đi mua hộ tí cháo, bảo họ múc cho chỗ loãng loãng thôi.
Người lính vội mang nước đến. Phạm Hữu cho Nguyễn Bằng uống mấy giọt thuốc hồi dương cứu nghịch làm người ấm lên, lại bón cho mấy thìa cháo. Lát sau Nguyễn Bằng tỉnh lại, ai nấy đều mừng rỡ. Nguyễn Bằng thấy Phạm Hữu cùng vợ con quây quần cả bên mình, mừng quá nói:
– Tôi có chết cũng đã gặp được mọi người thế này là…
Hai hàng nước mắt ứa ra, không nói hết được câu. Những người xung quanh cũng rưng rưng cảm động. Phạm Hữu bảo:
– Tôi đến đây, chú muốn chết cũng đâu có được. Bọn quan huyện, quan châu bị bắt cả rồi.
Đặng Ma La đợi mấy ngày cho Nguyễn Bằng khoẻ hẳn mới đưa về kinh yết kiến hoàng thượng. Thánh tông khen Nguyễn Bằng là người dũng nghĩa, xét công lao phong cho làm tri châu châu Hạ Hồng, thay quan chi châu cũ Hà Phương. Nguyễn Bằng lạy tạ nhưng không nhận chức, chỉ xin được về quê an dưỡng tuổi già. Thánh Tông ban cho năm trăm lạng bạc, hai tấm lụa, chuẩn cho về quê sum họp gia đình.
*
Xin trở lại với vị tướng trẻ tài ba mà si tình Trần Khánh Dư cùng nàng công chúa xinh đẹp yêu kiều Thiên Thụy. Từ hôm Khánh Dư gặp lại Thiên Thụy bên bờ Tây hồ, chàng như được uống một liều thuốc cải tử hoàn sinh, xua tan mọi nỗi ưu phiền cùng bệnh tật, bởi vì công chúa đã hẹn đúng tối hôm rằm chàng đến vườn Yên Hoa trong khu ngự uyển gặp nàng. Hôm nay chính là ngày hẹn. Từ lúc mặt trời còn cao, Khánh Dư đã ăn mặc rất chải chuốt, đi ra đi vào chỉ mong sao xua được bóng ác vàng bay nhanh qua núi cho giời chóng tối.
Vườn Yên Hoa thuộc ngự hoa viên, có từ thời Lý Anh Tông. Lai lịch của nó gắn liền với thú ăn chơi của các vương hầu công tử cùng tao nhân mặc khách chốn kinh kỳ. Trong kinh thành Đại La có xóm Yên Hoa rất nhiều ca kỹ múa giỏi đàn hay lại biết ươm trồng nhiều giống kì hoa dị thảo hương thơm sắc thắm. Các vương tôn, công tử, quan lại thường lui tới nghắm hoa nghe nhạc, nhiều khi thâu đêm suốt sáng. Có người biết nhà vua hay chơi hoa mới xin về dâng lên. Nhà vua thích lắm, thưởng cho rất hậu, lại sai đem cây hoa lạ trồng trong vườn.Về sau người ta đua nhau tìm những loài cây quí dâng cho nhà vua. Tất cả các cây ấy đều được trồng trong khu vườn riêng, cử người chăm sóc cẩn thận, gọi là vườn Yên Hoa với ý là những cây ở đây đều được lấy giống từ xóm Yên Hoa. Đến thời Lý Cao Tông không những chỉ có các giống hoa lạ mà các loại cây hiếm có hình dáng đẹp ở khắp nơi cũng được mang về trồng. Nhà vua lại cho đào một chiếc hồ bán nguyệt rộng mười mẫu, xây thuỷ đình cực kì lộng lẫy. Chung quanh hồ trồng rất nhiều cây liễu, có đường lát gạch phương điều để người của hoàng gia đi dạo ngắm hoa. Đến đời Lý Huệ Tông, Trần Tự Khánh nắm giữ quyền bính cho xây một hòn giả sơn cao bảy trượng giữa hồ. Trong lòng giả sơn có nhiều hang động thông qua một đường ngầm nối liền với những hang động của dãy non bộ trên bờ. Khi Trần Thái Tông lên ngôi cho xây thêm năm ngôi hoa đình tượng trưng ngũ hành và đường đi lối lại liên kết thành hệ thống rất đẹp đẽ. Những cây được trồng từ thời nhà Lý đã thành cổ thụ, nhiều cây cao hơn mười trượng, cành lá sum suê toả bóng xuống một sân chơi lát gạch men xanh ngọc nhạt. Khu vườn luôn râm mát yên tĩnh, những chiều Hè nắng nóng hoặc đêm trăng thanh gió mát, các công chúa, hoàng tử thường đến đây chơi dạo vui đùa, khi chọi dế đá cầu, lúc kéo co đánh vật, hoặc giả chơi trò trốn tìm đuổi nhau rất vui vẻ.
Mới đầu giờ Dậu, Trần Khánh Dư đã tới hoa viên. Cả khu vườn vắng lặng vì giờ này trong hoàng cung đang là bữa ăn chiều. Khánh Dư đi dạo một mình, lúc lâu sau chàng ngồi xuống ghế đá ven hồ, ngắm trăng lên. Trăng rằm chưa tròn hẳn nhưng trong sáng, từ từ nâng chiếc khuôn vàng vào giữa màn xanh, toả ra một thứ ánh sáng mềm mại dịu dàng. Đội minh đăng quân đã thắp xong các dãy đèn trong khắp hoàng cung. Ngự uyển lung linh dưới ánh sáng của hàng trăm ngọn đèn nhiều màu. Khánh Dư có vẻ sốt ruột, chốc chốc lại nhìn về phía con đường từ ngự hoa viên dẫn vào hoàng cung mong kiếm tìm hình bóng giai nhân. Công chúa Thiên Thụy không đi lối ấy, nàng theo cửa nhỏ đi qua phía sau hòn giả sơn, chỉ có một thị nữ theo cùng. Khánh Dư ngoảng lại đã thấy người đẹp kề bên. Nàng đi giày thêu, áo lửng không tay màu mỡ gà dài gần tới gối bó gọn trong chiếc thắt lưng màu vàng kim tuyến, khuôn mặt rạng rỡ như bức tranh vẽ hình Lạc Thần gặp Hậu Nghệ. Nói sao hết nỗi vui sướng của Khánh Dư. Thiên Thụy hỏi:
– Chú Dư đợi Thiên Thụy đã lâu chưa?
– Gần một trăm năm rồi.
Thiên Thụy vừa đấm nhẹ vào lưng Khánh Dư vừa nũng nịu nói:
– Chú Dư chỉ nói đùa! Chú Dư chỉ nói đùa!
Khánh Dư định nắm lấy tay Thiên Thụy nhưng nàng đã bỏ chạy, nói:
– Đố chú Dư đuổi được Thiên Thụy.
– Đuổi được thì sao?
– Sao cũng được.
Khánh Dư đuổi theo. Thiên Thụy chạy vòng ra sau hòn giả sơn rồi chui tọt vào một cửa hang. Trong hang thắp những ngọn đèn màu rất nhỏ, chiếu ánh sáng mờ mờ lên các vách đá lóng lánh như được gắn muôn ngàn viên ngọc dạ quang bé xíu, rất nhiều nhũ đá thiên hình vạn dạng ghép nối một cách khéo léo rủ xuống chẳng khác gì ở nơi tiên động. Phía trước thấp thoáng bóng Thiên Thụy đang chạy. Đến một ngách ít ánh đèn, nàng chạy chậm lại, bị Khánh Dư tóm được. Chàng ôm nàng trong vòng tay. Thiên Thụy đẩy ra, bảo:
– Đừng! Kìa! Nhỡ ai nhìn thấy.
– Làm gì có ai ở đây! Ta đợi cơ hội này đã lâu lắm rồi.
Nói xong, Khánh Dư hôn tới tấp lên mặt lên môi Thiên Thụy. Nàng yên lặng trong vòng tay chàng. Đôi trai gái như quên hết những gì có thể xảy ra ở xung quanh và trong cái khung cảnh mơ hồ huyền ảo như chuyện thần tiên, họ đã đưa nhau đến miền thần tiên nhất của những người tình. Từ đấy hai người thường hẹn nhau đến đây để được thoả thích làm chuyện mây mưa.
Quan tri châu Hà Phương bị điệu về kinh thành chờ xét xử. Khi dẫn tới nhà ngục, có người cháu làm cai ngục là Hà Bình trông thấy gọi nhưng Hà Phương không trả lời. Chiều hôm ấy, cai ngục Hà Bình đuổi hết lính ra, một mình vào thăm Hà Phương. Hà Bình hỏi:
– Chú không nhận ra cháu ư?
Hà Phương bảo:
– Không phải! Chỉ sợ có người làm khó dễ còn gặp nhau thường xuyên sao được. Bây giờ chú phạm tội bị giam ở đây, cháu có cách gì giúp chú không?
– Lần trước cũng có người mắc tội, họ nhờ quan chi hậu cục Đỗ Khắc Chung tâu xin với nhà vua thế nào đó nên được giảm án. Các quan ở bộ hình cũng có vẻ kiêng nể ông ấy lắm nhưng chắc phải mất rất nhiều tiền bạc.
– Tiền bạc thì không lo. Chú có thể chi đủ nhưng làm thế nào mà gặp được ngài chi hậu cục đây. Bây giờ từ châu huyện đến kinh kì chỗ nào cũng nhan nhản cò mồi, không khéo mất tiền mà chả được việc gì.
– Đúng đấy chú ạ. Có tiền mà không biết đường biết lối cũng không thể thành việc, có khi còn mang vạ thêm. Cháu có một người bạn là Hiếu Ngân làm ở dinh quan phiêu kị tướng quân Trần Khánh Dư. Ông Trần Khánh Dư được hoàng thượng quí mến, cũng hay đi lại với quan chi hậu cục Đỗ Khắc Chung. Để hết giờ làm việc cháu nhờ thử xem.
Hà Phương như người chết đuối vớ được cọc, bảo:
– Cũng may gặp được cháu ở đây; thôi thì trăm sự nhờ cháu. Chỗ này chú chỉ có ít bạc lẻ, cháu cầm đi mời người ta chén rượu. Tình hình thế nào mau cho chú biết để còn lo liệu.
Hết giờ làm việc, Hà Bình phi ngựa đến dinh quan phiêu kị tướng quân Trần Khánh Dư, may sao Hiếu Ngân cũng vừa lúc được nghỉ đang định về nhà. Hai người gặp nhau. Hà Bình bảo:
– Này! Có vụ làm ăn đấy. Ông giúp tôi một tay chứ?
Hiếu Ngân nói:
– Giúp thì giúp! Miễn là nặng tay vào. Vịt gầy hay béo?
– Gầy béo gì! Quan tri châu ở châu Hạ Hồng là chú họ tôi chứ ai.
– Chú họ chú ruột gì cũng phải có ăn mới làm được chứ, uống nước lã đi nói hộ à?
– Ai đã để ông uống nước lã. Ta đến tửu quán nào đó nói chuyện đi.
– Đến phường Yên Hoa hay ra hồ Lục Thuỷ.
– Xóm Yên Hoa hát toàn hành vân với lưu thuỷ chán bỏ mẹ. Ta ra hồ Lục Thuỷ, các kỹ nữ hát nhạc ngoại Hồi Kê, Đại Lý rồi cả nhạc Chiêm, nhạc Thiên Chúc nữa, miệng hát chân nhảy, rốn lúc lắc thế mới thích.
– Ôi giời! Bây giờ đâu phải hát nhạc ngoại nó mới phơi rốn ra. Ông thích thì không mặc gì đứng hát nhạc cổ nó cũng chiều. Nhiều đứa đầu óc tóc tai cắt cum cúm như đồ ăn cắp.
Hôm sau Hà Bình vào nói với Hà Phương:
– Bạn cháu nó nhận lời giúp cho rồi đấy. Nhưng qua cửa phiêu kị tướng quân không có lễ hậu thì không xong được.
Hà Phương liền viết một lá thư giao cho Hà Bình về nhà ở huyện Bàng Hà lấy vàng bạc để lo việc.
Buổi chiều, Trần Khánh Dư đang chải đầu, định tối đi gặp công chúa Thiên Thụy trong ngự hoa viên, nàng đã hẹn đợi chàng bên hồ bán nguyệt. Hiếu Ngân chạy vào báo:
– Trình tướng quân! Bạn của hạ chức đã đến rồi, đang đợi ở cổng sau.
Khánh Dư tươi cười nói:
– Tốt! Tốt. Ngươi bảo chúng đem cả vào đây. Để ý xem có ai nhìn ngó gì không đấy.
Hiếu Ngân đi ra, lát sau dẫn Hà Bình cùng một tên đầy tớ vác chiếc hòm nặng vào. Hà Bình quì xuống nói:
– Quan chi châu Hà Phương có chút lễ mọn dâng lên. Xin đại nhân che chở cho.
Khánh Dư bảo mở ra. Chiếc nắp hòm được nâng lên. Bên trong đầy ắp mấy chục thoi vàng ròng lấp lánh. Khánh Dư cười mỉm bảo:
– Ngươi cứ về đi, mọi việc để ta lo.
Tối hôm ấy Khánh Dư vào hoàng thành nhưng không đến gặp Thiên Thụy mà tìm gặp Đỗ Khắc Chung. Khắc Chung nể Khánh Dư nên nhận lời nói giúp. Khánh Dư đưa cho Khắc Chung một cái túi gấm, nói:
– Đây là lễ của quan tri phủ Hà Phương gửi biếu.
Khắc Chung mở ra thấy có hai thoi vàng, gật gù bảo:
– Cũng biết điều đấy. Lộc bất tận hưởng. Ông hãy nhận lấy một thoi.
Khánh Dư xua tay, nói:
– Không không! Người ta biếu ông. Còn tôi là chỗ đồng hương chỉ giúp vô tư thôi.
– Tướng quân chối từ thì tôi đâu dám nhận một mình.
– Có gì mà không dám? Ông cứ cho Dư này mấy chén rượu là được rồi.
Hai người cùng cười. Khánh Dư theo Khắc Chung đến kỹ viện Phúc Tình bên hồ Lục Thuỷ, chẳng còn nhớ gì đến lời hẹn hò với công chúa Thiên Thụy.
Quan tri châu Hà Phương vì được Đỗ Khắc Chung và Trần Khánh Dư nói đỡ nên thoát tội chết, chỉ bị giáng xuống làm huyện lệnh huyện Đông Triều. Các quan trong triều tuy không đồng tình với cách luận tội của bộ hình nhưng e dè thế lực của Khánh Dư và sợ Khắc Chung là cận thần của nhà vua, lại không có bằng chứng về việc ăn hối lộ của hai người ấy nên đành nhẫn nhịn.
Công chúa Thiên Thụy từ buổi Khánh Dư bỏ lỡ hẹn, buồn bã sầu khổ không biết chừng nào, bữa ấy mát trời, cùng thị nữ đến giảng võ đường xem luyện tập cho khuây khoả. Từ trên đài cao nhìn xuống thấy một thiếu niên tuổi chừng mười tám đôi mươi, tóc búi cao giắt một cây cài vàng, môi như son tô, mặt tựa phấn rắc muôn phần đẹp đẽ. Thiếu niên ấy mặc võ phục nhẹ, vai đeo cây cung màu mã não, túi tên buộc chặt sau lưng, tay cầm trường thương, cưỡi ngựa bạch câu phi như bay trên sân tập. Công chúa nghe một vị lão quan nói:
– Công Tôn Át cũng chẳng thể hơn.
Thiếu niên kia múa một bài thương. Ngọn thương bay vun vút vẽ thành những vòng sáng lấp lánh bao trước, chặn sau mười phần kín đáo. Bài võ vừa dứt, chàng hoành ngọn thương ngang lưng ngựa, phi một vòng quanh sân tập, rút cây cung mã não bắn liền ba phát đều trúng hồng tâm. Cả võ trường vỗ tay vang trời dậy đất. Thiếu niên ấy tiến đến trước tướng đài chào các vị lão quan. Một vị quan nói:
– Thật không hổ danh con nhà tướng.
Thiên Thụy hỏi vị quan vừa nói:
– Viên tướng ấy là ai vậy?
– Thưa công chúa! Người ấy là công tử Nghiễn, con trai cả của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, năm nay mới mười chín tuổi. Hai năm trước đã từng theo đi tuần biên giới, gặp bọn thảo khấu bên kia sang quấy nhiễu biên dân, công tử đã dẫn quân đánh tan chúng, bắt được nhiều tên vì thế dân miền biên mới được yên. Hôm nay công tử về kinh, các tướng mời ra cùng thao luyện.
Công chúa nghe nói vậy hài lòng lắm, khi ấy Quốc Nghiễn đã nhìn thấy nàng. Bốn mắt gặp nhau, Quốc Nghiễn ngây ra không nói được lời nào. Mọi người lại nghĩ là chàng say nắng! Lúc ở võ trường về, Quốc Nghiễn hỏi một lão gia tướng:
– Hôm nay ta thấy trên tướng đài có một vị công nương; chẳng hay lão có biết đó là ai không?
Người gia tướng ấy thưa:
– Tôi nghe nói hoàng thượng có người con gái lớn là công chúa Thiên Thụy rất xinh đẹp. Hẳn là người ấy.
Công tử Nghiễn ngay ngày hôm sau về Vạn Kiếp nói với cha xin hỏi công chúa Thiên Thụy cho mình. Trần Hưng Đạo cũng ưng ý nhưng lại nói:
– Ta cũng biết Thiên Thụy là cô gái xinh đẹp đoan trang, hiếm có trên đời. Có điều biết lấy ai mối manh bây giờ?
Công tử Nghiễn nói:
– Tĩnh Quốc đại vương là người được hoàng thượng rất quí trọng. Việc này phi chú ấy ra thì khó có ai kham nổi.
Hưng Đạo vương gật gù, nói:
– Con nói phải đó.
Hưng Đạo vương liền sai sắm sửa sính lễ, chọn ngày lành tháng tốt đến nhờ Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang vào cung hỏi công chúa Thiên Thuỵ cho công tử Nghiễn.
Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang về danh nghĩa là anh ruột của Trần Thánh Tông nhưng thực chất là con của công chúa Thuận Thiên nhà Lý với An Sinh vương Trần Liễu, là em cùng cha khác mẹ với Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông là người hiền lành, đức độ lại có lòng hiếu thuận nên được thượng hoàng Thái tông và nhà vua cùng anh em trong hoàng tộc rất quí trọng. Chuyện kể rằng: Mùa Đông năm Thiệu Long thứ mười một, Thánh Tông cùng Quốc Khang vui đùa trước mặt thượng hoàng. Quốc Khang múa điệu múa của người Hồ; thượng hoàng vui vẻ cởi áo đang mặc thưởng cho. Thánh Tông cũng múa điệu Hồ để xin chiếc áo ấy. Quốc Khang nói: “Cái quí nhất là ngôi hoàng đế, thần còn không tranh với chú hai. Nay đức chí tôn ban cho thần vật nhỏ mọn này mà chú hai cũng định cướp lấy chăng?”. Thượng hoàng cả cười nói: “Thế ra mày coi ngôi vua với cái áo xoàng này chẳng hơn kém gì nhau”. Thượng hoàng cho Khang chiếc áo ấy. Từ đó Thượng hoàng và nhà vua càng yêu quí Quốc Khang hơn. Tháng chín năm sau vua phong Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kị đô thượng tướng quân. Khi ấy Quốc Khang được Hưng Đạo vương nhờ việc thì vui vẻ nhận lời, vào nói với nhà vua. Nhà vua cũng ưng cho, hẹn đến mùa Đông tiến hành hôn lễ.
Công chúa Thiên Thụy từ hôm ở giáo trường về, không lúc nào không tơ tưởng đến công tử Nghiễn, tuy vậy cũng không sao quên được những cuộc ái ân với Trần Khánh Dư. Nàng vẫn mong được gặp lại chàng nhưng đến hơn một tháng Khánh Dư không trở lại. Sự mong ngóng đã trở thành hờn giận, nàng cho rằng Khánh Dư là kẻ vong tình, đã quên đứt mình rồi. Vả lại kinh thành bây giờ nhiều chỗ ăn chơi, biết đâu chàng đã gặp một tuyệt thế giai nhân mà quên tình cũ. Đến khi nghe tin công tử Nghiễn nhờ người tới hỏi và nhà vua cũng đồng ý thì Thiên Thụy mừng như mở cờ trong bụng. Lòng tự ái khiến nàng quyết trả thù Khánh Dư bằng cách cho người báo với chàng cái tin nàng sắp đi lấy chồng. Qủa nhiên nhận được cái tin quái ác ấy, Khánh Dư cuồng lên như bị ong đốt, quyết cướp lại người tình cho bằng được.
*
Thời cuộc thay đổi như trên bàn cờ. Quán rượu Phúc Tình phát triển mãi lên và nghiễm nhiên trở thành một kỹ viện có tiếng ở nơi đô hội về nhiều cách chơi tân kì, khiến các vị quan nhân, tướng tá mê mệt biết thế nào là chốn Bồng Lai ở nơi trần thế. Chủ quán tư Phúc có hai con đã lớn nhưng xem ra vẫn còn xuân sắc lắm. ả không biết đọc nhưng ông chủ Vũ Tình là người có ít nhiều chữ nghĩa lại có chức sắc trong phường phố. Các cung cách làm ăn là do ông chủ đọc sách Tàu, đem áp dụng theo lối kỹ viện Bắc quốc. Họ tuy không phải là vợ chồng nhưng hợp ý nhau lắm.
Mộng Điệp được bán về kỹ viện Phúc Tình đã năm ngày nhưng chưa được tiếp khách. Những kiến thức nghề nghiệp mợ Hồng dày công rèn luyện cho nàng không đáp ứng được yêu cầu của quan khách chốn đế đô. ở đây cái gì nàng cũng thấy bỡ ngỡ, từ quần áo, nhà cửa, đường đi lối lại, trông vào đâu cũng rực lên vẻ sang trọng của đất kinh thành. Ngay đến câu chửi và những trận đòn trừng phạt, mợ Hồng ở huyện Đường An chỉ là người dọa trẻ. Các kỹ nữ muốn tiếp khách phải khổ công học hỏi để khỏi làm mất tiếng tăm của kỹ viện. Quả là ông bà chủ có tư tưởng làm ăn nhớn. Các kỹ nữ mới đến, nội trong mười ngày phải học hết những bài bí quyết của chuyện gió trăng do chị cả giảng giải. Năm ngày qua, Mộng Điệp đã học được những bài tiếp khách phòng trà và thuật chuốc rượu, phải làm ra vẻ kiều mỵ, phải tạo được hương sen vàng thơm ngát…cùng những thủ đoạn lừa lọc nhiếp phách câu hồn để lấy tiền của khách. Hôm nay chị cả sẽ giảng bài bí quyết trong phòng. Từ sớm, Mộng Điệp cùng hai cô mới đến đã bị gọi dậy sang phòng học. Chị cả Tâm Băng ngồi chờ sẵn. Ba người vừa bước vào, Tâm Băng bảo:
– Hôm nay là bài học chính, các cô phải nhớ cho kĩ mới giữ được khách, nếu không thông thạo nghề ngón để khách bỏ đi thì chỉ có cách ra đứng đường làm gà lẻ thôi đấy.
Chị cả Tâm Băng đẹp, chừng hai bốn hai nhăm tuổi, nói năng lưu loát nhưng đôi mắt lạnh lùng không ra kênh kiệu cũng không phải u buồn mà đầy sức quyến rũ. Mấy chị em ngồi yên chỗ, Tâm Băng bắt đầu giảng:
– Các bí quyết trong phòng có nhiều nhưng chung qui là phải làm sao cho khách chơi vui thú sung sướng đến mê cuồng. Để làm được điều đó, các cô đừng cho là dễ nhé, chúng ta phải lao động cật lực đấy, dù có chán ngán rã rời vẫn phải làm như vui vẻ ham hố để khách khỏi phật lòng. Những thủ thuật cơ bản đã được đúc kết trong một câu là mặt ngoài bảy chữ, bên trong tám nghề. Phàm đã vào phòng với khách phải tuỳ cơ mà thực hiện cho tốt.- Chị cả Tâm Băng ngụm một ngụm nước nhấm giọng, nói tiếp – Bẩy chữ ấy là khốc, tiễn, thích, thiêu, giá, tẩu, tử. Khốc là khóc. Khách đến chơi thường là loại đa tình mà sĩ diện, dễ mủi lòng; khi đã vào phòng phải làm ra vẻ bi lụy sầu khổ mong sự chở che của đấng trượng phu. Khách nổi máu anh hùng hoặc động lòng trắc ẩn tất phải nghe ta. Khi khách đã nghe mà gắn bó với ta rồi thì cắt tóc thề bồi đó là tiễn. Thấy khách có vẻ nhiều tiền thì…
Chị cả Tâm Băng đang giảng bỗng thấy ấu Lang con trai bà chủ lôi xềnh xệch một cô gái đẩy vào học đường, nói:
– Chị cho con này nó nghe lại với! Ngu đần quá, khách nào người ta chơi với, chỉ tổ cơm toi.
Cô gái vừa bị đẩy vào là Năm Hà, chưa đầy mười sáu tuổi, đã ra nhận việc mấy ngày nhưng không chịu chiều theo ý khách. ấu Lang trước khi bỏ đi còn chỉ mặt Năm Hà, bảo:
– Ngồi đấy mà nghe giảng, ngày mai khách còn kêu, tao cho mày biết thế nào là đòn mèo.
Chị cả Tâm Băng lạnh lùng nói:
– Trông mày cũng không đến nỗi nào mà sao vô duyên thế?
Năm Hà gạt nước mắt nói:
– Em đang có kinh không làm gì được chứ đâu dám không chiều khách.
– Sao không uống thuốc chỉ kinh.
– Em uống rồi nhưng không sạch.
– Phải uống nhiều giấm vào.
– Ăn đói, uống nhiều giấm cồn ruột lắm, em không chịu được.
– Thế có chịu được roi gai, đòn mèo không?
– Chị ơi! Chị thương em với, xin cho em với.
– Tao xin cho mày, ai xin cho tao đây? Hãy vào ngồi mà nghe đây đã.
Tâm Băng nói tiếp từng chữ thích, thiêu, giá, tẩu, tử rồi hắng giọng bảo:
– Bây giờ các cô phải biết thế nào là tám nghề, không thạo tám nghề, đừng hòng giữ khách. Khi đã lên giường nếu khách là hạng lục lâm thảo khấu, thường hùng hục lấy được nhưng là hạng quan sang quyền quí hay tao nhân mặc khách, còn sờ mó mơn trớn chán, khi ấy phải tuỳ theo mà thực hành một trong tám nghề sau: Kích cổ thôi hoa, kim liên song toả, đại triển kì cổ, mạn đả khinh xao, khẩn thuyên tam điệt, tả chi hữu trì, toản tâm truy hồn, nhiếp thần nột toạ. Đó là tám phép nghề có thể nói là muôn vạn gã phong tình dù cao thủ đến đâu cũng không ra ngoài lưới ấy, nhưng phải tuỳ từng khách chơi mà ứng dụng chớ để nhầm lẫn.
Chị cả Băng Tâm ngừng lời. Các đệ tử vẫn há mồm nghe như chưa hiểu đầu đuôi gì cả. Tâm Băng phải diễn nôm lại tường tận rồi bảo chị em đi kiến tập.
*
Đô trưởng Thân Văn Khoai vừa mới lĩnh lương, đi tìm thập trưởng Trịnh Quang Minh, bảo:
– Này! Bác Minh, hôm nay anh em mình đi hồ Lục Thuỷ chứ? Em có tiền đây rồi. Ta lại đến hiệu Phúc Tình đi.
– Ôi! Đi với cậu chán bỏ mẹ. Bảo cát hoa thì không dám. Vác mặt đến nó cười cho như thằng thộn ấy à? Có dám thì đi, không thì thôi.
Văn Khoai gãi đầu nói:
– Cát hoa thì cát hoa, nhưng mà ngượng chết.
– Để nó cười vào mũi cho còn ngượng hơn.
Hai anh em dẫn nhau đến kỹ viện Phúc Tình, lên gác hai chọn một bàn nhìn ra bờ hồ, uống rượu. Từ đây ngắm được các nhà hàng bên cạnh, đâu đâu cũng lấp lánh ánh đèn màu, khách chơi qua lại dập dìu, khăn tía áo hồng tài tử giai nhân đón đưa không ngớt. Tỉu bảo vừa bưng rượu ra, có hai ca kỹ ôm đàn tì bà theo đến hầu rượu. Văn Khoai không biết nói thế nào, nhìn Quang Minh. Quang Minh cười chỉ ghế mời hai cô gái bằng một câu kiểu cách như người Tàu:
– Anh em tôi xin mời nhị vị thư thư cùng chung vui.
Một trong hai cô gái nói:
– Để em rót rượu mời nhị vị tráng sĩ. Chẳng hay nhị vị tráng sĩ ưng nghe khúc đàn nào đây?
Văn Khoai lại nhìn Quang Minh. Quang Minh biết ý bảo:
– Xin cho nghe khúc Quá Quan có được không?
– Hai tráng sĩ cạn ly đi, tiện nữ xin hầu đàn. Cả bốn người cùng nâng chén. Cô gái rót một tuần rượu nữa rồi lên dây đàn dạo khúc Quá Quan, cô gái kia gõ phách cầm nhịp, cả hai cùng cất giọng hát. Tiếng đàn, tiếng hát khi bổng khi trầm, lúc dồn dập như mưa bay gió cuốn nơi biên ải, lúc tha thiết nỗi niềm sầu nhớ của người con gái xa quê.
Tiếng đàn vừa ngừng, mấy người khách ở bàn phía trong bảo:
– Hay lắm! Hay lắm! Nhưng mà buồn quá. Có cái gì nhảy nhót một tí nhỉ?
Quang Minh bảo:
– Phải đấy! Phải đấy.
Cô gái cầm cây đàn tì bà bảo:
– Xin chiều ý qúi khách, có ngay ạ.
Hai cô gái cùng đi vào, lát sau đi ra với ba người nữa. Tất cả cùng mặc áo bó chẽn lấy thân, vạt áo ngắn hếch lên, cạp quần ngắn trễ xuống để hở một khoang bụng trắng với cái rốn sâu hom hỏm. Mỗi cô cầm một thứ nhạc cụ rất lạ mắt. Tất cả cùng vừa tấu nhạc vừa nhảy, tài nghệ sánh ngang với các diễn viên tạp kỹ. Nhạc mỗi lúc một sôi động, điệu nhảy mỗi lúc một quay cuồng. Tất cả các khách trong tửu lầu đều vỗ tay tán thưởng. Văn Khoai hỏi Quang Minh:
– Nhạc kiểu gì mà nghe lạ thế?
– Tớ cũng không biết nhưng chắc là của ngoại, nghe chẳng hiểu gì nhưng họ khen, mình cũng cứ khen không lại mang tiếng là không biết thưởng thức.
Rượu đã ngà ngà, hai cô gái ban đầu trở lại bảo:
– Nhị vị quan anh vào phòng đấm lưng chứ ạ?
Văn Khoai vẫn im thin thít. Quang Minh hỏi:
– Đấm lưng kiểu gì đấy?
– Kiều gì cũng chiều ạ.
– Đấm thì đấm. Tôi thế nào cũng được nhưng chú em tôi đây còn mới mẻ, e dè lắm. Các vị thư thư đừng có làm chú ấy chết đấy nhé.
Cả bọn cùng cười. Quang Minh ngật ngưỡng theo cô gái vào phía trong, bỏ Văn Khoai ngồi lại cùng cô kia. Cô gái bảo:
– Huynh đi cùng em chứ? Đi với em đi. Huynh không đi với em chắc là em chết mất.
Cô gái nói xong cầm tay Văn Khoai kéo đi. Văn Khoai vốn vụng đường ăn nói, chẳng biết từ chối ra sao, đành để cô gái lôi vào phòng. Trong phòng màn trướng, giường đệm đẹp đẽ lại có cái bàn nhỏ với hai chiếc nghế cũng nhỏ để hai người ngồi nói chuyện. Văn Khoai đỏ mặt, ngồi cúi gằm không dám động cựa. Cô gái thấy vậy, cầm tay hỏi:
– Huynh không đến đây bao giờ hay sao mà run thế.
Văn Khoai thực thà trả lời:
– Tôi có đến vài lần rồi nhưng chỉ để uống rượu chứ chưa dám vào phòng này bao giờ.
– Huynh là võ quan mà nhút nhát thế, đánh giặc sao được.
Văn Khoai đã lấy lại được bình tĩnh, lại thấy cô gái cũng có vẻ hiền lành mới bảo:
– Đánh giặc tôi cũng không ngại bằng nói chuyện với các cô.
Cô gái cười tinh quái, bảo:
– U à! Nói lém rồi phải không? Chắc ghê ra phết chẳng phải vừa.
– Tôi thấy cô cũng có vẻ con nhà lành, sao lại chọn làm nghề này.
Câu hỏi của Văn Khoai dường như đã chạm đến một nỗi niềm thầm kín nào đó. Cô gái không trả lời, quay đi giấu một giọt nước mắt. Điều đó không qua được mắt chàng vệ binh đã nhiều năm làm cái công việc quan sát và nhận xét. Văn Khoai thấy lạ hỏi:
– Cô sao vậy?
– Không! Em không làm sao cả.
Sự giấu giếm của cô gái càng gợi trí tò mò của Văn Khoai, chàng hỏi:
– Cô không phải giấu tôi. Ban nãy cô nói nếu tôi không đi với cô chắc cô chết mất, thế là thế nào?
Cô gái thấy anh lính là người thật thà, thở dài bảo:
– Huynh hỏi những điều ấy làm chi? Em nói ra càng không sống được.
Văn Khoai mạnh dạn hẳn lên:
– Cô cứ nói đi. Có tôi đây, kẻ nào dám làm gì cô!
Cô gái nghĩ: Chết thật! Mình chưa đi hết chữ đầu tiên trong bảy chữ mà anh chàng đã nổi máu yêng hùng lên rồi. Văn Khoai thấy cô gái ngồi thừ ra và bây giờ chàng mới nhận thấy cô là người rất đẹp với đôi chân thon và trắng ẩn dưới làn váy bằng lụa mỏng, chàng hỏi tiếp:
– Em tên là gì? Liệu anh có giúp gì cho em được không?
Sự thay đổi cách xưng hô của chàng lính làm cô gái thấy con người này có thể tin tưởng được. Nàng nói:
– Dạ! Tên em là Mộng Điệp, quê ở Trường Tân, châu Hạ Hồng.
– Trời! Anh cũng là người châu Hạ Hồng. Vì sao em phải lưu lạc đến đây.
Mộng Điệp đem hết chuyện của mình kể với Văn Khoai. Càng nói, nỗi tủi cực càng dâng lên, cô khóc, khóc nức nở làm Văn Khoai thấy cồn cào trong dạ. Chàng ôm lấy vai nàng mà an ủi, như muốn chia bớt nỗi thống khổ của nàng, quên mất rằng mình chưa bao giờ gần gũi một cô gái thế này. Điệp vẫn khóc, không phải nàng thực hiện âm mưu chữ thứ nhất trong bảy chữ mà là những giọt nước mắt thực sự đang chảy từ con tim khốn khổ cuả nàng. Đôi vai tròn xinh đẹp rung lên theo tiếng nức nở trong vòng tay chàng lính. Văn Khoai bảo:
– Anh sẽ tìm cách chuộc em ra. Em có ưng lòng không.
Mộng Điệp vái Văn Khoai một vái, nói:
– Đa tạ chàng đã có ý thương em. Nếu được như vậy xin thề kết cỏ ngậm vành, còn chi mà không ưng lòng nhưng những điều em nói với chàng hôm nay chớ có hở lời kẻo thân em xương tan thịt nát.
– Sao vậy?
– Chàng cứ biết thế thôi. Thân phận chúng em ở chốn hồng trần cũng chỉ như hạt cát, ai muốn giẵm lên cũng được chứ có sung sướng gì. Đã đến nước này cũng không dám giấu gì chàng, hôm nay trong người em không được sạch sẽ nhưng vẫn không dám nghỉ tiếp khách, nếu chủ biết được bắt uống thuốc chỉ kinh với giấm thì tệ hại lắm. ở đây có cô bé Năm Hà bị uống nhiều quá, kinh nguyệt không ra nhưng tháng nào cũng hộc máu mồm máu mũi, chết tháng trước rồi. Khổ thân con bé mới mười sáu tuổi đầu.
Mộng Điệp nói xong lại khóc tấm tức. Văn Khoai bảo:
– Không uống thì thôi, sao phải khổ thế?
– Thôi thế nào được, không uống thì ăn roi gai.
– Roi gai! Roi gai là thế nào?
– Roi gai là cắm hàng trăm cái gai bưởi vào sợi roi da. Cô nào có lỗi thì lột hết áo quần, trói úp vào cây cọc rồi dùng roi ấy quất vào lưng vào mông, chỉ vài nhát là bật máu ra. Thế mà có người bị đánh mấy chục roi thì sống sao nổi, nhưng cũng chưa đáng sợ bằng đòn mèo.
– Đòn mèo!
– Vâng đòn mèo! Người ta cho con mèo rất to vào quần cô nào có tội, buộc túm lại rối quất cho con mèo kêu gào cào cắn lung tung làm “tội nhân” đau đớn sợ hãi đến chết ngất. Nghe nói các kiểu trừng phạt này đều do ông chủ được người Tàu truyền cho. Hai thằng con bà chủ là Mạnh Hùng và ấu Lang thi hành.
Văn Khoai Đập tay xuống bàn, nói:
– Được! để ta xem chúng nó gan to bằng đâu mà độc ác thế.
– Thôi chàng ơi! Nếu chàng thật dạ thương em thì chuộc em ra chứ không làm gì được người ta đâu. Đây là nơi được nhiều quan lớn che chở. Bọn Mạnh Hùng, ấu Lang lại là nhà có công với nước, bố chúng nó chết ở trận Bình Lệ đấy. Chàng không trông thấy tấm hoành phi có ba chữ Tử vị quốc to tướng treo ngay giữa gian đại sảnh đấy ư?
Văn Khoai cảm thấy bất lực, uất ức bặm môi đấm mạnh tay xuống mặt bàn, lát sau nói:
– Trời ơi! Nếu người bỏ mình ngoài mặt trận biết được chuyện này hẳn đau lòng lắm!
Hai người trò chuyện đến tận canh khuya, không nỡ rời nhau. Văn Khoai vốn là người lính có lòng tận tụy với công việc mới bảo Mộng Điệp:
– Bây giờ tôi phải về trại. Nàng hãy yên lòng tạm chờ ở đây ít lâu. Tôi kiếm đủ tiền sẽ chuộc nàng ra.
Văn Khoai nói xong bảo người gọi Quang Minh cùng về. Quang Minh mắt nhắm mắt mở bảo:
– Mới vừa chợp mắt…Bây giờ là giờ Tý, về làm gì?
Văn Khoai bảo:
– Về thôi anh ạ. Tôi ở đây không quen. Vả lại nhỡ các quan đi kiểm tra, mình không có nhà sau này khó ăn khó nói lắm.
– Ôi giời ôi! Làm gì có quan nào đi kiểm tra. Các bố ấy ngủ đầy trong các phòng kia kìa. ở đây hết phòng các bố sang ngủ cả ở các nhà hàng bên cạnh.
– Anh cứ nói thế chứ, các quan ai lại ngủ ở kỹ viện.
Quang Minh cười ngất bảo:
– Quan mà không ra đây á?! Chú mày chỉ được cái quá thật thà. Chẳng thế lại có câu Ban ngày quan lớn như thần, ban đêm quan lớn tần mần như ma.
Lúc bấy giờ nhà Tống bị quân Nguyên dồn xuống phía Nam. Người Nguyên lại có ý đồ nhòm ngó biên giới Đại Việt. Các động tĩnh của quân Nguyên ở miền biên viễn đều được thám binh của Đào Thế Quang báo về kinh thành Thăng Long. Lại có đoàn sứ giả do Lê Khắc Phục dẫn đầu sang Nguyên trở về tấu trình hiện tình nhà Nguyên, nhà Tống. Thánh tông thiết triều, các quan đều nói:
– Người Nguyên tuy dồn sức đánh Tống nhưng vẫn nhìn nước ta như cú rình mồi. Xin nhà vua cử tướng giỏi đi tuần thám biên giới và cửa biển để đôn đốc việc binh bị, phòng khi có chuyện bất chắc.
Nhà vua nghe theo liền cử Trần Nhật Duật đi tuần tra các miền biên ải, Trần Khánh Dư đi tuần tra các cửa biển suốt từ Hoan, ái lên tới An Bang, Vân Đồn, sau đó theo đường sông qua Đông Triều, Vạn Kiếp rồi về kinh thành.
Khánh Dư lúc ấy nhận được tin công chúa Thiên Thụy sắp lấy chồng, lòng như lửa đốt chưa biết tính thế nào, lại nhận được lệnh đi kinh lý vùng biển mới định giả vờ ốm, viết bản tấu nói là bệnh cũ tái phát xin hoàng thượng giao việc ấy cho người khác, đang định cử người chuyển đến cho quan đại hành khiển thì Hiếu Ngân xin ra mắt. Hiếu Ngân thấy sắc mặt Khánh Dư khác thường, hỏi:
– Không biết hầu tướng lo nghĩ chuyện gì mà khí sắc suy hao đến vậy?
Khánh Dư vốn vẫn tin dùng Hiếu Ngân nên mới đem chuyện nói hết cho nghe, lại hỏi:
– Ngươi có cách gì giúp được ta không?
Hiếu Ngân mủm mỉm cười, bảo:
– Tôi có một kế khiến tướng quân đôi đường lưỡng lợi. Xin tướng quân chớ từ chối việc đi tuần biển. Đây chính là dịp làm ăn nhất bản vạn lợi đấy.
Thật là:
Chủ tướng đang trong cơn bí nước
Gia thần cao kiến lại dâng mưu
Mời bạn đọc tiếp chương sau xem mưu kế của Hiếu Ngân thế nào.