
Đan Thành
An Tư công chúa nhận kế lấy Thoát Hoan
Hưng Đạo đại vương bày trận phá Ô Mã…Đan Thành
An Tư công chúa nhận kế lấy Thoát Hoan
Hưng Đạo đại vương bày trận phá Ô Mã…
Đang nói Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang được tin con trai thứ là Trần Kiện hàng giặc, giận lắm mới lập tức điểm binh đi đánh bắt, lại gửi thư cho Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư cùng đi.
Người đưa thư của Tĩnh Quốc vương còn chưa kịp lên đường thì gia thần của Nhân Huệ vương đã cầm thư tới. Tĩnh Quốc đại vương mở thư đọc, đại lược nói rằng:
Nhân Huệ vương kính dâng thư đến Tĩnh Q..uốc đại vương.
Bản vương nghe nói “cha mẹ sinh con, trời sinh tính”. Việc Trần Kiện hàng giặc thật là một tổn thất và đau xót chung cho quốc gia chứ không phải một mình đại vương. Bản vương biết đại vương là người trung nghĩa, chắc không thể tha cho cái tội bất trung bất hiếu của Kiện mà mang quân đi hỏi tội. Việc ấy thật không nên. Nhà vua sai chúng ta trấn giữ miền này hẳn là do chủ ý của Hưng Đạo đại vương tính kỹ rồi. Không nên vì một lúc nóng giận, cất quân đi, tạo ra kẽ hở cho giặc lợi dụng thì thật là gây vạ lớn lắm. Thư nói chẳng hết nhời, mong đại vương bình tâm suy xét.
Nhân Huệ vương kính thư.
Tĩnh Quốc vương đọc xong thư của Nhân Huệ vương, bình tâm lại, không mang quân đi nữa nhưng trong lòng đau đớn không nguôi, suốt ngày lẩm bẩm một câu:
– Phải giết thằng Kiện! Phải giết thằng Kiện.
Đây nói Chiêu Minh vương Trần Quang Khải rời đất Nghệ An, dong buồm về thẳng Thiên Trường, tâu lại mọi việc với nhà vua. Thượng hoàng Trần Thánh tông cùng vua Trần Nhân tông liền họp bách quan cùng chư tướng bàn kế chống giặc. Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng nói:
– Giặc đến thì mang quân ra đánh, chúng đến hai đầu, chia quân ra mà chống chứ sao phải bàn nhiều.
Văn Túc vương Trần Đạo Tái nói:
– Chiêu Đạo vương có tinh thần hăng hái với tấm lòng can đảm thật chẳng ai bì nhưng đánh giặc là việc tồn vong của xã tắc, cần phải cân nhắc mọi chuyện cho chu toàn mới được.
Trần ích Tắc lặng im. Nhà vua hỏi:
– Chiêu Quốc vương có chủ kiến gì không?
ích Tắc tâu:
– Thần thiết nghĩ kể từ khi người Thát mang quân vào nước ta. Quân ta giao tranh phần nhiều đều thất lợi, bao nhiêu thành trì mất cả. Sinh linh trăm họ cùng sĩ tốt tổn hại rất nhiều. Nay quân ta dồn lại ở đây khác chi cá trong vũng cạn, lại bị vây cả ba mặt. Cái cơ tan bại khó mà tránh nổi. Chi bằng nhà vua đình binh mà nghị hoà để cứu trăm họ.
Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng trợn mắt quát:
– ích Tắc nói bậy. Nghị hoà là đầu hàng, là dâng nước cho giặc, là đưa con dân Đại Việt đi làm tôi mọi cho giặc Hồ, ngươi có biết không? Thái tông làm sao lại sinh ra một cái thằng hèn hạ như ngươi.
Văn Nghĩa hầu Trần Tú Hoãn định cãi cho ích Tắc nhưng bị bố là Vũ Đạo hầu giẵm lên chân, ra hiệu đừng nói. Thượng hoàng Thánh tông thấy Chiêu Đạo vương xúc động quá mới bảo:
– Chiêu Đạo hãy bình tĩnh. Việc này còn đang bàn cơ mà – quay sang Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, hỏi – Chủ kiến của Chiêu Minh thế nào?
Chiêu Minh vương tâu:
– Thần nghĩ cả hai ý của Quang Xưởng và ích Tắc kết hợp lại sẽ có một giải kế hay.
Quang Xưởng nói:
– Vương huynh nói hay thật. Chẳng lẽ vương huynh cũng muốn hàng giặc?
Quang Khải nói:
– Ta không nói hàng bao giờ, nhưng hoà và chiến đều là cần thiết.
Tần ích Tắc làm ra vẻ hăng hái, nói:
– Hoà hoà! Chiến chiến chi mãi. Cái kế ấy nhiều người làm quá đi rồi. Không ai mắc lừa mãi đâu. Chẳng qua là Trần Quốc Tuấn bất tài không dám đánh lớn với người Nguyên nên mới thua hết trận này đến trận khác. Ngày trước Thành Cát Tư Hãn đánh nước Hoa Lạc Tử Mô, tô đan1 Ma Kha Mạc nước ấy cũng chia quân đánh nhỏ, cuối cùng hàng trăm vạn quân Hoa Lạc Tử Mô lần lượt thua hai mươi vạn quân Mông Cổ, rồi mất nước. Tô đan phải chết ở nơi hoang đảo, không có một cỗ quan tài mà chôn. Bệ hạ không hoà, nên tập trung quân đánh một trận cho ra trò có hơn không.
Chiêu Minh vương Trần Quang Khải nói:
– Chiêu Quốc nói như vậy sai rồi. Ta với Hoa Lạc Tử Mô có bốn điều lớn khác nhau. Một là người Hoa Lạc Tử Mô chia lẻ quân trấn giữ thành trì nên mới lần lượt bị đánh tan. Chúng ta không giữ thành mà giữ quân nên lực lượng chính của ta được bảo toàn. Hai là đánh Hoa Lạc Tử Mô người Thát cướp được của cải lương thực, bắt được dân để tăng thêm quân số, còn ở nước ta chúng chẳng cướp được gì, ngày càng hao mòn rõ rệt. Ba là tô đan Ma Kha Mạc sợ hãi chạy dài còn vua ta tìm cách nhử cho quân Nguyên vào đúng nơi ta trù liệu sẵn. Bốn là Hoa Lạc Tử Mô không lấy lại những vùng đất mà quân Thát đi qua còn ta thì lấy lại được cả, khiến cho hậu phương của giặc bị cắt đứt. Thế trận đang dần dần hình thành theo đúng chủ kiến của Hưng Đạo vương. Không thể có chuyện ta thua mãi được.
Thượng hoàng phán:
– Chiêu Minh nói đúng lắm. Khanh hãy trình bày chủ kiến để bá quan rõ.
Quang Khải nói tiếp:
– Thần xin dâng một mật kế, nhưng muốn được hiệu nghiệm thì không nên có nhiều người biết. Thượng hoàng cùng nhà vua cho thần được nói riêng.
Nhà vua giơ tay bảo các quan:
– Các khanh hãy đợi trẫm một chốc.
Nói xong cùng thượng hoàng và Chiêu Minh vương sang một thuyền khác, lúc sau quay lại, nói:
– Việc chiến hay hoà, thượng hoàng cùng trẫm có chủ định rồi. Các khanh ai về thuyền ấy sẵn sàng đợi chỉ.
Các quan lần lượt ra về. Văn Nghĩa hầu nói với bố:
– Quân ta thua luôn mấy trận, còn hơi sức đâu mà đánh. Con thấy ý của Chiêu Quốc vương là rất có lý nên định nói đỡ, sao cha lại…
Vũ Đạo hầu nói:
– Giữa chốn triều đường chớ nên để lộ chính kiến. Con theo bên hoà nhưng sau này bên chiến được thế thì tính sao? Còn theo bên chiến nhỡ bên hoà thắng thế cũng bất lợi lắm. Tốt nhất cứ lặng im rồi lựa gió mà che có hơn không?
Thượng hoàng Trần Thánh tông còn một người em gái út là công chúa An Tư tuổi vừa đôi tám. Khi Thái tông Văn hoàng đế mất, An Tư mới lên tám tuổi, hay ốm đau quặt quẹo nên Thánh tông thương lắm nhưng lớn lên lại xinh đẹp, đoan trang, thích trồng hoa và hát những điệu dân ca ngộ nghĩnh của những anh hề trong các phường trò, tính tình thông minh lanh lợi, mười hai tuổi thuộc hết cả tứ thư, ngũ kinh. An Tư rất yêu quý con gái một người vú già, thường coi nhau như bạn. Lúc người vú ấy ngoài sáu mươi được về quê dưỡng lão, mang theo người con gái. An Tư tiễn đến phía nam thành Đại La, thấy mặt trời ngả bóng mới làm bài thơ rằng:
Man man hành trường lộ
Tống hữu nhật hạ trì
Luyến luyến cảm bằng hữu
Khởi khởi tình nữ nhi
Quang minh thiên địa lạc
Cô sầu tâm trường bi
Môn lan vong hữu ảnh
Nhật nhật ngã tương tri1.
Thánh tông thấy An Tư có tài văn chương mới cho theo học cùng các vương công hoàng tử. Khi thầy ra đề bài, bao giờ An Tư cũng nộp quyển trước, được thầy khen là: “Ban Tiệp Dư2 cũng đến thế này chứ chẳng thể hơn”.
Lúc bấy giờ An Tư theo triều đình lánh về Trường Yên. Buổi chiều thượng hoàng đến chơi, nói với công chúa rằng:
– Em ơi! Nước nhà nay trong cơn binh lửa. Giặc Thát vây bọc tứ bề. Trẫm muốn đưa bách quan cùng muôn dân lánh ra Hải Đông nhưng sợ Thoát Hoan truy đuổi. Người cứu được nạn nước lúc này chỉ có một mình em thôi.
An Tư là người sáng dạ nên vừa nghe nói vậy đã hiểu cả nguồn cơn, mới bảo thượng hoàng rằng:
– Em bình sinh được chịu ơn thánh thượng như trời như bể. Nay mọi người đều vì nước chẳng tiếc thân mình. Có việc chi hoàng huynh sai bảo, lẽ nào em dám chẳng hết lòng.
Thượng hoàng nói:
– Ký châu dâng Đát Kỷ mà nhà Thương phải mất. Câu Tiễn dâng Tây Thi mà nước Ngô phải tan. Trẫm muốn hoàng cô3 hãy như hai vị anh thư kia.
An Tư cúi đầu, khoanh tay, nói:
– Thần xin tuân chỉ.
Thượng hoàng liền quay về thuyền, truyền triệu bách quan, chư tướng đến, phán rằng:
– Toa Đô, Giảo Kỳ đang hành quân ra Bắc, vì thế ta phải rút ra Hải Đông, tránh rơi vào thế bị vây bọc. Việc này phải làm gấp ngay từ đêm nay.
Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng nói:
– Quân ta đông đến mấy chục vạn, thuyền bè hàng mấy nghìn chiếc, rút đi thế nào cũng bị Thoát Hoan đuổi đánh, chả nguy lắm sao?
Thượng hoàng nói:
– Việc ấy trẫm lo từ phiên triều trước. Chiêu Minh vương đã dâng kế hay rồi. Đêm nay Chiêu Minh vương, Chiêu Đạo vương, Chiêu Quốc vương cùng các vương hầu khác phải lần lượt mang quân về Hải Đông, Hồng châu và Đằng châu.
Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản nói:
– Thần xin ở lại đánh giặc bảo vệ nhà vua.
Thượng hoàng nói:
– Không ai không cho khanh đánh giặc. Khanh hãy theo Chiêu Minh vương qua cửa Hải Thị về giữ Đằng châu, đợi trẫm có lệnh thì đem quân đánh giặc.
Quốc Toản không nói sao được nữa đành phải theo Chiêu Minh vương chuẩn bị hành quân. Thánh tông cắt đặt đâu vào đấy rồi mới gọi Trung Hiến hầu Trần Dương và quan đại phu Nguyễn Nhuệ đến dặn:
– Hai khanh hãy mang thư cầu hoà của ta đến cho Thoát Hoan. Chớ để người Thát biết quân ta đang rút.
Trần Dương, Nguyễn Nhuệ liền đi thuyền đến Bồ Đề để gặp Thoát Hoan, dâng thư của thượng hoàng. Thoát Hoan mở thư đọc, thấy lời lẽ nhún nhường, lại hứa sẽ đưa công chúa An Tư sang hầu hạ thái tử thì thích lắm, hỏi rằng:
– Công chúa An Tư xinh đẹp thế nào?
Trần Dương nói:
– Công chúa nước tôi không dám sánh với Tây Thi, Bao Tự, nhưng đem so với Ly Cơ, Tức Vĩ có lẽ đẹp hơn rất nhiều.
Trần Dương nói thế thôi chứ chàng cũng chưa nhìn thấy công chúa bao giờ. Thoát Hoan nghe nói như vậy khoái quá, cười ha hả bảo:
– Thế thì tốt! Thế thì tốt. Ngươi hãy về nói với quốc vương của ngươi nếu thật muốn cầu hoà hãy đến hội kiến cùng ta để bàn định công việc.
Trần Dương nói:
– Quốc vương tôi định đưa công chúa sang trước để kết tình thông gia giữa hai bên rồi mới thu xếp sang sau để bàn chuyện hoà nghị.
Thoát Hoan đang muốn có công chúa An Tư, nghe nói như vậy mừng như mở cờ trong bụng, nói:
– Thế cũng được! Thế cũng được. Ngươi hãy mau về bảo quốc vương ngươi đưa công chúa sang đây ngay.
Nguyễn Nhuệ nói:
– Việc đưa công chúa sang, quốc vương tôi đã lo liệu đâu vào đấy rồi. Nhưng bây giờ hai nhà đã kết thông gia mà quan binh vẫn lăm le muốn đánh, quốc vương tôi yên lòng sao được. Xin điện hạ hãy cho lui binh lên khỏi Đà mạc, ngừng việc giao tranh để tỏ tình hoà hiếu, quốc vương tôi lập tức đưa công chúa sang ngay.
– Được được. Ta sẽ cho lui binh ngay.
Thoát Hoan nói xong liền lệnh cho A Lý Hải Nha rút quân khỏi Đà mạc. Khoan Triệt can rằng:
– Vua Nam chẳng qua chỉ vì bị ta bức bách quá nên mới bày ra cái trò mĩ nhân kế này mà thôi. Xin thái tử chớ lui binh mà mắc mưu gian của chúng.
A Lý Hải Nha muốn thu nắm quyền hành về tay mình, nói:
– Vua Nam bây giờ như ở trong lòng bàn tay ta rồi, dẫu giở trò mĩ nhân ra cũng có làm được việc gì. Ngày xưa Tiểu Bạch1 hỏi Quản Trọng2 rằng: “Ta thích mĩ nữ, có hại gì cho nghiệp bá không?” Quản Trọng tâu: “Điều đó chẳng hại gì”, về sau Tiểu Bạch vẫn chả làm bá chủ thiên hạ đó thôi. Thái tử bỏ mất cơ hội này, mai rồi có tiếc cũng khó lấy lại.
Bột La Hợp Đáp Nhi nói:
– Điện hạ chớ nghe lời A Lý Hải Nha. Tô Hộ3 tiến Đát Kỷ mà nhà Thương phải diệt. Câu Tiễn tiến Tây Thi mà nước Ngô phải tan. Đây chính là gian kế của vua Nam vậy.
A Lý Hải Nha nói:
– Ngươi nói như vậy hoá ra bảo thái tử tàn bạo như Trụ vương, ngu tối như Phù Sai hay sao? Nước Tần có tiến gái đẹp cho sáu nước đâu mà sáu nước cũng mất. Lưu Thiện có nhận gái đẹp của ai đâu mà không giữ nổi cơ nghiệp. Nhà Nguyên ta tiến gái đẹp cho vua Tống lúc nào mà nước Tống cũng tan. Qua đấy tất rõ chuyện đàn bà không có dính dáng gì đến việc an bang trị quốc, bình thiên hạ. Chẳng qua một lũ quan tướng bất tài không làm nên việc lại đi đổ vấy cho mĩ nữ mà thôi. Ta là quân sư mưu kế có thừa, định việc chẳng kém gì Gia Cát ngày xưa, đâu có sợ ba cái mẹo vặt của đám người Nam man mọi này.
Khoan Triệt vẫn định nói nữa. A Lý Hải Nha giơ tay ngăn lại, tiếp:
– Ngươi đừng nói nữa. Ta biết ngươi với Bột La Hợp Đáp Nhi ăn cánh với nhau rồi. Chính vì các ngươi không tuân thượng lệnh, cho quân ra ngoài, để tướng nằm chơi ở dọc đường nên mới thiệt hại hàng vạn binh mã vì tay Trần Bình Trọng. Tội ấy điện hạ còn chưa tính đến đó.
A Thâm nháy mắt ra hiệu cho Khoan Triệt, Bột La Hợp Đáp Nhi hãy thôi đi. Thoát Hoan xua tay nói:
– Các ngươi không được cãi nhau nữa. Chuyện chẳng ra đâu mới đâu cũng óm cả lên. Vương mệnh không nói chơi, ta đã bảo rút quân là rút.
Đêm ấy trời ấm, quang mây lại có trăng. Thượng hoàng Thánh tông cho Trung Hiến hầu Trần Dương đem binh thuyền hộ tống công chúa An Tư đến Bồ Đề. Công chúa An Tư trang điểm lộng lẫy, đẹp như một nữ thần, bùi ngùi chia tay Thượng hoàng cùng nhà vua Nhân tông. Nhà vua nói:
– Hoàng cô đi chuyến này là mang theo sứ mệnh của muôn dân và triều đình trao cho. Xin Hoàng cô hãy nhận của trẫm một lạy.
An Tư nâng Nhân tông lên, nói:
– Hoàng cô đã hiểu cả rồi. Xin hoàng thượng chớ buồn, hãy cứng cỏi lên để cùng muôn dân quét sạch giặc Thát ra khỏi non sông. Hoàng cô có đi vào nơi muôn tên ngàn giáo cũng cam lòng.
Thượng hoàng Thánh tông nhìn cảnh chia tay của hai cô cháu nhà vua mà lòng đau thắt, quay mặt đi lau giấu một giọt lệ tràn khỏi khoé mi.
An Tư ngồi trong phượng thuyền. Trần Dương đứng trên mũi chiếc ưng thuyền, nhìn thấy công chúa, chàng giật mình bàng hoàng vì sắc đẹp rực rỡ đầy sức quyến rũ của nàng. Nét u buồn không lấn át nổi vẻ tươi thắm đoan trang trên khuôn mặt đang độ trăng tròn. Trong giây lát nỗi bàng hoàng ấy biến đi để lại trong lòng chàng một khoảng trống mênh mông với nỗi buồn bâng quơ mà da diết. Chàng tự hỏi vì sao cái tác phẩm tuyệt mĩ kia của tạo hoá lại sắp phải hiến dâng cho tên tướng giặc bạo tàn, có cách gì cứu vãn được không? Một câu hỏi không lời giải đáp. Điều đó làm nỗi u uất trong lòng Trần Dương càng thêm nặng nề. Chàng cố nuốt cái miếng nghèn nghẹn đăng đắng đang dâng lên trong cổ và nắm chặt đốc kiếm như thể con tim sắp bùng lên thành ngọn lửa. Không! Không thể hành động theo sự giục giã của con tim. Chàng còn đang mang một sứ mệnh cao cả, lớn lao hơn bất cứ thứ sắc đẹp nào có ở trên đời. Đó là sự an nguy của giang sơn, xã tắc, sự tồn vong của muôn vạn sinh linh người dân đất Việt.
Công chúa An Tư ngồi trên lâu thuyền. Nàng bảo thị nữ vén tấm rèm để ngắm mặt sông. Cả một đoàn thuyền chăng đèn kết hoa, từ từ ngược nước tiến lên. ánh đèn, ánh trăng tan hoà xoắn quện vào nhau rồi vỡ vụn trên mặt sóng đỏ ngầu phù sa. Gió thổi qua những đám lau lách hai bên bờ, tạo nên những âm thanh vi vút ảm đạm não nề không ăn nhập gì với cảnh thuyền hoa tiễn đưa một nàng công chúa. Vài ba cánh bèo xuôi theo dòng nước, không biết chúng trôi dạt đến tận phương nào! An Tư đã nhìn thấy chiếc ưng thuyền đi đầu. Phía mũi thuyền là một vị tướng bào xanh, tay nắm đốc kiếm, đứng thẳng, hướng về phía trước. ánh đèn làm hình ảnh của chàng nổi bật trong màn đêm, oai nghiêm như một vị thiên thần. An Tư hỏi người thị nữ:
– Vị tướng đứng ở đầu thuyền kia là ai vậy?
– Dạ thưa công chúa! Đó là hầu tướng Trần Dương ạ.
Trần Dương! Cái tên đó nàng đã từng nghe được ở đâu rồi. Người ta đồn Trần Dương là người văn võ toàn tài, hào hoa phong nhã. Tiếng đồn ấy đã có lần vào tới thâm cung. An Tư bảo thị nữ:
– Ngươi hãy dọn tiệc rượu để ta mời tướng quân một chén.
Trong khi người thị nữ dọn mâm tiệc thì một anh lính thị vệ đi mời khách. Trần Dương bước lên lâu thuyền, chào công chúa. An Tư tươi cười đứng lên đón chàng, nói:
– Đường còn xa. Có lẽ phải đi hết đêm nay. Ta muốn mời hầu tướng vài chén để cho lòng vơi bớt nỗi sầu thương.
Trần Dương khoanh tay từ chối, nói:
– Xin công chúa miễn cho. Thần còn đang chịu mệnh.
Công chúa nghiêm nét mặt, nói:
– ở đây chỉ có ta với ngươi, lời nói của ta chính là mệnh!
– Dạ! Thượng hoàng đã có chỉ…
An Tư cướp lời:
– Tướng ở ngoài, mệnh vua cũng có thế không tuân. Hầu tướng cứ ngồi xuống, uống vài chén cho đỡ lạnh.
– Trình công chúa! Đường dài không biết thế nào. Nhỡ giặc cướp…
An Tư xua xua tay, cười chua chát, nói:
– Giặc cướp ư! Chẳng phải ta đang đi hiến thân cho giặc cướp đây sao? Hầu tướng hãy ngồi xuống đi.
Câu nói của công chúa làm Trần Dương cảm thấy tê tê trên má, chẳng khác nào có một luồng hơi lạnh làm sởn gai khắp cơ thể chàng. Công chúa chỉ chiếc ghế đôn. Trần Dương đành ngồi xuống đối diện với An Tư. Hai người cùng uống. Hơi men làm gương mặt công chúa càng trở lên rực rỡ. Nàng nói:
– Hôm nay hầu tướng tiễn ta ra trận. Các ngươi ra trận mang giáo mang gươm. Ta ra trận với đôi má hồng, vậy sao không “Tuý ngoạ sa trường” được nhỉ? Mai đây nếu không trở về chẳng tiếc lắm ru!
An Tư cầm lấy tay Trần Dương, nói tiếp:
– Hầu tướng! Ta muốn nghe chàng hát. Hay là chàng hãy hát cùng ta.
A ha! A ha!
Hoàng giang, Hoàng giang1
Chảy sôi cuồn cuộn
Đưa người về đâu
Nước vốn trong
Phù sa đục ngầu
Hoàng giang! Hoàng giang
Nước như pha máu
Mỗi bước ngoái trông
ánh trăng cũng sầu.
Tiếng hát của An Tư vang lên dưới ánh trăng khuya, vừa hào hùng vừa ai oán. Trần Dương không cầm lòng được nữa, chàng đứng dậy định xin phép đi ra. Công chúa nói:
– Chàng hãy ngồi lại. Ta hỏi một câu – Giọng nàng trở lên quyết liệt – Cái quý nhất của đời người người con gái có phải là giữ gìn trong sạch tấm băng trinh cho người mình thương nhớ hay không?
Trần Dương sợ hãi trả lời:
– Dạ! Thưa vâng ạ.
An Tư cười cay đắng:
– Vậy mà cái điều quý giá ấy sắp phải hiến dâng cho lũ sài lang, chẳng đáng tiếc lắm sao – Nàng nói dứt khoát như một mệnh lệnh – Trần Dương! Điều quý báu ấy ta muốn trao cho chàng. Chàng hãy mau nhận lấy nó đi.
Dưới sông, sóng như gào réo, sôi sục đập vào mạn thuyền.
Thoát Hoan từ hôm có được công chúa An Tư không ỏ ê gì đến việc quân tình. Mọi việc mặc cho A Lý Hải Nha cắt đặt, suốt ngày vui thú ở nơi màn trướng. An Tư nói với Thoát Hoan:
– Điện hạ đã đến đây sao không sang ở kinh thành?
Thoát Hoan nói:
– Bên này tiện việc điều binh, tiếp lương chứ sang bên ấy cách sông phiền phức lắm.
– Thiếp có một cách nối liền hai bờ, chẳng hay thái tử có dùng chăng?
– Nếu vậy thật là thuận tiện, sao ta không dùng.
– Hai bờ tả, hữu ngạn tre gỗ rất nhiều. Chỉ việc cho lính chặt xuống, ghép bè rồi nối lại thành cầu phao qua sông chẳng tốt lắm sao.
Thoát Hoan cười ha hả:
– Đúng là như vậy! Đúng là như vậy. Ta sẽ cho làm ngay.
Nói xong, lập tức truyền lệnh gọi A Lý Hải Nha đến bàn cách thực hiện. Bột La Hợp Đáp Nhi can:
– Cầu phao tuy có nối được hai bờ nhưng quân ta ngày một dùng nhiều thuyền chiến, nhỡ có chiến sự, chính chiếc cầu phao đó ngăn cản làm ta khó tiến lui.
A Lý Hải Nha cũng thấy rõ cái hại ấy nhưng vì cố chấp không muốn nghe lời Bột La Hợp Đáp Nhi, nói:
– Quân ta quen đánh bộ, bất đắc dĩ mới phải dùng thuyền. Nếu bắc được cầu phao bộ binh, kị binh ta có điều kiện tỏ hết sở trường, cần gì lắm thuyền bè nữa.
A Thâm, Khoan Triệt thấy vậy ngán ngẩm lắc đầu đi ra. Mấy hôm sau cầu phao bắc xong. An Tư giả ốm không để Thoát Hoan gần gũi. Thoát Hoan vội cho quân dược đến khám bệnh. An Tư xua tay nói:
– Không cần phải mời quân dược. Chẳng qua thiếp sinh ra trong cung cấm, nay sống ở ngoài không chịu được sương gió nên mới như vậy. Đã có cầu phao rồi, chỉ cần điện hạ cùng thiếp sang ở hoàng cung là bệnh tất lui.
Thoát Hoan đã quá say đắm An Tư, nói gì chả nghe, liền truyền lệnh nhổ trại sang đóng bên hữu ngạn, sai A Lý Hải Nha đặt bản doanh ở Đông Bộ Đầu để điều vát quân tướng còn mình đem Lý Hằng, Lý Quán với một vạn vệ binh đưa An Tư vào sống trong hoàng thành. Lại sai Minh Lý Tích Ban, Tản Đáp Nhi Đải đem ba vạn quân đóng giữ Đại La. Đạo quân của Nạp Tốc Lạt Đinh đóng bên tả ngạn. Từ đấy Thoát Hoan ở miết trong thâm cung không ra đến ngoài, chỉ khi cần thiết lắm mới truyền lệnh cho Lý Hằng gọi A Lý Hải Nha vào bàn việc. Trong đám thị nữ của An Tư có Xuân Hồng, Bạch Tuyết và Vương Lan đều là giai nhân tuyệt sắc, lại giỏi việc cầm ca. Hôm ấy An Tư cho dọn tiệc để cùng vui với Thoát Hoan, sai ba người ăn mặc thật lộng lẫy ra hát. Ba cô gái vâng lệnh ôm đàn, hát hầu. Thoát Hoan thấy ba người đều xinh đẹp, liền giữ lại để hầu hạ. Ba cô gái khéo chiều chuộng chuyện gối chăn khiến Thoát Hoan ngày càng mệt mê chìm đắm.
Đây nói Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn từ khi mang quân về Hải Đông liền cho người thông truyền tin tức với nhà vua ở Thiên Trường, Phạm Ngũ Lão ở Nội Bàng và các tướng lĩnh ở Hồng châu, Đằng châu. Nhà vua vẫn sợ quân Nguyên đuổi theo nên mới báo cho Hưng Đạo vương biết. Hưng Đạo vương liền viết biểu thư giục nhà vua cùng trăm quan phải đi ngay. Lại sai người mang thư gọi Chiêu Văn vương cùng Văn Túc vương đem quân về hội ở Đằng châu. Mặt khác lệnh cho các tướng Nguyễn Khoái, Nguyễn Chế Nghĩa, Nguyễn Khả Nạp, Trần Thông, Nguyễn Truyền mang quân đến sông Kẻ Luộc1 chặt tre nứa đóng bè đợi lệnh.
Ngày hôm sau Hưng Đạo vương cùng Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện, điện tiền chỉ huy sứ Phạm Cự Địa, Yết Kiêu, Nguyễn Địa Lô đến. Tướng Nguyễn Khoái, Nguyễn Chế Nghĩa đã cho ghép hàng mấy trăm chiếc bè gỗ chất đầy đá đợi sẵn ở gần cửa sông. Hưng Đạo vương sai đem tên Nguyễn Bá Linh lên bờ chém tế cờ. Khi ra pháp trường, Bá Linh xin được cầm miếng vải đen. Viên giám hình thuận cho. Bá Linh liền tung tấm vải đen lên, lập tức biến thành ba đầu sáu tay2. Mấy người lính đao phủ không biết chém đầu nào, vội lùi cả lại. Quan giám hình vội về quân doanh báo lại. Hưng Đạo vương cho giải Nguyễn Bá Linh về nhà ngục rồi ngồi suy nghĩ xem vì sao có chuyện quái đản như vậy, rồi nói:
– Ma quỉ nào cũng sợ ánh thái dương. Ngày mai các ngươi mang nó ra chỗ mặt trời chiếu sáng mà chém.
Giờ Thìn hôm sau quân lính đưa Nguyễn Bá Linh ra chỗ có ánh nắng. Bá Linh hai ba lần tung tấm vải đen nhưng không hiệu nghiệm, bị người lính đao phủ chém một nhát bay đầu, dòng máu từ cổ tuôn ra thành hình con giao long trườn xuống sông rồi tan mất. Hưng Đạo vương lệnh cho các tướng đem thuyền bè tiến ra sông Cái.
A Lý Hải Nha từ khi đến Đông Bộ Đầu được toàn quyền điều phái tướng lĩnh, sai quân đi cướp phá để thu gom lương thảo. Bỗng có thám mã về báo quân Việt đã đem binh thuyền rút cả đi rồi, không biết chạy về hướng nào. A Lý Hải Nha liền lệnh cho Ô Mã Nhi, Triệu Tu Kỷ, Trương Hiển mang các tướng Giả Ngưu, Tưởng Hổ, Ân Khuông Cái, Lý Vĩnh Tường, Lưu Hoa, Mao Hội, Liêm Vũ, Văn Kỳ Sương, Chúc Vi Kỳ đem thuyền chiến từ Đà mạc đuổi theo. Triệu Tu Kỷ cùng các tướng Mao Hội, Liêm Võ, Văn Kỳ Sương, Chúc Vi Kỳ đi trước, đuổi đến Hoàng giang không biết quân Việt đi về đâu liền cho quân đóng lại hai bên sông rồi cho thám binh đi tìm.
Hưng Đạo vương trước đó đã cho Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện cùng tướng Nguyễn Khoái mang binh thuyền ém ở cửa lạch Trà1. Còn mình cùng các tướng chờ quân Nguyên ở cửa sông Kẻ Luộc. Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản, Trần Thông thấy đoàn thuyền của Triệu Tu Kỷ đi qua, xin ra đánh. Hưng Đạo vương nói:
– Ta đồ rằng đây mới chỉ là đội tiền quân của chúng thôi. Bọn này đã có Hưng Trí vương và Nguyễn Khoái đón rồi, chẳng thoát đi đâu được mà sợ. Ta cứ đợi đại quân của chúng tiến xuống rồi đánh một thể.
Quả nhiên quá trưa Ô Mã Nhi đem bọn Nạp Hải, Tôn Lập Đức, Giả Ngưu, Tưởng Hổ kéo xuống. Trần Hưng Đạo cho quân ra đánh. Trần Quốc Toản, Nguyễn Truyền hô lính đẩy mấy trăm bè tre, gỗ ra giữa sông thả cho trôi xuôi xuống. Ô Mã Nhi thấy có quân Việt liền quay thuyền lại đánh. Chẳng ngờ các bè tre, gỗ của quân Việt xếp đá ở trên, có dây chằng nối với nhau nên trôi ngầm dưới nước, quân Nguyên không nhìn thấy, thuyền vướng phải, không sao chèo lái được, dồn cục lại một chỗ, va vào nhau làm nhiều chiếc vỡ. Thuyền chìm! Lính Nguyên rơi xuống nước kêu váng cả lên. Quốc Toản dẫn đầu quân Việt, xông lên đâm chết liền mấy lính Thát. Đoàn thuyền của Ô Mã Nhi cứ thế trôi như một cái bè lớn xuống hạ lưu. Ô Mã Nhi quát quân sĩ chống đỡ nhưng không sao thoát được. Triệu Tu Kỷ đã trông thấy tình thế khốn quẫn của Ô Mã Nhi , liền đưa thuyền lên ứng cứu. Bỗng phía hạ lưu một tiếng pháo nổ rồi thuyền của Hưng Trí vương cùng tướng Nguyễn Khoái xông ra. Quân Nguyên bị đánh hai đầu, chết hại không biết bao nhiêu mà kể. Hai bên đang đánh nhau quyết liệt thì thấy một đoàn thuyền khác tiến đến. Trên chiếc ưng thuyền đi đầu có một lá cờ đại thêu chữ Trần, thì ra Hưng Đạo vương đem Yết Kiêu, Nguyễn Khả Nạp, Trần Thông đánh xuống. Ô Mã Nhi, Triệu Tu Kỷ ba hồn bảy vía lên mây cả, nhảy sang thuyền con định tìm đường chạy nhưng quân Việt vây gấp quá, không sao thoát được. Đang trong cơn khốn quẫn, tưởng chết đến nơi, may sao Trương Hiển mang quân tới kịp, cứu được Ô Mã Nhi. Bọn Tôn Lập Đức, Nạp Hải, Giả Ngưu, Tưởng Hổ mạnh ai nấy chạy, không còn ai cứu đỡ được ai. Chúc Vi Kỳ cầm giáo đứng ở đầu thuyền. Quốc Toản nhìn thấy, bắn một phát, mũi tên xuyên từ ngực sang lưng. Vi Kỳ chết lăn xuống sông. Lý Vĩnh Tường chặn đoàn thuyền quân Việt để Trương Hiển đưa Ô Mã Nhi chạy trốn. Nguyễn Truyền ném một hòn đá. Vĩnh Tường vỡ đầu lăn vào lòng thuyền, lát sau tắt thở. Trương Hiển thấy tình thế không thể cứu vãn được mới hô quân lui về Đà mạc. Triệu Tu Kỷ chơ vơ ở quãng giữa không ai ứng cứu, vội dạt sang hữu ngạn, lên bờ theo đường bộ chạy về hơn hai mươi dặm, kịp bọn Ô Mã Nhi, được Trương Hiển cho thuyền lên đón. Toàn bộ thuyền bè của Ô Mã Nhi, Triệu Tu Kỷ bị quân Việt cướp sạch2.
Hưng Đạo vương đại thắng, cùng Phạm Cự Địa mang quân theo sông Kẻ Luộc ngược về căn cứ Vạn Kiếp, Phả Lại, để Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện giữ Đằng châu.
Ô Mã Nhi bại trận, cấp báo về Đông Bộ Đầu cho A Lý Hải Nha biết, xin thêm quân đuổi vua Trần. A Lý Hải Nha sợ hãi, không biết ứng xử ra sao, liền họp các tướng thương nghị, nói:
– Vua Nam dùng kế vờ hoà hoãn để lừa chúng ta, trốn đi mất, các tướng có mưu kế gì chăng?
Khoan Triệt khi trước đã khuyên Thoát Hoan đừng hoà hoãn nhưng bị A Lý Hải Nha trù ép, bực tức nói:
– Vua Nam đã nằm trong tay ông rồi sao không bắt lấy, hỏi chúng tôi làm gì? Tốn bao nhiêu xương máu mới cướp được mấy trăm binh thuyền, bây giờ mất sạch, lấy gì mà tiến mới lui.
Bột La Hợp Đáp Nhi nói:
– Chúng tôi dâng lời nói phải, ông lại đè nén, đe doạ. Ông là quân sư lắm mưu nhiều kế như Gia Cát nhưng tôi bảo thật, cái kiểu đánh trận của ông rồi đến ra đất tất cũng chưa biết chừng.
A Lý Hải Nha không biết nói thế nào, nổi cáu quát:
– Các ngươi đừng tưởng nhằm vào lúc ta nhỡ cơ mà nói nhăng nói cuội. Ta vẫn có quyền cắt lưỡi các ngươi đi đấy.
Khoan Triệt cãi lại:
– Ông đừng có doạ. Chỉ sợ ông chưa kịp cắt lưỡi chúng tôi, quân Nam nó đã cắt lưỡi ông rồi.
Mãng Cổ Đài bênh A Lý Hải Nha, nói:
– Đánh trận thua được là lẽ thường tình. Quân sư đánh thắng bao nhiêu trận sao các ông không nói, nay mới có một trận Hoàng giang thất bại mà cũng không phải do quân sư trực tiếp cầm quân, các ông cứ nói mãi. Hay các ông muốn tự cầm quân, tự đánh giặc, không cần quân sư, không cần nguyên soái nữa?
Bột La Hợp Đáp Nhi chỉ mặt Mãng Cổ Đài, nói:
– Hóa ra nhà ngươi là một thằng nịnh bợ. Thảo nào chuyện gì của chúng ta A Lý Hải Nha cũng biết.
Mãng Cổ Đài cãi lại thành ra các tướng cãi nhau úm cả lên, chẳng ai nghe ai nữa. Lưu Thế Anh nói:
– Các tướng cãi nhau mãi cũng chẳng được việc gì. Chi bằng trình lên thái tử điện hạ để quyết định.
A Thâm nói:
– Lưu tướng quân nói rất đúng. Thái tử ở miết trong hoàng cung với An Tư, không coi sóc gì đến việc quân tình nên mới đến nỗi này. Chúng tướng hãy mời thái tử ra, xin giết quách An Tư đi để lo việc đánh dẹp mới được.
Chúng tướng nghe theo liền cử Lý Hằng vào Thăng Long đón Thoát Hoan. Thoát Hoan nghe tin vua Trần đi mất, cũng hoảng, vội theo Lý Hằng đến Đông Bộ Đầu họp với các tướng. Bột La Hợp Đáp Nhi hăng hái nói:
– Thái tử hãy tự cầm lấy binh quyền, dẫn chúng tướng đi đánh dẹp. Bây giờ chỉ có cách tiến xuống Thiên Trường đuổi bắt bằng được vua Nam mà thôi.
Lý Hằng nói:
– Bột La Hợp Đáp Nhi nói rất đúng. Việc dâng An Tư của vua Nam chỉ là một mẹo lừa. Xin thái tử chém An Tư rồi cất quân ngay cho kịp.
Chúng tướng đồng thanh nói:
– Lời bàn ấy chí lý lắm.
Thoát Hoan nói:
– Được! Các tướng hãy đợi lệnh. Ta về Thăng Long chém An Tư xong, xuất binh ngay.
Thật là:
Vì nước vì vua vào cõi giặc
Muôn nghìn nguy biến chẳng từ nan
__________________________________________
1 Tô đan: Vua.
1 ý của bài thơ tạm dịch như sau:
Chầm chậm đi trên đường dài
Tiễn bạn khi mặt trời đang lặn
Bạn bè ai chả quyến luyến nhau
Vì là con gái nên tình cảm dâng lên mãi
Trời đất đều sáng trong vui vẻ
Chỉ trong tim, trong lòng ta là buồn thôi
Bên hiên, khuôn cửa vắng bóng bạn
Ngày ngày ta thương nhớ không nguôi.
2 Trong số phi tử của Hán Thành đế có một vị tiệp dư họ Ban nổi tiếng hay chữ, rất được Thành đế coi trọng
3 An Tư là cô ruột vua Trần Nhân tông.
1 Tiểu Bạch: Tức Tề Hoàn công, vị bá chủ chư hầu đầu tiên trong ngũ bá thời Xuân Thu.
2 Quản Trọng: Tức Quản Di Ngô, người giúp Tề Hoàn công làm nên nghiệp bá.
3 Tô Hộ: Làm chủ Ký châu, vì bất mãn với nhà Thương nên bị Trụ vương đem quân đánh, phải mang con gái là Tô Đát Kỷ dâng.
1 Hoàng giang: Đoạn sông Hồng ở giữa cửa sông Luộc và sông Trà Lý.
1 Sông Kẻ Luộc: Tức sông Luộc ngày nay.
2 Trò ảo thuật.
1 Lạch Trà: Đoạn cửa sông Trà Lý gặp sông Hồng ngày nay.
2 Trận Hoàng Giang không thấy ghi trong ĐVsktt nhưng trong Vsta lại ghi rất rõ, mô tả cả phương thức đánh trận của Trần Hưng Đạo nữa.
Đ.T