
Đan Thành
Lâm bệnh trọng thừa tướng hết kiếp
Nghe tấu trình thiên tử hoãn binh
Đan Thành
Lâm bệnh trọng thừa tướng hết kiếp
Nghe tấu trình thiên tử hoãn binh
Đây xin nói việc tháng tư năm Bính Tuất (5-1286), thiên tử nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt xuống chiếu cho quân Vân Nam cùng đi đánh Giao Chỉ. Mọi việc trù liệu đến đây đã khá chu tất, chỉ còn chờ đúng ngày hoàng đạo là cất quân. A Lý Hải Nha ngày nào cũng hăng hái đôn đốc luyện tập quân mã, chế tạo chiến cụ. Một hôm tướng cũ là tham tri chính sự Phàn Tiếp nói rằng:
– Việc luyện quân là do các tướng. Thừa tướng bận nhiều công việc vất vả, không nên quá lo lắng như vậy.
A Lý Hải Nha nói:
– Từ khi chúng ta thua trận trở về, hoàng thượng có ý không vui, người nhìn ta với con mắt không còn tín nhiệm như trước nữa. Ta phải cố gắng lập công để lấy lại chỗ đứng trong lòng hoàng thượng.
Phàn Tiếp nói:
– Hoàng thượng phong ngài làm tả thừa tướng, sao lại bảo là không tín nhiệm?
– Các ngươi không biết thật sao? Việc phong ta lên hàng thừa tướng chẳng qua là làm yên lòng quân sĩ và giấu bớt thất bại mà thôi, nếu tín nhiệm thực sự thì sao còn phong cho áo Lỗ Xích làm bình chương chính sự đô nguyên suý làm gì.
Bấy giờ là đầu mùa hè, thời tiết viêm nhiệt, nắng nóng ghê người. Ngày nào A Lý Hải Nha cũng đến các trại lính thăm hỏi tình hình quân sĩ, từ việc ăn uống ngủ nghỉ đến việc chuẩn bị quần áo chăn mền giầy dép, không cái gì không quan tâm chăm lo chu đáo, ban đêm lại cho người gọi các thợ cả của xưởng thuyền đến, xem bản vẽ, bàn bạc chế tạo ra những loại thuyền đi bể rất lớn, tiện dụng cho việc hành quân và chở lương thảo. Tướng A Bát Xích nói:
– Sở trường của quân ta là đánh bằng cung tên, rất hợp với thuỷ chiến. Vùng Kinh Hồ này nhiều gỗ tang cơ vừa cứng vừa dẻo. Loại gỗ ấy dùng làm cánh cung không còn gì bằng. Xin thừa tướng cho chế thêm mười vạn bộ cánh cung đem đi để có lúc cần dùng đến.
A Lý Hải Nha nghe theo, mở xưởng chế tạo cung tên, dùng gỗ tang cơ làm cánh cung, lại sai thợ vào rừng tìm gỗ thiết đàn vừa cứng vừa thẳng làm tên. Một hôm quân lính đi lấy gỗ thiết đàn về bẩm lại rằng:
– Trong cánh rừng phía Đông có một cây thiết đàn to đến mấy người ôm, cành lá xanh tốt, ngọn chọc đến mây. Cây gỗ ấy xẻ ra có thể làm được mấy chục vạn mũi tên, nhưng không làm sao chặt xuống được. Đao búa chạm vào đều bật trở lại như chém phải đá.
A Lý Hải Nha bảo:
– Làm gì có cây nào chặt lại không đứt bao giờ. Để ngày mai ta đến xem.
Hôm sau A Lý Hải Nha theo quân lính đến cánh rừng phía Đông, quả nhiên có cây gỗ thiết đàn cao vút, nhìn lên ngọn chỉ thấy một mảng trời xanh leo lẻo, gốc cây nhẵn bóng như mài, mới khấn rằng:
– Ta là A Lý Hải Nha, tả thừa tướng nước Đại Nguyên vâng mệnh thiên tử đi đánh phương Nam, cần cây gỗ này để làm vũ khí cho các chiến binh. Sơn thần, thổ địa linh thiêng hãy ứng nghiệm trong lưỡi kiếm này để ta hạ được cây lớn.
Khấn xong vung cây kiếm Khai Thiên chém một nhát cực mạnh vào gốc cây. Chỉ nghe một tiếng choang, lưỡi kiếm loé lửa, bật trở lại như bổ vào đá tảng, làm cánh tay A Lý Hải Nha tê dại. Đêm ấy A Lý Hải Nha lên cơn sốt mê man, mơ mơ tỉnh tỉnh, bỗng thấy một con mãng xà dài mấy trượng trườn đến trước mặt, hoá ra một vị thần mặt xanh, mắt đỏ, nói rằng:
– Hoả khắc kim! Thừa tướng không biết hay sao.
A Lý Hải Nha nói:
– Đa tạ thần nhân đã chỉ dạy. Xin hỏi ngài là thần từ phương nào tới.
Vị thần mắt đỏ cười khà khà, nói:
– Ta là ngươi, ngươi cũng chính là ta vậy.
Nói xong biến mất. Hôm sau A Lý Hải Nha tỉnh táo hẳn, kể lại giấc mơ cho các tướng nghe rồi bảo rằng:
– Cây này là thiết đàn, thuộc hành kim. Vậy các ngươi hãy cho quân lấy củi khô chất xung quanh, đốt lên, ắt hạ được.
Lúc sau quân lính đốt củi quanh gốc cây đến mấy canh giờ mới tàn. A Lý Hải Nha cho quân vào chặt. Gỗ thiết đàn bây giờ mềm như bún. Lưỡi búa bổ vào làm bật ra những dăm gỗ vàng như mỡ. Nhựa cây chảy ra lai láng đỏ như máu. Bất giác A Lý Hải Nha thấy choáng váng, ngất xỉu ngã lăn xuống đất. Quân lính vội đỡ lên xe, đưa về phủ. Từ hôm ấy A Lý Hải Nha người nóng như than, ăn không tiêu, bụng chướng, đại tiện lỏng, tiểu tiện đỏ. Quan quân dược là Khương Vi đến khám nói rằng:
– Thừa tướng có bệnh ở gan. Cần phải điều trị lâu mới khỏi được.
A Lý Hải Nha hỏi:
– Lâu là mấy ngày hay mấy tháng.
Khương Vi thưa:
– Để chữa bệnh này không thể nói mấy ngày hay mấy tháng mà phải tính mấy năm mới được. Có điều cần phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cộng với luyện tập thường xuyên, tránh buồn phiền nóng giận. Chớ bao giờ bực bội kẻo bệnh phát nhanh không kịp cứu.
A Lý Hải Nha kêu lên:
– Trời ơi! Không lẽ ta đã đến ngày tận mạng rồi sao – quay sang hỏi Khương Vi – Vì đâu ta mắc căn bệnh này.
Khương Vi thưa rằng:
– Thừa tướng đi đánh phương Nam nhiễm phải chướng khí, lại thêm lo nghĩ việc quân, đương nhiên là tổn hại đến can thận, sinh ra tỳ hư, vị nhược nên mới đầy hơi chướng khí, ăn không tiêu, đại tiện lỏng, mạch khi hồng khi sác1 không ổn định. Nếu gặp điều lo lắng bực bội tất bệnh cường lên không biết đâu mà lường.
A Lý Hải Nha thở dài, than rằng:
– Chẳng lẽ ta phải ôm mối hận bại trận ở phương Nam xuống hoàng tuyền mà không rửa được hay sao.
Nói xong, nước mắt tuôn rơi. Các tướng đứng bên cũng đau lòng sa lệ. Mấy hôm sau A Lý Hải Nha tả biểu dâng lên nhà vua. Hốt Tất Liệt liền họp triều thần, phán rằng:
– Sắp đến ngày xuất quân mà thừa tướng ốm nặng. Việc đánh Giao Chỉ không thể dừng. Vậy các khanh hãy bàn xem nên chọn ai thay.
Tham tri chính sự là Điệt Hắc Mê Thất tâu rằng:
– Việc ra quân phong tướng xưa nay thường là trưởng nghỉ thì phó thay. Bình chương chính sự đô nguyên soái áo Lỗ Xích là người có thể lĩnh được việc ấy.
Các quan đều cho lời tâu của Điệt Hắc Mê Thất là thoả đáng. Thượng thư Sài Thung tâu rằng:
– Cử một đại tướng cầm quân ra trận không phải là chuyện nhỏ. Thần cho rằng nên đợi thừa tướng khỏi bệnh rồi ra quân cũng chẳng muộn gì.
Các quan trong khu mật viện tâu rằng:
– Nước An Nam qua cuộc chiến năm ngoái tuy vẫn giữ được nhưng điêu hao rất nhiều, nếu ta không đánh ngay, để đến đến lúc họ hồi phục, chẳng dễ bình được. Vả lại, không thể vì sức khoẻ của tả thừa tướng mà ngừng việc ra quân. Biết đâu nhỡ thừa tướng có mệnh hệ gì thì không đánh nữa hay sao?
Hốt Tất Liệt cho lời tấu ấy là có lý, vội cho sứ đến Hồ Quảng triệu áo Lỗ Xích về triều phong làm bình chương chính sự quân sư đô nguyên suý thay A Lý Hải Nha, giúp Trấn Nam vương Thoát Hoan chinh phạt Giao Chỉ. Lúc bấy giờ Hốt Tất Liệt thấy con trai áo Lỗ Xích là Thoát Hoàn Bất Hoa đứng cạnh cha, tướng mạo khôi ngô, đáng mặt là một dũng sĩ, mới đặc cách phong cho làm vạn hộ tướng quân. Thoát Hoàn Bất Hoa bái lạy tạ ơn. Hốt Tất Liệt dụ cha con áo Lỗ Xích rằng:
– Ngày xưa Mộc Hoa Lê1 đã hết lòng với hoàng gia, danh tiếng còn lưu mãi mãi. Nay ngươi hãy cố gắng cho được vẻ vang như vậy2.
áo Lỗ Xích lạy tạ, tâu rằng:
– Bệ hạ tuy đã dựng được triều đình An Nam quốc vương cho Trần ích Tắc nhưng sợ lòng người Nam theo Nhật Huyên đã quen, xin bệ hạ xuống một tờ chiếu dụ gửi cho quan binh sĩ tử của chúng bảo theo ích Tắc tất Nhật Huyên bị cô thế ngay.
Hốt Tất Liệt khen:
– Phải lắm! áo Lỗ Xích quả là có bản lĩnh. Trẫm chắc rằng thế nào ngươi cũng làm xong việc lớn.
Nói xong liền xuống một tờ chiếu gửi quan lại và chúng dân Đại Việt như sau:
“ Trước kia vua nước các ngươi đã xưng thần, quy phục, hàng năm dâng cống nhưng không thân vào chầu nên khi chú y là Trần Di ái sang chầu, ta uỷ cho trông coi việc nước thay y. Di ái về nước thì bị giết3.Đạt lỗ hoa xích là Bột Nhan Thiết Mộc Nhi sang thì không chịu nhận. Còn như quân ta đi đánh Chiêm Thành, lệnh phải giúp lương lại không chịu giúp. Vì thế, Trấn Nam vương Thoát Hoan, hành tỉnh bình chương sự A Lý Hải Nha phải đem quân sang đánh. Trong khi giao chiến, hai bên đều giết hại lẫn nhau. Nay, cận thần của nước các ngươi là bọn Trần ích Tắc, Trần Tú Hoãn lo sợ nước bị sụp đổ, tuyệt diệt, tai hoạ đến kẻ vô tội, nên thường khuyên bảo vua các ngươi vào chầu, nhưng rốt cuộc vẫn không nghe theo. Bọn ấy đã tự đến quy phục. Ta thương bọn này có lòng trung hiếu, đặc cách phong Trần ích Tắc làm An Nam quốc vương, Trần Tú Hoãn làm phụ nghĩa công để phụng tự họ Trần, lại sai Trấn Nam vương Thoát Hoan, bình chương sự áo Lỗ Xích đem quân sang bình định nước các ngươi. Những tội lỗi trước đây chỉ thuộc một mình y, quan dân không liên đới. Khi chiếu thư tới, các ngươi nên trở về đồng ruộng yên ổn làm ăn. Vậy xuống chiếu để hiểu dụ.
Khâm thử”.
Chiếu thư viết xong, liền sai thợ khắc in thành nhiều bản, giao cho áo Lỗ Xích đem theo để sang Đại Việt đi đến đâu bố cáo với chúng dân đến đấy. Quan tả thừa đại tướng quân là Đường Ngột Đải tâu rằng:
– Nay đang là mùa hè, thời tiết rất nóng nực. Người ngựa của ta đều ở xứ lạnh quen rồi, nếu đi đánh ngay khó tránh khỏi ôn dịch. Xin thánh thượng cứ cho chuẩn bị kỹ càng, vài tháng nữa đến mùa thu, tiết trời mát mẻ hãy xuất quân thuận lợi hơn nhiều.
Hốt Tất Liệt chuẩn theo lời tấu ấy, lệnh cho áo Lỗ Xích hội quân ở Kinh Hồ cùng các châu Khâm, Liêm đợi sang thu tiến xuống phương Nam. Bấy giờ Tả thừa tướng A Lý Hải Nha vẫn ốm không khỏi, bụng càng ngày càng chướng to, thân hình tiều tụy, sắc da vàng bủng. Tham tri chính sự Phàn Tiếp thấy vậy, hỏi quan quân dược Khương Vi rằng:
– Quân dược đại phu thấy bệnh tình của thừa tướng thế nào?
Khương Vi nói:
– Khó lắm! Lục phủ ngũ tạng đều nhiễm bệnh, may ra được một vài tháng nữa là cùng.
– Chẳng lẽ không có thuốc gì chữa được ư?
– Đây là bệnh thuộc tứ chứng nan y chỉ giời mới có thể cứu được.
– Tứ chứng nan y là những chứng gì?
– Phong, lao, cổ, lại. Phàm người ta mắc một trong bốn chứng ấy coi như chỉ có chờ giờ thôi. Thừa tướng bị cổ chướng nặng lắm rồi.
Phàn Tiếp vào thăm, thấy A Lý Hải Nha nằm thở ậm ạch, hỏi rằng:
– Thừa tướng có thấy đau ở chỗ nào không?
A Lý Hải Nha khe khẽ chỉ vào bụng, nói:
– Có! Đau lắm nhưng ta chịu được. Có điều cứ chợp mắt đi là mơ thấy toàn những chuyện quái lạ thôi.
Phàn Tiếp an ủi:
– Chẳng qua là thừa tướng quá lo việc nước nên thấy như thế.
– Không! Ta mới nằm mơ thấy chuyện này đáng sợ lắm. Tự nhiên có con mãng xà đưa ta đến chỗ cái cây thiết đàn chặt khi trước. Cây lá vẫn còn nguyên vẹn cả, trên cành có không biết bao nhiêu là ma quỉ, kẻ cười kẻ khóc. Trong số đó ta thấy có Toa Đô, A Thâm, Khoan Triệt, Lý Hằng, Triệu Tu Kỷ, Tản Đáp Nhi Đải, Nghê Nhuận cười oang oang bảo ta rằng: “ Chúng tôi đón thừa tướng quân sư ở đây lâu rồi. Để chúng tôi đưa thừa tướng đến gặp Diêm vương kẻo người đợi”. Nói xong, họ dắt ta đến trước một vị quân vương miệng rộng, trán dô, mắt vàng, mũi đỏ, có răng nanh như răng sư tử, đầu đội mũ bình thiên. Vị vua ấy quắc mắt nói với ta rằng: “ Cái thằng tham quan dâm dục1 này sao bây giờ mới chịu tới trình diện”. Nói xong đạp vào bụng ta một cái. Khi tỉnh dậy ta thấy đau đến bây giờ.
Phàn Tiếp nói:
– Chuyện mộng mị không có thật bao giờ. Thừa tướng chớ lo chi, cứ nghỉ ngơi thuốc thang thế nào bệnh cũng phải lui.
A Lý Hải Nha lại hỏi:
– áo Lỗ Xích bây giờ ở đâu?
Phàn Tiếp thưa rằng:
– Quan bình chương sự bây giờ thay thừa tướng, đang hội quân ở Kinh Hồ, Kâm, Liêm sắp tiến xuống phương Nam.
– Ta nghe nói hội quân lâu rồi cơ mà. Sao không tiến binh ngay đi.
– Hoàng thượng sợ còn đang nóng bức, chưa muốn cho ra quân.
A Lý Hải Nha nhăn mặt, nói:
– Kẻ nào bày cho hoàng thượng cái kế ấy. Bây giờ ra quân, mùa Thu đã ở An Nam rồi. trùng trình đến mùa thu mới đi, trời mưa tầm tã liệu tiến binh được không. Kế sách chi mà dốt thế! Thật tức chết. Để ta làm tấu biểu dâng lên hoàng thượng.
Nói xong sai gia nhân lấy lụa, mài mực, cố gượng dậy soạn biểu, nhưng mới viết được vài chữ thì hộc ra mấy vốc máu, ngất xỉu. Quan quân dược Khương Vi dùng kim châm vào huyệt nhân trung, hợp cốc, giáp sa, bách hội, dũng tuyền… Một chốc A Lý Hải Nha tỉnh lại, uống một ít sâm thang rồi nói:
– Ta lại thấy Toa đô, Khoan Triệt về rủ đi. Ma quỷ nhiều lắm. Các ngươi đến miêú Tường Vân mời Vân Tiên đạo sĩ đến cúng quỷ thần cho ta xem bệnh có lui không.
Quân dược đại phu Khương Vi liền cử người đi mời Vân Tiên đạo sĩ. Lúc sau ra ngoài, Phàn Tiếp hỏi Khương Vi:
– Ông là thầy thuốc sao lại tin vào thầy cúng, chẳng lẽ không biết bảy điều bất trị2 hay sao?
– Sao tôi không biết. Nhưng bệnh tình đã đến nước này, không mong gì chữa được, nên chiều người ốm ông ạ.
Vân Tiên đạo sĩ đến lập hương án cúng tế, làm phép bảy ngày liền nhưng bệnh tình của A Lý Hải Nha càng ngày càng nặng. Đêm Hai bốn tháng Năm (17-6-1286), A Lý Hải Nha mệt lắm, gần sáng gọi Phàn Tiếp đến dặn rằng:
– Ta không thể cùng ngươi ra trận được nữa rồi. Sau khi ta chết, ngươi dâng biểu lên thánh thượng xin cất quân ngay, chớ để dây dưa ngày tháng. Không rửa được cái nhục trên đất Giao Chỉ, ta ở nơi chín suối cũng không nhắm được mắt.
Nói xong, thở dốc lên mấy tiếng, hộc ra vài đấu máu rồi tắt thở. Lúc đó là đầu giờ Dần ngày Hai mươi nhăm tháng năm năm Bính Tuất, tức năm Chí Nguyên thứ Hai mươi ba nhà Đại Nguyên (18-6-1286). A Lý Hải Nha chết, về sau có bài thơ than rằng:
Chưa từng thất bại ở nơi nào
Nô lệ, gái hầu biết nhường bao
Nỗi nhục Nam phương chưa rửa được
Mắt xuống âm ty nhắm được sao?
Phàn Tiếp theo lời A Lý Hải Nha, làm bản tấu dâng lên Hốt Tất Liệt, xin xuất quân ngay. Triều đình được tin A Lý Hải Nha chết, nhiều đại thần dâng biểu khuyên thiên tử không nên xuất quân vì thế các quan trong triều chia thành hai phe. Một phe muốn tiến binh ngay, còn phe kia ngược lại. Đang khi rối ren, có tin sứ thần Đại Việt đến. Hốt Tất Liệt liền cho vào diện kiến. Hai quan đại phu Đại Việt là Nguyễn Nghĩa Toàn và Nguyễn Đức Vinh tiến vào bái lạy, hô vạn tuế nhưng lại xưng là ngoại thần. Hốt Tất Liệt nói:
– Nước An Nam các ngươi là thuộc quốc của nhà Đại Nguyên, các ngươi là bồi thần chứ đâu phải là ngoại thần.
Nguyễn Nghĩa Toàn nói:
– Nước thần tuy nhỏ nhưng cũng có đế vị, đâu phải là thuộc quốc của nhà Đại Nguyên. Bắc Nam giời đất từ cổ đã chia rạch ròi. Thần là bề tôi nước Đại Việt nhận mệnh thiên tử sang sứ, không thể là bồi thần của nhà Đại Nguyên được.
Hốt Tất Liệt thấy Nguyễn Nghĩa Toàn còn trẻ mà ăn nói cứng cỏi, cũng nể nhưng vì muốn tỏ ra mình ở địa vị độc tôn trong thiên hạ nên quát rằng:
– Vua An Nam cũng đòi xưng là thiên tử sao? Vua tôi các ngươi khinh lờn nhà Nguyên ta quá lắm. Để cho các ngươi biết thế nào là đao sắc của ta. Võ sĩ đâu! Lôi hai tên hỗn sứ này ra chém cho ta.
Nguyễn Nghĩa Toàn không nói gì, bình thản nhìn thẳng vào mặt Hốt Tất Liệt, còn Nguyễn Đức Vinh chỉ cười mủm mỉm. Hốt Tất Liệt thấy không uy hiếp được sứ Đại Việt, hỏi:
– Ngươi chết đến nơi rồi, sao lại còn cười?
Nguyễn Đức Vinh nói:
– Nhà vua toàn làm những việc chúng tôi đã biết trước, sao không buồn cười.
Hốt Tất Liệt nổi cáu:
– Biết trước! Ngươi biết trước cái gì?
Nguyễn Đức Vinh thũng thẵng nói:
– Sứ thần các nước đến nước tôi đều nói là vua Nguyên tiếp sứ không theo lễ, mà cũng không biết cách bang giao, chỉ có mỗi giọng lấy sức mạnh mà doạ nạt người ta thôi. Tôi nghe vậy không tin, chẳng ngờ đến đây lại hoá thật, thế sao không buồn cười.
– Ngươi dám nói ta không biết cách bang giao sao?
– Tiếp sứ nước ngoài, chưa hỏi đến có việc gì đã lôi ra chém. Từ cổ tới nay có ai biết phép bang giao mà lại làm thế bao giờ.
Hốt Tất Liệt nghe nói như vậy, bảo bọn võ sĩ lui ra rồi hỏi sứ Việt:
– Vậy các ngươi đến đây có việc gì, nói đi.
Nguyễn nghĩa Toàn nói:
– Trước đây nhà vua đã có chiếu thư rằng cấm các biên tướng không được xâm phạm nước tôi, thế mà năm ngoái vô cớ đem quân sang đánh, làm dân nước tôi không được làm ăn yên ổn, năm nay lại chuẩn bị ra quân. Nhà vua chúng tôi có quốc thư yêu cầu bệ hạ hãy giữ đúng những lời nói trong chiếu thư trước.
Hốt Tất Liệt nói:
– Trước đây thực có chiếu thư như thế nhưng vua tôi các ngươi coi thường thiên triều. Gọi vào chầu không vào, bảo cấp lương thảo cho quan binh đi đánh Chiêm Thành không cấp, lại còn giúp người Chiêm đánh lại quan quân. Không được thụ phong cũng xưng vương xưng đế. Vì những nỗi ấy mà ta phải cho Trấn Nam vương thái tử mang thánh binh sang tiễu phạt, sao lại bảo là vô cớ?
Nguyễn Nghĩa Toàn nói:
– Việc vào chầu, vua chúng tôi đã có biểu gửi sang nói rõ là không được khoẻ. Còn như giúp quân lương, nước tôi nhỏ bé, ít dân làm gì ra nhiều lương thảo để mà giúp. Nước Chiêm Thành vốn là thuộc quốc của chúng tôi, không có lỗi gì với nhà vua, thấy bị đánh sao lại không cứu. Còn việc xưng đế…
Không để Nguyễn Nghĩa Toàn nói hết, Hốt Tất Liệt thét võ sĩ lôi ra pháp trường. Hợp Tán Nhi Hải nha nghĩ để nhà vua giết sứ An Nam, nhỡ sau nay có việc sang bên ấy, vua An Nam giết mình thì sao, mới tâu rằng:
– Những lời sứ An Nam tâu bày không phải không có lý. Xin thánh thượng không nên giết họ vội, để tỏ rõ ân lượng của bệ hạ rộng lớn như trời biển. Sau này bình xong An Nam, bắt được vua chúng đem trị tội một thể cũng chẳng muộn gì.
Đạt lỗ hoa xích lộ Bắc Kinh là Bột Nhan Thiết Mộc Nhi cũng tâu rằng:
– Hai nước giao binh không nên chém sứ. Bệ hạ cứ giam chúng lại đã.
Hốt Tất Liệt nghe theo, cho đem đoàn sứ bộ Đại Việt giam lại. Bấy giờ áo Lỗ Xích ra sức bắt lính, gom lương, đốc phu phục vụ chiến tranh. Bọn quan lại địa phương nhân đấy cướp đoạt tài vật của chúng dân, làm bách tính các vùng Kinh Hồ, Giang Hoài khổ cực không biết đến đâu mà kể. Tuyên uý ty Hồ Nam viết bản tấu dâng nên triều đình có đoạn rằng:
“…
Luôn năm đánh Nhật Bản, dùng binh ở Chiêm Thành khiến trăm họ phải phục dịch chuyên chở rất là cực nhọc, vất vả, sĩ tốt mắc phải chướng lệ chết không biết bao nhiêu mà kể. Bách tính kêu than, tứ dân1bỏ nghiệp. Kẻ nghèo bỏ con để cầu sống, người giầu bán sản nghiệp để ứng dịch. Dân khổ như bị treo ngược, mỗi ngày một tăng. Nay lại có việc đánh Giao Chỉ, điều động đến hàng trăm vạn người, tiêu phí không biết bao nhiêu bạc vàng, tiền của. Đó không phải là thương dân. Vả lại trong khi cử động, lợi hại không phải chỉ có một. Lại thêm Giao Chỉ thường sai sứ dâng biểu xưng phiên thần. Nên theo lời xin để hồi sức dân là thượng kế vậy. Không thế thì khoan nới phú thuế cho trăm họ, chứa lương thực, sắm giáp binh đợi đến sang năm, thiên thời lợi hơn chút nữa hẵng cất quân cũng chưa muộn…”.
Hốt Tất Liệt nghe đọc xong tấu biểu, nổi giận đùng đùng, nói:
– Chỉ là một tuyên uý ty mà dám bàn chuyện nọ kia, ngăn cản ý trẫm. Hợp Tán Nhi Hải Nha nghe mệnh.
Hợp Tán Nhi Hải Nha bước ra quỳ phục đợi mệnh. Hốt Tất Liệt nói tiếp:
– Trẫm phong ngươi làm quan khâm sai, đem kim bài đến bắt tuyên uý ty Hồ Nam về trị tội.
Hợp Tán Nhi Hải Nha bái lạy chịu mệnh nhưng chưa kịp đi, lại có thị thần báo rằng hành tỉnh Hồ Quảng cũng có tấu biểu dâng lên. Hốt Tất Liệt sai quan thị độc mở đọc, có đoạn rằng:
“…
Tỉnh tôi trấn giữ hơn bẩy mươi sở, luôn năm chinh chiến, sĩ tốt tinh nhuệ đều mệt nhọc ở
ngoài, còn lại ở các sở đều là già yếu, mỗi thành ấp không quá hai trăm, sợ nhỡ kẻ gian dò được hư thực đó. Năm ngoái, bình chương A Lý Hải Nha xuất chinh, thu lương ba vạn thạch, dân còn cáo bệnh, năm nay lấy nhiều gấp bội, quan không có tích trữ, mua ở dân thì trăm họ sẽ khổ cực khôn xiết. Nên theo ý dân hoãn việc Nam chinh…”.
Hốt Tất Liệt bảo Hợp Tán Nhi Hải Nha ở lại rồi hỏi triều thần rằng:
– Có hai bản tấu như vậy, các khanh hãy bàn xem nên như thế nào?
Tham tri Phàn Tiếp tâu rằng:
– Việc chính lúc này là đánh Giao Chỉ, chuẩn bị đã đâu vào đấy rồi, nên ra quân càng nhanh càng tốt. Đó là ý nguyện của tả thừa tướng.
Tham chính Ô Mã Nhi tâu:
– Lời quan tham tri Phàn Tiếp bàn rất phải. Quân ta đã như mũi tên lên dây cung rồi, bắn càng nhanh càng tốt, chớ để dùng dằng tên cùn cung gãy.
Trong võ ban, các đại tướng cũng muốn đi đánh. Hốt Tất Liệt vui vẻ nói:
– Các tướng đã quyết chí như vậy, ta sợ gì mà không ra quân. áo Lỗ Xích nhận mệnh!
áo Lỗ Xích chưa kịp bước ra, có một người bước lên, quỳ lạy dâng tấu biểu. Các quan quay nhìn xem ai. Hoá ra là lễ bộ thượng thư Lưu Tuyên. Hốt Tất Liệt hỏi:
– Lễ bộ thượng thư! Khanh còn gì để tấu trình nữa đây?
Lưu Tuyên không trả lời mà cứ phủ phục dâng tấu. Hốt Tất Liệt sai quan thị độc đọc lên cho mọi người cùng nghe. Tấu rằng:
“ Thần là lễ bộ thượng thư Lưu Tuyên muôn nghìn lo sợ dâng tấu lên thánh thượng đại hoàng đế nhà Đại Nguyên.
Nước ta mấy lần đánh Nhật Bản, trăm họ oán hờn, quan phủ nhiễu nhương. Mùa xuân năm nay bãi binh, quân dân Giang Triết mừng reo như sấm. An Nam là nước nhỏ, thần phục đã lâu năm, tuế cống chưa từng sai hẹn. Vì biên cương sinh sự hưng binh nên kẻ kia trốn chạy ra hải đảo, khiến cất đại quân đi mà không được công trạng gì, tướng sĩ tổn thương nhiều. Nay lại xuống mệnh đi đánh nữa, ai nghe thấy cũng lo sợ. Từ xưa, dấy quân tất phải theo thiên thời. ở Trung Nguyên, đất bằng còn phải tránh giữa mùa hạ. Giao Quảng là đất viêm chướng, khí độc hại người còn hơn gươm giáo. Nay định tháng Bảy hội các quân ở Tĩnh Giang tới An Nam, tất nhiều người mắc bệnh chết, khi cần kíp gặp giặc lấy gì ứng phó.
Giao Chỉ lại không có lương, đường thuỷ khó đi, không có xe ngựa trâu bò chuyên chở thì không thể tránh được khuân vác theo đường bộ. Một người phu gánh năm đấu gạo, đi về ăn hết một nửa, quan quân chỉ còn được một nửa. Nếu có mười vạn thạch lương, dùng bốn mươi vạn người cũng chỉ đủ lương cho quân ta ăn trong một hai tháng. Chuyên chở, đóng thuyền, phục dịch việc quân phải dùng năm mươi, sáu mươi vạn người. Quảng Tây, Hồ Nam bị điều động luôn, dân ly tán nhiều, lệnh cho cung dịch cũng không thể làm được. Huống chi Hồ Quảng rất nhiều khe động, vốn là nơi ẩn nấp của kẻ trộm cướp. Vạn nhất kẻ gian dò được, chờ lúc đại binh đi khỏi, thừa cơ gây biến. Tuy có quân mã bảo vệ nhưng toàn là già yếu mệt nhọc thì cự địch sao nổi.
Sao không nghĩ đến việc cùng người hiểu biết sự thể của phía quân bên kia mà bàn bạc phương lược vạn toàn. Không làm như vậy e rằng lại dẵm vào vết xe cũ.
Cẩn tấu”.1
Lời tấu vừa đọc xong không khác gì gáo nước lạnh đổ vào cái khí thế muốn đánh đang bốc lên hừng hực của đám võ quan. Hốt Tất Liệt nhíu mày giây lâu mới hỏi quần thần:
– Chư khanh thấy lời tấu của Lưu thượng thư thế nào?
Cả triều đình im phăng phắc. Ai cũng biết rõ những điều Lưu Tuyên trình tấu là hoàn toàn đúng sự thực, không thể phản bác. Lúc lâu sau có quan binh bộ thượng thư là Lương Tằng tâu rằng:
– Biểu tấu của Lưu thượng thư quả là thấu tình đạt lý. Nay quân ta chưa hội đủ, thuyền bè chưa chuẩn bị kịp, dân phu chuyển vận quân lương chưa sẵn sàng, ra quân ngay thế nào được.
Hốt Tất Liệt hỏi:
– Theo ý khanh cần chuẩn bị thêm những gì?
Lương Tằng tâu:
– Năm trước xuất binh không thu được thắng lợi là vì thuỷ binh quân ta không đủ để tác chiến trên chiến trường sông ngòi. Nay đã đóng thêm thuyền chiến nhưng có thuyền, có quân tất cần phải có tướng. Sở dĩ thuỷ quân của ta thường thất lợi là vì không có tướng chỉ huy giỏi thuỷ chiến.
Hốt Tất Liệt hỏi:
– Tướng như thế nào mới là giỏi thuỷ chiến?
Lương Tằng tâu:
– Tướng giỏi thuỷ chiến trước tiên phải hiểu điềm giời mưa gió, ở giữa biển khơi phải biết phương vị, tính được nước triều lên xuống mà thủ lợi cho mình, phải biết hành quân trên biển, bày trận trên sông, chỉ huy binh thuyền tiến thoái ẩn hiện khiến quân giặc không biết đâu mà lường, cách xa trăm bộ bắn chết kẻ đứng trên thuyền giặc.
– Như Ô Mã bạt đô có phải là tướng như vậy không.
– Ô Mã bạt đô, tham tri Phàn Tiếp, Đường Ngột Đải đều chỉ giỏi từng mặt chứ chưa ai được toàn diện.
– Các tướng An Nam có ai toàn diện không?
– Muôn tâu thánh thượng! Thuỷ binh chính là cái trụ cột của quân Nam nên họ có nhiều thuỷ sư rất giỏi, loại thượng hạng như Khánh Dư, Nhật Duật, Quốc Khang, Quang Xưởng phải kể hàng trăm.
– Các tướng của ta có ai được như vậy không?
– Các tướng của ta duy chỉ có một mình tả thừa Lý Hằng là so được với họ nhưng ông ấy không còn.
Hốt Tất Liệt nói:
– Quả đúng như vậy thì cần phải hoãn binh. Khi nào tìm đủ những thuỷ sư thượng hạng mới ra quân.
Liền xuống chỉ cho áo Lỗ Xích đình binh. Đại tướng thuỷ quân là A Thích Hãn tâu rằng:
– Thần biết một người có thể gọi là thượng hạng thuỷ sư. Nếu bệ hạ dung nạp được người ấy, thuỷ quân của ta không còn lo gì.
Các quan trong triều nghe nói vậy đều im lặng chờ đợi.
Thật là:
Tướng soái vẫn chưa làm nên chuyện
Thuỷ sư thượng hạng lại bày trò
Mời bạn đọc tiếp chương sau xem vị thuỷ sư mà A Thích Hãn tiến cử ấy là ai
1 Mạch hồng, mạch sác là những khái niệm chuyên môn của phép thiết chẩn trong Đông y.
1 Mộc Hoa Lê: Một danh tướng tin cậy nhất của Thành Cát Tư Hãn, là người đầu tiên được Thành Cát TưHãn phong tước vương vào năm 1215.
2 Nguyên sử- áo Lỗ Xích truyện.
3 Nhà Nguyên tưởng Trần Di ái bị giết nên mới viết như vậy. Thực ra Di ái chỉ bị đi đày làm lao dịch trong quân mà thôi.
1 Khi đánh nước Tống, A Lý Hải Nha bắt cho mình hàng vạn nô lệ và mỹ nữ để hầu hạ chăn gối. Về sau dưới áp lực của triều đình nhà Nguyên, A Lý Hải Nha phải thả một lúc hơn ba vạn nô lệ.
2 Bảy điều bất trị: Là bảy trường hợp y học không điều trị được, trong đó có điều rằng: “Người ốm tin thầy cúng mà không tin thày thuốc thì không thể chữa trị ”.
1 Tứ dân: Sĩ, nông, công, thương.
1 Các bản tấu lấy trong cuốn tư liệu Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng của nhà nghiên cứu Nguyễn Lương Bích. NXB Quân đội nhân dân.
Đ.T