Đât Việt trời Nam- tiểu thuyết lịch sử của Đan Thành – chương 46)

ĐẤT VIỆT TRỜI NAM (Chương 46)

Đan Thành

Mạc Lữ dâng mẹo chó biết cười

Mã Vi bày chiêu mỹ nhân kế..

 

ĐẤT VIỆT TRỜI NAM (Chương 46)

Đan Thành

Mạc Lữ dâng mẹo chó biết cười

Mã Vi bày chiêu mỹ nhân kế

Trần Nhân tông thấy Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng tâu vậy, mới hỏi:

– Chiêu Đạo định tiến cử người nào vậy?

Trần Quang Xưởng tâu:

– Thần nghĩ việc này không có ai phù hợp hơn đốc bộ Trần Thái Bảo. Người này lấy con gái an phủ sứ châu Cổ Pháp họ Lý, là Lý Châu Nương. Hiện hai vợ chồng cùng ở trong quân, dưới quyền của Nhân Huệ vương. Năm ngoái hai người ấy giữ thành Hoan châu, ít quân mà Toa Đô không làm gì được. Lý Châu Nương có chửa sắp đến ngày sinh vẫn ra trận, lấy đầu tướng Nguyên như hái trái bòng. Thật trên đời này ít có người đàn bà nào can trường như vậy, không hổ danh con cháu Trưng vương.

Trần Nhân tông chuẩn lời tấu ấy, cho sứ mang kim bài đến Vân Đồn phong cho đốc bộ Trần Thái Bảo làm tổng trấn doanh lương, vợ là Lý Châu Nương làm phó tổng doanh. Hai vợ chồng lập tức về Mễ sơn trấn giữ kho lương, điều phát cho các đạo quân thuộc lộ Bắc Giang. Nhà vua lại sai đến châu Cổ Pháp đón con trai của hai người ấy là Trần Trung Chiến về triều, nuôi dạy cùng các hoàng tử.

Bấy giờ ở Vân Đồn thương nhân làm ăn tấp nập, người Việt, người Hoa, người Gia Va và các hải quốc khác cũng đến buôn bán. Tiền của chẳng khác nào như nước trong biển, không sao kể xiết, rất hợp với sở thích của Trần Khánh Dư. Bữa ấy Khánh Dư cùng đốc bộ Trần Thái Bảo, Giang Phong, Hà Vinh, Phạm Bình đi tuần từ cửa Nam Triệu đến Vạn Ninh sơn. Hiếu Ngân cũng được đi trong đoàn quân ấy. Lúc trở về thấy thương khách mang nhiều hàng đến buôn bán trao đổi, Khánh Dư buột miệng nói:

– Mai sau thiên hạ thái bình, ta nhất định xin hoàng thượng cho trấn nhậm nơi này để buôn bán mới được.

Hiếu Ngân nghe vậy, thưa:

– Vương công muốn buôn bán, việc gì phải chờ đến mai sau.

Khánh Dư bảo:

– Bây giờ đang đánh giặc, chẳng chờ đến mai sau, biết làm thế nào?

Hiếu Ngân nói nhỏ với Khánh Dư rằng:

– Vương công phải làm thế này…thế này, vừa đánh được giặc vừa kiếm được tiền.

Khánh Dư nghe xong, phá lên cười, bảo:

– Ngươi đã nghĩ như thế, sao không cùng Quây Xẻn đi lo việc đi.

Hiếu Ngân liền đem hai mươi người lính, lên thuyền nhẹ về đón Quây Xẻn. Tất cả đều đổi mặc quần áo dân thường rồi dong buồm đi thẳng về Hồng Lộ. Lúc Khánh Dư về đến chợ Vân Đồn, thấy có một người khách phương Bắc đi chiếc thuyền nhỏ, trên thuyền có hai con chó còn non. Con non hơn bụ bẫm, lông ngắn đỏ sẫm như lửa, cụt đuôi, chân thẳng, mũi màu hồng, nằm ngủ lim dim, thỉnh thoảng mút mút môi như muốn bú, chắc là mới tách mẹ. Con còn lại lớn hơn, hai mắt sáng quắc, đi đứng oai vệ, đuôi dài hơi cong như lưỡi kiếm, lông dày màu xám đậm, lúc nào đôi tai cũng dỏng lên như nghe ngóng điều gì ở tận nơi xa. Mới trông đã thấy ngay đó là con chó nòi rất quý. Hà Vinh bảo:

– Hai con chó kia đẹp quá. Ta mua về nuôi, sau này dùng trong quân cũng có lúc được việc.

Trần Thái Bảo nói:

– Anh nói đúng, tôi cũng thích nuôi một con. Ta hỏi mua, chắc là họ bán.

Hà Vinh nghe theo, hỏi. Người kia nói giá con nhớn một quan tiền thượng cung, còn con nhỏ chỉ có hai đồng. Hà Vinh cậy có nhiều tiền nên mua luôn con chó nhớn mà không cần mặc cả. Thái Bảo bế con kia lên, nói:

– Còn non thế này chẳng biết có nuôi được không? Thôi tôi chỉ có một đồng.

Thái Bảo nói đùa thế, chẳng ngờ người khách cũng đồng ý bán, chàng mới mua về làm quà cho vợ. Lý Châu Nương ở nơi đồn trú, phải xa con nên không khỏi nhớ nhung, nay có con chó con để nuôi thì mừng vui vô cùng. Hai vợ chồng chăm bẵm như nuôi đứa con nhỏ, đặt tên là Tiểu Mãnh. Hà Vinh mua được con chó quý, khoái lắm, đi đâu cũng cho theo, chiều chiều dắt ra bờ biển chạy chơi, luyện tập. Hà Vinh lại khéo nuôi dạy, con chó lớn đến đâu khôn ranh đến đấy, chẳng mấy chốc nó thuộc hết các khẩu lệnh mà Hà Vinh ban ra, lúc nào cũng đứng bên chủ như người lính túc vệ.

ít ngày sau, Trần Khánh Dư họp các tướng, nói rằng:

– Sau cuộc tuần thám vừa qua, ta thấy các đồn ải của quan binh đã ổn cả nhưng các đạo hương binh ở các trang ấp chưa thật nghiêm chỉnh, chúng ta nên chia nhau đến các nơi ấy uốn nắn lại cho họ.

Các tướng không hiểu ra sao, cứ thế thi hành, Khánh Dư cũng thân đi đốc thúc. Qua vài ngày mọi việc xem ra đã có kết quả, Khánh Dư tập trung xã quan trong các hương ấp lại, nói rằng:

– Ta rất khen việc luyện tập của hương binh các trang nhưng dân sĩ ở đây đội kiểu nón trông cứ na ná như người Tống. Quân đóng ở Vân Đồn là để ngăn phòng giặc Hồ, không thể đội nón của người phương Bắc, sợ khi vội vàng khó lòng phân biệt, nên đội nón Ma Lôi1. Ai trái lệnh tất phải phạt2. Hẹn trong ba ngày không còn ai được đội nón phương Bắc nữa.

Mọi người đều nói:

– Chỉ có ba ngày làm sao mua đủ nón cho hàng mấy nghìn hương binh.

Khánh Dư không nói gì thêm, chỉ ngồi cười mủm mỉm. Lát sau thấy mấy người khách có vẻ từ phương xa tới, người nào cũng đội nón Ma Lôi. Bọn tráng đinh liền kéo nhau ra hỏi xem họ mua nón ấy ở đâu. Mấy người khách lạ chỉ tay về phía chiếc thuyền trên bãi biển, bảo:

– Hôm qua thấy trước vụng biển có thuyền chở nón Ma Lôi đậu3.

Dân đinh trong các trang, cùng những thương khách nghe vậy, tranh nhau tìm đến mua nón. Lúc đầu đám lái nón bán chỉ có vài tiền một chiếc, về sau đông người mua quá, giá tăng dần lên đến một tấm vải một chiếc. Số vải thu được có tới hàng nghìn tấm. Không ai ngờ rằng đám lái nón cùng những người khách lạ vào làng hôm trước toàn là người của bọn Hiếu Ngân, Quây Xẻn do Trần Khánh Dư cử đi. Hôm sau Khánh Dư lại cho người đem chỗ vải đi bán, thu được không biết mấy nghìn quan tiền. Khánh Dư còn làm nhiều việc tương tự như thế nữa. Bọn Hà Vinh cũng bắt chước, mưu việc tư lợi cho mình. Về sau dân buôn nước ngoài đều lắc đầu lè lưỡi về những thủ đoạn kiếm tiền của Khánh Dư, họ làm thơ chế giễu có câu rằng:

Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh

Nghĩa là:

Vân Đồn gà chó đều khiếp sợ

Vì thế những người không hiểu hết nhẽ cho rằng Trần Khánh Dư tính tham lam, thô bỉ4. Thực ra mỗi lần thu được khoản lãi lớn, Khánh Dư đều mở tiệc mời các tướng đến dự, lại chia phần cho mọi người. Tỷ như vụ buôn nón, bọn Trần Thái Bảo, Hà Vinh cùng các tướng khác đều được chia mỗi người mười quan tiền. Ngô Kế Trung thấy vậy, nói với Trần Khánh Dư rằng:

– Quân ta thu nhiều tiền của dân quá, sợ mất lòng bách tính.

Khánh Dư cười, xua tay nói:

– Không sao! Không sao. Dân ở đây đều là thương nhân giầu có lắm, có lấy thế chứ lấy nữa cũng không ăn thua gì.

Buổi chiều hôm ấy vợ chồng Trần Thái Bảo bế con Tiểu Mãnh đi dự tiệc. Ai trông thấy cũng khen con chó đẹp quá. Đoàn Hoa thấy con chó xinh, muốn bế nhưng nó sủa ách ách rồi nguỷnh đi, ra vẻ không cho, chỉ quấn quýt quanh chân bà chủ, làm mọi người bật cười. Đoàn Hoa bảo:

– Con chó này bé mà đã khôn thế, sau này nhớn lên thì phải biết.

Hà Vinh thấy mọi người chỉ khen con Tiểu Mãnh, liền bảo:

– Con Đại Ngao của tôi còn khôn hơn nhiều.

Một người bác lại:

– Con này đến lúc nó nhớn bằng con của anh chắc khôn hơn con của anh nhiều ấy chứ.

Trần Thái Bảo đã ngà ngà say, vui miệng xác nhận:

– Đúng vậy! Bây giờ nó đã khôn không kém gì con Đại Ngao rồi.

Giang Phong cũng nói chen vào:

– Có khi khôn hơn con Đại Ngao ấy chứ.

Trần Thái Bảo sướng quá, cười, nói:

– Đúng!

Hà Vinh tức sôi máu, thách Trần Thái Bảo:

– Anh có dám thi xem chó của ai khôn hơn không?

Thái Bảo cả cười, bảo:

– ố ồ! Tưởng gì. Thi thì thi. Chuyện nhỏ như con cạc cạc.

Hà Vinh hăng hái nói:

– Anh nào thua phải mất chó cho anh thắng?

Thái Bảo đang có hứng, chẳng cần nghĩ lâu, nhận lời ngay:

– Mất chó thì mất chó. Sợ quái gì. Chiều mai ra bãi biển phía Tây.

Lúc trở về, tỉnh rượu, Thái Bảo nghĩ ra: “Chó của mình là chó con chưa biết gì, làm sao thi được với con Đại Ngao của Hà Vinh ngày nào cũng được luyện tập. Phen này chắc là mất toi con Tiểu Mãnh”. Càng nghĩ càng buồn, nét mặt rầu rầu không muốn nói. Nguyễn Vu thấy vậy, hỏi:

– Quan đốc bộ vì sao buồn đến như vậy?

Trần Thái Bảo nói:

– Hôm nay trong tiệc rượu, say quá, ta nhận lời thi chó khôn với Hà Vinh nhưng chó của ta chưa được rèn luyện bao giờ. Chắc thua mất thôi. Mất con chó này, ta thì không sao nhưng Lý Châu Nương chắc là buồn lắm. Ngờ đâu lời khen của mọi người lại hoá ra báo hại cho ta.

Nguyễn Vu bảo:

– Mạc Lữ là người nhiều mưu mẹo. Đốc bộ thử hỏi anh ta xem sao.

Thái Bảo nghe theo, liền cho lính đi tìm Mạc Lữ đến, kể lại sự tình cho nghe. Mạc Lữ tươi cười, nói:

– Không khó! Không khó. Ngày mai đốc bộ cứ làm thế này… thế này, nhất định thắng.

Thái Bảo nghe xong, cười lớn, khen:

– Khá lắm! Khá lắm. Mưu mẹo của ngươi đến quỷ thần cũng không biết đâu mà lường, từ cổ chí kim không ai sánh bằng.

Chiều hôm sau trời đẹp lại ít gió, mặt biển phía Tây đảo Vạn Hoa phẳng như mặt hồ, các tướng lĩnh cùng binh lính hết giờ luyện tập, nghe nói có cuộc thi chó, kéo nhau đến xem đông lắm. Trần Thái Bảo bế con Tiểu Mãnh trên tay, thỉnh thoảng lại âu yếm vuốt ve cái đầu tròn vo của nó. Con chó khoái chí, liên tục thè cái lưỡi đỏ hồng liếm tới tấp vào tay chủ. Cử chỉ trông thật ngộ nghĩnh đáng yêu khiến mọi người đều thích thú nhưng cũng rất lo lắng. Hà Vinh đi vào giữa bãi. Con Đại Ngao luôn đi sát bên chủ, trông nó đường bệ oai phong lắm. Khi đến trước Thái Bảo, Hà Vinh cười khẩy với thái độ của kẻ nắm chắc phần thắng, nói:

– Thế nào? Quan đốc bộ có muốn đổi ý hãy còn kịp đấy.

Trần Thái Bảo nhếch mép cười, nói:

– Làm gì có chuyện đổi ý bao giờ.

Hà Vinh bảo:

– Thế thì thi thôi chứ.

Thái Bảo nói:

– Đương nhiên là như vậy. Nhưng đã có cuộc thi, phải có người cầm trịch mới công bằng.

– Anh muốn mời ai cầm trịch đây?

– Ai cũng được nhưng tốt nhất mời Giang Phong, Giang Vân, Vương Thanh, Đoàn Hoa. Thi như thế nào để họ quyết định.

Bốn vị cầm trịch được mời ra. GiangPhong làm trưởng trò, nói:

– Xin trưởng giáp Hà Vinh cho biết con Đại Ngao của ngài làm được những trò gì.

Hà Vinh nói:

– Thưa các vị cầm trịch, thưa anh em. Mọi người ở đây đều đã biết con Đại Ngao của tôi hiểu được tiếng người, có thể sai bảo được, khôn ranh chưa từng thấy. Ngài cứ cầm đoạn gỗ này quẳng ra biển rồi bảo: “Xương đấy! Lấy về đây” là nó bơi ra mang ngay về cho ngài.

Giang Phong hỏi Thái Bảo:

– Con Tiểu Mãnh của ngài đốc bộ có làm được như vậy không?

Thái Bảo ung dung trả lời:

– Con Tiểu Mãnh của tôi còn làm được hơn như thế. Thậm chí nó còn biết cười những ai nói dối nó.

Mọi người nghe nói vậy, không ai tin, nhưng vì các tướng cùng anh em binh lính ghét Hà Vinh hay hợm mình nên họ muốn con Tiểu Mãnh thắng cuộc. Giang Phong nói:

– Ta bắt đầu thi nhé. Xin mời con Đại Ngao ra thi trước.

Hà Vinh dẫn con chó ra đúng chỗ đánh dấu trên cát. Giang Phong đứng bên, cầm đoạn gỗ quẳng ra xa mấy chục trượng ngoài mặt biển, ra lệnh:

– Đại Ngao! Xương đấy. Ra lấy về đây.

Hà Vinh suỵt suỵt. Con Đại Ngao vút đi như một mũi tên, nó lao thẳng xuống nước, bơi ra ngoặm đoạn gỗ quay về đúng chỗ đã xuất phát. Mọi người vỗ tay rầm trời, tán thưởng. Hà Vinh sung sướng bón cho nó một miếng cá khô. Giang Phong gọi tiếp:

– Xin mời con Tiểu Mãnh vào vị trí.

Thái Bảo đặt con Tiểu Mãnh vào đúng vạch xuất phát. Giang Phong quăng đoạn gỗ ra biển, rồi cũng nói:

– Tiểu Mãnh! Xương đấy. Ra lấy về đây.

Thái Bảo buông tay. Con Tiểu Mãnh chẳng chạy đi lấy đoạn gỗ mà cứ quấn quít lấy chân Giang Phong, ngoáy tít mẩu đuôi cụt ngủn. Bọn Nguyễn Vĩ Dương, Vũ Hàm ở phe Hà Vinh reo lên:

– Tiểu Mãnh không biết làm gì, thua rồi, thua rồi!

Bọn Nguyễn Vu, Mạc Lữ, Lê Bá, Lê Bách thì reo lên:

– Tiểu Mãnh thắng rồi! Tiểu Mãnh thắng rồi. Nó biết đô uý Giang Phong nói dối nó nên nó cười đấy.

Hà Vinh cáu tiết, bảo:

– Các anh chỉ nói bậy. Con Tiểu Mãnh có biết làm gì đâu, đuôi cứ ngoáy tít chứ cười cái gì mà cười.

Mạc Lữ cãi:

– Trưởng giáp nói sai rồi. Ngài đô uý cầm đoạn gỗ lại nói dối nó là xương đấy, nên nó không tuân lệnh mà ngoáy đuôi để cười. Chẳng lẽ trưởng giáp không biết câu “Ngựa cười bằng vó, chó cười bằng đuôi” hay sao?

Giang Phong giơ tay lên khua khua, nói:

– Thôi! Các anh hãy im lặng để tổ cầm trịch bàn xem đã!

Giang Vân, Vương Thanh, Đoàn Hoa trong tổ cầm trịch đều nói:

– Lời Mạc Lữ nghe có lý lắm.

Giang Phong mới đứng lên chỗ cao tuyên bố:

– Con Đại Ngao chỉ biết tuân lệnh một cách máy móc chứ không phân biệt được lời nói thật giả như con Tiểu Mãnh. Tôi tuyên bố con Tiểu Mãnh khôn hơn đã chiến thắng.

Hà Vinh tức quá, nói:

– Không thể có chuyện vô lý thế được. Tôi không chịu.

Anh em binh lính nói ồn cả lên:

– Ơ! Trưởng giáp trây thế.

– Trưởng giáp thua rồi, trả chó cho đốc bộ đi.

Giang Phong bảo Hà Vinh:

– Ngài trưởng giáp có nghe thấy anh em binh lính người ta nói gì không?

Hà Vinh nói:

– Tôi không chịu! Việc này phải nhờ vương công xử cho mới được.

Binh lính lại nói úm lên:

– Vương công có xử cũng thế thôi. Rõ ràng con Đại Ngao không khôn bằng con Tiểu Mãnh.

Mọi người kéo đến tướng doanh. Lúc ấy Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư vừa thu được những món lời lớn, tiền bạc xủng xoẻng nên cái bệnh phong tình nó lại hành hạ, đang ngồi cùng Hiếu Ngân, Quây Xẻn bàn chuyện mời bọn nhà trò, ả đào đến hát, thấy ngoài cổng doanh có tiếng ồn ào, mới ra hỏi:

– Các ngươi đến đây có chuyện gì mà ồn ã thế?

Hà Vinh quỳ xuống thưa hết sự tình và nói thêm rằng:

– Mấy anh cầm trịch vì thiên vị nên xử chẳng công bằng.

Trần Khánh Dư vốn hay ăn của đút của cha con Hà Vinh nhưng cũng không ưa gì bọn này, lại đang bận lo việc kiếm cho được mấy ả đào xinh đẹp, không muốn ai quấy rầy mình nhưng thấy hay hay, cũng bảo:

– Được! Để ta xử lại cho ngươi. Nào! Các ngươi hãy im lặng. Đốc bộ Trần Thái Bảo cùng bốn vị cầm trịch hãy lên cả đây.

Đám binh lính dãn cả ra cho mấy người đi lên phía trước. Nhân Huệ vương hỏi Giang Phong:

– Những điều Hà Vinh vừa nói, ngươi có nghe thấy không?

Giang Phong nói:

– Thưa vương công đúng là như vậy, nhưng Hà Vinh cứ khăng khăng cho là con Đại Ngao khôn hơn thì không phải.

Nhân Huệ vương hỏi đám binh lính:

– Các ngươi thấy thế nào?

Đám binh lính đều hô lên:

– Đô uý Giang Phong nói đúng.

Nhân Huệ vương bảo Hà Vinh:

– Người cầm trịch công bằng nhất chính là công chúng. Ngươi không nên cãi nữa mới phải.

Nhân Huệ vương nói xong phẩy áo quay vào dinh. Anh em binh lính vui vẻ đồng thanh hô:

– Vương gia thiên tuế! Vương gia thiên tuế.

– Trưởng giáp trả chó cho đốc bộ.

Mạc Lữ thấy Hà Vinh có vẻ lưu luyến con Đại Ngao lắm, mới đứng ra điều đình rằng:

– Quan đốc bộ đã có con chó khôn ngoan lắm rồi, chẳng cần con chó khờ khạo ngốc nghếch này làm gì. Ngài trưởng giáp muốn giữ chó lại thì bỏ mười quan tiền ra chuộc, đốc bộ cũng ưng cho.

Hà Vinh ưng bỏ ra mười quan tiền chuộc nhưng trong lòng uất ức lắm, lại nghĩ Nhân Huệ vương chỉ vờ vĩnh để ăn hối lộ của cha mình mà thực chất chẳng bênh vực cho mình tí nào, nên rất hận. Trần Thái Bảo có mười quan tiền, liền bảo Mạc Lữ mang xuống nhà bếp nhờ mua thêm thức ăn cho anh em binh lính, thành ra tự nhiên trong trại quân mọi người được một bữa thịnh soạn. Nhân Huệ vương thấy bữa ấy có nhiều món, hỏi nhà bếp. Mấy anh hoả đầu quân cứ thực tình kể lại. Khánh Dư bảo:

– Cái thằng Hà Vinh này không phải chó của nó ngu mà là nó ngu.

Đấy là chuyện của mấy tháng về trước. Bây giờ con Tiểu Mãnh đã nhớn vượt con Đại Ngao. Nó to lớn lạ lùng, bốn chân dài mà thẳng, cổ cao, tiếng vang, mỗi khi đứng nghến lên nghe ngóng trông vô cùng kiêu dũng. Anh em binh lính ai cũng thích chơi với nó. Đến khi vợ chồng Trần Thái Bảo nhận chiếu chỉ của nhà vua về Mễ sơn giữ kho lương, anh em binh lính xin cho Tiểu Mãnh ở lại đảo. Trần Thái Bảo nể anh em nên chiều theo nhưng khi thuyền nhổ neo, Tiểu Mãnh rứt đứt dây xích bơi theo vào đến tận bờ. Trần Thái Bảo đành mang nó đi.

Đây nói Diệc Mã Lạt Đan ở Đại Việt về Yên Kinh, tâu với Hốt Tất Liệt rằng:

– Quân dân Giao Chỉ chẳng hề sợ hãi, đâu đâu cũng luyện tập quân lính, chỗ nào cũng nói lời “sát Thát”. Chúng còn làm hình nộm quân ta để tập bắn. Khí thế rất là rầm rộ. Trần Quốc Tuấn cho lính thợ đúc, chế hoả pháo để đánh lại quân ta.

Hốt Tất Liệt nổi giận đùng đùng, phán:

– Vậy trẫm phải cho cất quân ngay. Tất cả quần thần, ai can đều chém!

Nói xong xuống chỉ cấp thêm cho Thoát Hoan bốn nghìn con chiến mã1, lại phong cho A Bát Xích làm chinh Giao Chỉ hành tỉnh Hữu thừa. Binh bộ thượng thư là Lương Tằng tâu rằng:

– Quân ta hai lần đánh Giao Chỉ đều thất lợi, đi chuyến này không thể để người Nam coi thường được. Xin hoàng thượng cử thêm tướng tài để cầm quân.

Hốt Tất Liệt hỏi:

– Theo khanh nên cử thêm ai đi nữa?

Lương Tằng tâu:

– Thần cho rằng Trình Bằng Phi, A Lý đều là những hổ tướng đời nay, nên phong chức cho họ mà cử đi.

Hốt Tất Liệt chuẩn tấu, phong cho Trình Bằng Phi làm hữu thừa, A Lý làm tả thừa, sai mang quân đi, lại chỉ dụ cho các tướng được mang theo vợ con sang Đại Việt để chiếm đất ở lâu dài. Ngày hôm sau phong cho Bất Nhan Lý Hải Nha làm tham tri chính sự và ban cho A Bát Xích một nghìn quân tân phục để làm lính túc vệ. Giữa năm Đinh Hợi (1287), các đạo quân được tổ chức biên chế xong. áo Lỗ Xích về triều, tâu với vua Nguyên rằng:

– Quân ta nay đã như mũi tên trên dây cung. Xin hoàng thượng ban lệnh xuất phát.

Hốt Tất Liệt liền cho thảo chiếu xuất quân. Chiếu chưa thảo xong, có tin sứ thần Đại Việt tới. Các quan trong triều người bảo nên tiếp sứ, người lại nói nên chém sứ rồi cất quân ngay để thị uy, người khác lại bảo cứ tống sứ An Nam vào ngục. Thượng thư Sài Thung tâu rằng:

– Quân ta với quân Nam bây giờ đã ở cái thế không có gì để bàn nữa rồi. Hoạ chăng chúng có muốn hàng thì cho sứ sang thôi. Xin thánh thượng cứ cho sứ vào yết kiến, biết đâu chúng chẳng dâng hàng biểu.

Hốt Tất Liệt nghe lời tấu ấy mới truyền chỉ cho sứ An Nam vào. Đoàn sứ bộ Đại Việt lần

này do trung đại phu Nguyễn Văn Thông2 làm chánh sứ, thông thị đại phu Lê Trọng Khiêm làm phó sứ cứ ung dung tiến vào, tung hô vạn tuế và xưng là ngoại thần. Hốt Tất Liệt đập án, hỏi:

– Nhà ngươi có phải mang biểu thư của Nhật Huyên đến xin hàng không?

Nguyễn Văn Thông nói:

– Nước nhỏ sang sứ nước lớn đương nhiên là có biểu thư của nhà vua nhưng không phải cầu hàng hay cầu hoà gì cả mà yêu cầu nhà vua hãy theo chiếu trước, đình binh để trăm họ hai nước được yên ổn làm ăn. Còn một khi nhà vua cứ cố chấp cho quân sang, việc năm trước có diễn lại, đừng trách người nước tôi vô lễ.

Hốt Tất Liệt nói:

– Nay nước ngươi đã quá điêu hao mà quân ta binh hùng trăm vạn, tướng giỏi nghìn viên, thuyền đi biển nhiều tựa lá rừng. Cái cơ nước mất nhà tan của vua tôi nhà ngươi đã quá rõ ràng, sao không chịu quy phục mà còn giơ mãi còng châu chấu đòi cản bánh xe ư?

Nguyễn Văn Thông nói:

– Nghe đến trăm vạn hùng binh của nhà Nguyên như hùm như sói, ai không sợ nhưng ở chốn chiến trường tình thế thay đổi tựa cuộc cờ, việc thắng thua nào ai lường trước được.

Hốt Tất Liệt nói:

– Nếu nhà ngươi chưa tin vào sự thắng lợi của quân ta, hãy ở lại Trung Nguyên làm quan mà nhìn thời cuộc, kẻo về nước cháy thành vạ lây lại không kịp nhìn cái cảnh cả nước An Nam sẽ thành bình địa.

Nguyễn Văn Thông nói:

– Cảm ơn nhà vua đã có lời khuyên nhưng kẻ trượng phu nhận mệnh đi sứ, có lẽ đâu lại tham một chức quan ở ngoại quốc bao giờ.

Hốt Tất Liệt thấy không áp đảo được Nguyễn Văn Thông, liền giữ phái đoàn sứ bộ của Đại Việt lại rồi phát lệnh tiến binh.

Mùa Thu ngày mồng ba tháng chín năm Nguyên Chí Nguyên thứ hai mươi bốn (11-10-1287), binh bộ thượng thư nhà Đại Nguyên là Lương Tằng đọc chiếu mệnh của vua Hốt Tất Liệt phái thái tử Thoát Hoan cùng bình chương áo Lỗ Xích mang năm mươi vạn quân thủy bộ chia làm ba đường sang đánh Đại Việt. Hốt Tất Liệt lại ban chỉ dụ cho các tướng lĩnh rằng:

– Không được để quân sĩ cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà xem thường1.

Thoát Hoan mang cờ hiệu đại soái lên tướng đài phát lệnh:

– Đạo đại quân do bình chương áo Lỗ Xích chỉ huy. Ta đi theo đoàn quân ấy, xuất phát từ Ngạc châu theo đường Quảng Tây tiến vào ải Khả Lan Vi, chiếm Lạng châu rồi tiến sâu vào đất An Nam. Đạo quân Vân Nam do hữu thừa ái Lỗ chỉ huy, theo đường Mã Quan đánh vào ải Quy Hoá, cứ dọc sông Thao mà tiến, hội sư ở Vạn Kiếp. Đạo thuỷ binh do các tham tri Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy, theo ven bờ bể vào cửa Bạch Đằng rồi cũng lên Vạn Kiếp hội quân. Vạn Hộ hầu Trương Văn Hổ thống lĩnh bẩy mươi đại hải thuyền, chở mười bảy vạn thạch lương thảo cùng toàn bộ quân cụ đi theo, có các tướng Mã Vi, Trương Ngọc, Lưu Khuê cùng đi hiệp ứng. Tiến binh!

Lệnh vừa phát ra. Các quân thủy bộ nhất loạt xuất phát. Tiếng trống hoà với tiếng vó ngựa vang động đất trời, tưởng như núi lở rừng tan. Dân chúng, cha mẹ vợ con binh lính đứng chật hai bên đường tiễn đưa, khóc lóc như mưa như gió, thật là thảm thiết thê lương không sao tả nổi, không ít người nói lời oán trách Hốt Tất Liệt là kẻ cuồng chiến, gieo hoạ cho dân. Lúc bấy giờ lễ bộ thượng thư Lưu Tuyên vẫn còn bị giam trong ngục, nghe nói Thoát Hoan đã mang quân đi, than rằng:

– Nhà Nguyên ta lại chịu một lần đại họa nữa đây.

Viên quan coi ngục bảo rằng:

– Thái tử đi lần này quân đông, tướng mạnh, bình định xong Giao Chỉ như thể trò đùa, làm sao mà đại hoạ được.

Lưu Tuyên bảo:

– Tướng mạnh, quân đông chỉ là cái vẻ hùng hổ bề ngoài, còn nhân tâm dân nước oán vọng ấy là sự mục ruỗng từ trong. Ta quyết với ngươi rằng thái tử đi lần này còn bi thảm hơn lần trước đó. Mong sao lời ta nói là sai nhưng nếu ta nói đúng, khi ta chết, ngươi nhớ thắp cho mấy nén hương.

Đây nói đạo quân thuỷ bộ do đại thuỷ sư đô đốc tham chính Ô Mã Nhi, đại thủy sư phó đô đốc tham chính Phàn Tiếp chỉ huy gồm năm vạn chiến binh, hai vạn thuỷ thủ, áp tải thuyền lương của đại thủy sư vạn hộ Trương Văn Hổ xuất phát cùng quân kỵ bộ của Thoát Hoan, áo Lỗ Xích từ Ngạc thành, đến Quỳnh châu được bọn quan lại địa phương người Lê nghênh đón. Thoát Hoan nói:

– Ta đang hành quân gấp, không có thời gian nghỉ lại, hẹn các ngươi khi bình xong phương Nam sẽ quay về cùng vui chơi cho thoả.

Một người trong số các tướng ở địa phương bước ra nói rằng:

– Có chiếu chỉ của hoàng thượng sai ba chúng tôi đem một nghìn bảy trăm quân cùng một trăm hai mươi thuyền chiến đón thái tử ở đây để cùng đi đánh An Nam. Tôi là Trần Trọng Đạt an phủ sứ lộ Quỳnh châu. Vị này là Bồ Tý Thành tổng quản quân dân Diên Lan. Còn vị kia là Tạ Hữu Khuê tổng quản quân dân Nam Ninh.

Thoát Hoan vui vẻ nói:

– Tốt lắm! Tốt lắm. Các ngươi hãy đi theo cánh quân của đại đô đốc Ô Mã Nhi.

Ngay ngày hôm ấy Thoát Hoan ra lệnh tiếp tục hành quân. Ngày hai mươi tám tháng Mười đến huyện Lai Tân1. ở đây đường bộ tách khỏi đường thuỷ nên đạo quân của Ô Mã Nhi tách ra đi riêng đến Khâm châu. Đoàn thuyền gần nghìn chiếc kéo một hàng dài lênh đênh trên biển. Vợ con thê thiếp của các tướng lĩnh nhiều người say sóng không chịu được, nôn ốm tưởng muốn chết. Trương Văn Hổ hiến kế cho kết mười hai thuyền lớn thành một bè để gia đình các tướng ở. Quả nhiên chiếc bè ấy đã giúp được bọn người nhà các tướng không bị sóng biển hành hạ. Phàn Tiếp lại cho đón bọn ca kỹ, phường trò lên bè diễn múa mua vui cho các phu nhân cùng các công tử, tiểu thư. Các tướng vì vậy yên lòng bàn việc tiến xuống phương Nam. Trước khi tiến vào vùng biển Đại Việt, Ô Mã Nhi hội các tướng thương nghị, nói:

– Quân ta đã đến gần đất Nam. Tướng giữ vùng biển này là Trần Khánh Dư, năm trước đã đánh nhau với nguyên soái Toa Đô. Ta nghe nói y là một kiện tướng có tài thuỷ chiến. Các tướng có kế gì để thắng được hắn không?

Trương Văn Hổ nói:

– Bẩy mươi thuyền lương của ta thuyền nào cũng chở nặng, nếu đi cùng một đoàn khi gặp quân Nam, rất khó xoay xở, chi bằng hãy chia ra làm ba đội. Từ Khánh dẫn mười thuyền chở lương cùng quân cụ, theo sát với nguyên soái để kịp thời cấp phát cho các thuyền quân trên dọc đường đi. Tôi xin lĩnh đội chính gồm năm mươi thuyền chở lương đi tiếp theo, cuối cùng là mười thuyền cỏ ngựa do Phí Củng Thần giữ. Như vậy có xảy ra tác chiến cũng dễ ứng phó.

Ô Mã Nhi nghe theo kế ấy. Lại có tướng Mã Vi hiến kế rằng:

– Tôi nghe bọn thương khách nói Trần Khánh Dư tuy là một danh tướng nhưng có nhiều tật xấu, thích buôn bán kiếm lời, mà lại hiếu sắc không ai bì kịp. Đấy chính là chỗ ta có thể thi hành được kế mỹ nhân.

Trương Ngọc nói:

– Nhà Trần dâng Trần Thị Dung mà chiếm được nước của nhà Lý, gả công chúa Ngoạn Thiềm mà Nguyễn Nộn phải chết, hiến công chúa An Tư mà thái tử của ta phải bại. Xem đấy thì biết họ giỏi dùng kế mỹ nhân biết chừng nào. Tôi sợ chiêu thức của Mã tướng quân khó thành.

Mã Vi nói:

– Con rùa rùa thè lưỡi làm mồi để câu con cá, thế nhưng chính nó lại ăn mồi của lão ngư ông. Với tính cách của Trần Khánh Dư, tôi cam quyết rằng mưu kế ắt thành.

Ô Mã Nhi cười, nói:

– Chẳng lẽ Trần Khánh Dư lại thích gái đẹp hơn ta. Nhưng bây giờ lấy đâu ra mỹ nhân mà đòi hành kế?

Mã Vi nói:

– Mỹ nhân có rồi nên tôi mới đặt chiêu như vậy.

Ô Mã Nhi tròn mắt, vểnh râu, hỏi:

– ở đâu có của quý ấy?

Mã Vi bảo:

– Tình thực xưa kia tôi có cùng một người con hát tên là Yến Nhi say đắm nhau lắm nhưng thế thời ly loạn, xa cách mấy năm, chẳng ngờ hôm trước trông thấy xuống thuyền, hiện đang diễn trò cho các phu nhân xem. Nếu đem người này làm mồi câu, thế nào Khánh Dư cũng mắc.

Ô Mã Nhi liền sai lính gọi Yến Nhi đến, quả nhiên là một người con gái vô cùng xinh đẹp, môi son má phấn, mắt phượng mày ngài, tóc tựa mây bay, da dường tuyết nhuốm, thân hình thon thả thanh tao, bước đi thướt tha như cành liễu đong đưa. Các tướng trông thâý, ai cũng há mồm nhìn, không nói được câu gì. Yến Nhi đã cúi đầu chào mà Ô Mã Nhi còn ngây ra, giây lâu mới cất được lời, bảo Mã Vi:

– Thôi! Việc này ta giao cho ngươi.

Yến Nhi ra rồi, Ô Mã Nhi bảo:

– Mẹ kiếp! Ngon ngọt thế mà phải dâng cho thằng phải gió Khánh Dư!

Các tướng ai cũng tiếc rẻ. Mã Vi nhận lệnh, đưa Yến Nhi về phòng riêng, giả vờ đau khổ cầm tay người đẹp, nói rằng:

– Hai chúng ta xa cách đã ba bốn năm trời, nay được gặp nhau ở đây tưởng trời xui đất khiến cho loan phượng trùng phùng, không ngờ đại thuỷ sư đô đốc muốn cử nàng ra giúp việc quân. Nàng nghĩ thế nào?

Yến Nhi nói:

– Tiện nữ năm xưa ơn nhờ tướng quân nâng đỡ, lòng những tri ân, tưởng rằng đã có chỗ nương thân, cũng vì ly loạn mà phải chia lìa nhưng thật không khi nào nguôi nỗi nhớ nhung. Nay gặp nhau đây, chàng có việc gì sai đến, thiếp nguyện xin theo. Chỉ hiềm một nỗi thiếp là phận liễu bồ, ở trong quân biết giúp gì cho chàng được.

Mã Vi vẫn giữ nét mặt rầu rầu, nói:

– Nàng ơi! Chuyện này nói ra đau lòng lắm. Hay là ta đành chịu tội với đô đốc chứ chẳng nỡ để nàng phải thiệt thòi.

Yến Nhi tưởng Mã Vi đau lòng thật mới nói quyết rằng:

– Có việc gì giúp được tướng quân, dẫu thiếp thịt nát xương mòn cũng chẳng dám từ.

Mã Vi thấy Yến Nhi thành thực như vậy, trong lòng sướng tựa mở cờ nhưng còn thổn thức hai ba lần rồi mới từ từ thổ lộ:

– Nàng ạ! Quân ta nay đã gần vào đến vùng biển của người Nam nhưng ngại vì tướng Nam là Trần Khánh Dư trí dũng song toàn, khó bề thắng được nên đô đốc còn trù trừ chưa dám khinh tiến. Nếu nàng vì ba quân mà chịu sang lung lạc Khánh Dư, công ấy thật đứng đầu các tướng.

Yến Nhi nói:

– Việc đô đốc đã sai, thiếp đâu có dám từ. Chỉ tiếc rằng hai ta xa cách bao năm, nay lại phải chia tay, biết khi nào gặp lại.

Mã Vi nói:

– Nàng ơi! Nếu nàng giúp cho quân ta chóng lập đại công chỉ trong vòng nửa năm là chúng ta lại được gặp nhau mà thôi. Tuổi xanh còn dài, lo gì không có lúc ta bù đắp cho nàng.

Ngay hôm ấy hai người chia tay. Mã Vi đưa nhiều vàng bạc cho Yến Nhi, dặn nhỏ rằng:

– Nàng đến nơi cứ thế này…thế này mà làm.

Nói xong cho Yến Nhi mặc giả làm đạo cô lên một chiếc thuyền có hai người chèo, theo bờ bể men xuống đảo Vạn Hoa. Trên mỏm núi phía Nam đảo Vạn Hoa có một ngôi  Phong Hải đạo quán của Từ Vân tiên cô tu luyện. Yến Nhi tìm đến xin làm đệ tử. Khi ấy Từ Vân tiên cô đã ở tuổi ngoại bảy mươi, mà trong đạo quán lại chỉ có mấy thầy trò, thấy có người trẻ trung xinh đẹp như vậy đến xin thọ giáo, vui mừng lắm, cho ở lại học đạo, làm thuốc với mọi người. Hôm sau Yến Nhi nói với Từ Vân:

– Xin sư mẫu cho con xuống chợ mua một ít đồ dùng, gạo muối kẻo mấy hôm nữa trời mưa gió rét, thày trò ta không có cái ăn.

Từ Vân thấy Yến Nhi đẹp người mà có vẻ chịu khó chăm chỉ lại biết lo xa như thế, yêu lắm mới đưa tiền cho xuống núi mua đồ. Yến Nhi nói:

– Sư mẫu không phải đưa tiền. Con có tiền đây, đủ để mấy thầy trò mình sống được mười năm.

Nói xong đưa cho Từ Vân một túi bạc lớn. Từ Vân thấy Yến Nhi có nhiều tiền bạc, sinh nghi nhưng không nói gì, cử thêm một nữ đạo đồng khác cùng đi để giúp Yến Nhi. Yến Nhi xuống chợ thuyền, chưa đi mua đồ vội mà kéo vị đạo hữu la cà đến những nơi có nhiều lính Đại Việt. Các chú lính thấy có hai cô gái đẹp, ai cũng thích, có người còn buông lời trêu ghẹo. Yến Nhi không nói gì, chỉ cười mỉm, liếc mắt đưa tình làm các chú lính xốn xang lòng dạ. Lúc ấy Hiếu Ngân, Quây Xẻn cũng đang đi chợ tìm mối hàng. Hai người thấy có cô gái xinh đẹp tựa tiên Nga mới theo dõi xem nàng đi về nơi nào, thấy người con gái ấy mua đồ rồi cùng đạo hữu lên Phong Hải đạo quán. Quây Xẻn cười, nói:

– Chúng mình sắp có mỗi thằng mười quan tiền thưởng rồi.

Hiếu Ngân bảo:

– Tiền thưởng ở đâu mà lắm thế?

– Anh xem! Ta báo với vương công trên đạo quán có cô gái đẹp thế này mà mỗi thằng không được mười quan tiền thưởng, sao còn gọi được là Nhân Huệ vương  nữa. Ha ha!

Hiếu Ngân bảo:

– Phải ! Phải. Chú mày thế mà giỏi.

Hai người cùng cười vang rồi quay ngay về đại doanh. Trần Khánh Dư thấy Hiếu Ngân, Quây Xẻn quay về, hỏi:

– Phải chăng hai ngươi kiếm được mối hàng tốt mới quay về sớm như vậy?

Hiếu Ngân nói:

– Trình vương công! Mối hàng chưa kiếm được nhưng vì gặp một nàng tiên nên phải quay về trình với vương công.

– Nàng tiên?

– Thưa vâng! Đúng là một nàng tiên chứ thực trần gian không có người như thế bao giờ.

– ở đâu?

– Da! Dạ…Dạ!

– Dạ dạ cái gì? Người đẹp ấy ở đâu?

– Dạ người đẹp này thực đến hàng nghìn quan tiền cũng chưa chắc gì gặp được. Chỉ xin vương công cho chúng tôi mỗi đứa mươi quan, gọi là có chút nhắm rượu thôi ạ!

Khánh Dư đang trong lúc nhiều tiền lại muốn tỏ ra là mình hào phóng, mới cười! Mắng nựng:

– Hai cái thằng nỡm này. Việc gì cũng phải vòi vĩnh. Ta đã bao giờ bạc đãi các ngươi chưa? Này đây! Hai mươi quan.

Khánh Dư vứt xoẻng xâu tiền xuống đất. Hiếu Ngân, Quây Xẻn cười tít mũi, nhặt lấy, nói:

– Trình đức ông! Từ Vân tiên cô trên Phong Hải đạo quán mới có một nữ đạo đồng thực sự chẳng phải người trần.

– Được! Để ta đến xem, nếu không đúng như vậy các ngươi phải nếm canh lươn đấy.

Nói xong đem năm sáu tùy tùng cùng Hiếu Ngân, Quây Xẻn lên thẳng trên núi. Từ Vân tiên cô nghe báo có Nhân Huệ vương đến, liền ra mời vào phòng khách nói chuyện, lại sai Yến Nhi đun nước pha trà. Lát sau, Yến Nhi bước vào, tay nâng khay chén dâng lên. Khánh Dư ngây người, không tin ở mắt mình nữa. Nữ đạo đồng kia thật là người trên tiên giới, bước đi uyển chuyển, thân hình mềm mại, da trắng, tóc xanh đúng là kiệt tác trời gây đất tạo, ngọc chuốt vàng pha ngời ngời khêu gợi. Yến Nhi dâng trà xong, xin phép đi ra, không quên liếc Khánh Dư một cái, làm ngọn lửa tình trong lòng bốc lên thiêu đốt trái tim chàng. Lúc sau Khánh Dư tĩnh tâm trở lại, nghĩ ra một kế, nói với Từ Vân tiên cô, xin mượn gian gác phía Đông làm vọng hải đài để phòng thuyền của giặc Hồ. Từ Vân vui lòng thuận cho. Từ hôm ấy ngày nào Khánh Dư cũng lấy cớ lên vọng hải đài để xem thế giặc nhưng thực ra là để được nhìn Yến Nhi và không lần nào không được nàng ban cho những cái liếc tình trìu mến, ỡm ờ. Khổ nỗi đây là nơi tu luyện của bậc thần tiên chứ giá như ở nơi khác thì…Đã ba ngày mà chẳng có cớ gì để được cùng nhau trò chuyện. Thời trai trẻ Khánh Dư vốn là kẻ đa tình, đến nay tuy đã ở tuổi ngũ tuần lại trải nhiều nắng mưa trận mạc nhưng xem ra thời gian chưa công phá hết được vẻ hào hoa phong nguyệt của vị tướng can trường này. Yến Nhi thấy thời cơ đã đến mới chí tâm xuất chiêu hạ gục đối phương. Hôm sau Yến Nhi trang điểm đẹp đẽ, lựa đúng lúc Khánh Dư trên đường tìm đến, vờ như có việc xuống núi. Vừa trông thấy chàng, nàng e thẹn đứng nép bên đường. Khánh Dư là người nhạy bén, vớ được cơ hội này đâu dễ bỏ qua, liền bảo mấy anh lính tuỳ tùng:

– Các ngươi cứ lên trên ấy trước, đợi ta.

Mấy anh lính đi rồi, Yến Nhi mới cất lời chào:

– Tiểu nữ có lời chào vương công.

– Ôi giời ơi! Vương công vương quạ cái khỉ gì. Nàng làm ta muốn phát ốm lên đây.

Khánh Dư vừa nói vừa cầm luôn lấy tay Yến Nhi. Nàng giãy ra, bảo:

– Nơi đây là chốn tu hành của bậc thần tiên. Xin vương công chớ nên làm như vậy.

– Lại còn thế nữa! Tu tu cái khỉ gì cho nó phí đời. Đã không có tình ý với ta thì mỗi lần gặp nhau lại cứ lén nhìn ta làm gì? Trời ơi! Đôi mắt của nàng đến giết chết ta mất thôi.

Nói xong lại cầm tay Yến Nhi. Yến Nhi thấy Khánh Dư thổ lộ chân tình bộc trực thì biết mưu kế đã thành nên cứ để cho Khánh Dư cầm tay, nói:

– Vương công đã biết tiểu nữ có ý riêng, sao không đến phòng của tiểu nữ dùng trà.

Khánh Dư được câu nói ấy, sướng như mèo vớ cá, nói:

– Ta cũng muốn đến với nàng nhưng sợ Từ Vân tiên cô người quở trách.

– Buổi trưa sư mẫu nghỉ. Vương công đến lúc ấy ai biết được.

– ừ nhỉ! Có thế mà sao ta chẳng nghĩ ra.

Từ khi Yến Nhi câu được Khánh Dư, một người quen thói phong tình, một người vốn dòng ca kỹ, thôi thì tha hồ làm chuyện “ngắm nguyệt thưởng hoa”. Yến Nhi vốn khéo chiều chuộng lại mang trong mình sứ mệnh của một thám binh nên tìm hết mọi thủ đoạn, trổ hết mọi ngón nghề để mê hoặc Khánh Dư. Quả nhiên Khánh Dư say đắm đến nỗi hôm nào không lên núi gặp nhau thì ăn không ngon, ngủ không yên. ở quân doanh, Liên Nhi thấy vậy tưởng Khánh Dư lo lắng việc quân việc nước, mới bảo:

– Ba bốn ngày nay vương gia lên vọng hải đài, ăn ngủ chẳng yên, mặt mũi võ vàng. Thiếp nghĩ việc ấy chỉ nên giao cho mấy người lính cũng xong, hoặc giả cử Ngô Kế Trung là người cẩn thận lo liệu là được. Việc chi mà vương gia phải lao tâm khổ tứ đến vậy. Ngộ nhỡ trong khi vương gia đi vắng, quân Hồ kéo đến, lấy ai điều vát ba quân.

Khánh Dư cười, nói:

– Nàng thật quá ngây thơ. Ta lên núi là để nhìn thấy thuyền quân Hồ từ xa mà phòng bị, mọi việc trong doanh đã dặn lại Ngô Kế Trung cùng với Phan Hoành cả rồi.

Liên Nhi tưởng thật, không dám nói gì nữa thành ra Khánh Dư được tha hồ lên núi túng tấng với Yến Nhi. Bữa ấy có một nữ đạo đồng đến nói với Từ Vân tiên cô rằng:

– Đã mấy hôm liền đệ tử thấy trưa nào Nhân Huệ vương cũng đến phòng riêng của Yến Nhi.

Từ Vân tiên cô chau mày, nói:

– Thì ra là như vậy! Con hãy gọi ngay Yến Nhi đến đây cho ta.

Thật là:

Trời yên biển lặng

Mây ngọt gió lành

Ai biết giữa nơi thần tiên ấy

Là nơi giặc dữ ẩn mình.

Mời bạn đọc tiếp chương sau xem Từ Vân tiên cô quở phạt Yến Nhi thế nào.

==========================================================

1 Ma Lôi là tên một hương ở Hồng Lộ, hương này khéo nghề đan cật tre làm nón, cho nên lấy tên hương làm tên nón-ĐVsk

2 Đoạn chữ nghiêng lấy nguyên văn trong ĐVsktt.

3 Câu này lấy nguyên văn trong ĐVsktt.

4 Những chữ in nghiêng này lấy nguyên văn trong ĐVsktt.

1 Theo Nguyên sử-Thế tổ bản kỷ.

2 Theo Nguyên sử phần An Nam truyện thì chánh sứ của Đại Việt là Nguyễn Văn Thông nhưng theo  một vài tài liệu khác lại chép là Nguyễn Văn Ngạn.

1 Câu này có chép trong sách An Nam chí lược.

\1 Lai Tân: Một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây-Trung Quốc.

Đ.T

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder