Doạ Đại Việt, ba đoàn sứ Thát vào giam
Giữ Yên Khâu, một tướng nhà Trần bị hại…Doạ Đại Việt, ba đoàn sứ Thát vào giam
Giữ Yên Khâu, một tướng nhà Trần bị hại
Nguyễn Bằng đang theo dây leo thả mình xuống, gần tới nơi thì dây đứt, nằm ngất lịm. Mọi người xúm lại cứu chữa. May gặp chỗ đất mềm nên Nguyễn Bằng chỉ bị choáng, một lúc sau tỉnh lại. Bảy người lại đeo gùi hàng đi sâu vào đất Đại Lý.
Trời chưa sáng mà khắp làng nhà nào cũng đỏ lửa. Mấy chú gà trống choai gáy éc e như h•y còn ngái ngủ, tiếng gáy tuy non nớt nhưng các chú muốn báo rằng đã có ta sống ở trên đời. Bà Vũ nấu xong nồi cơm nếp, xới ra mâm cho nguội, nắm cho con mang đi ăn đường rồi đến bên giường con trai định gọi nhưng thấy Vũ Tuấn còn đang ngủ say nên lại thôi, lầm bẩm một mình:
– Mẹ bố nó, ngủ thế này không biết đi có làm được việc gì không?
Mấy chú gà gáy dồn, ngoài đường vang lên tiếng mõ:
– Loa loa! Loa loa! Dân làng nghe báo. Hôm nay làm lễ tiễn binh. Trai tráng trong làng đã trúng tuyển, sáng sớm ra đình để về doanh trại. Loa loa! Loa loa.
Vũ Tuấn choàng dậy bảo mẹ:
– Con đã bảo bu gọi dậy sớm mà không gọi, khéo không người ta đi hết còn gì!
– Bố anh! Làm gì mà rối cả lên, ngủ như trâu ấy. Vào lính liệu mà ăn mà ngủ không giặc nó đến đít chưa biết thì vừa.
Vũ Tuấn ra đến sân đình, nhiều người đã đứng lố nhố khắp cả. Đám trai làng chuẩn bị đầu quân túm tụm một góc chuyện trò. Nguyễn Văn Điền, Mai Văn Tự, Đoàn Sĩ Hiệp, Phạm Anh cùng mấy người nữa đều đã có mặt, họ vừa trông thấy Vũ Tuấn đến liền gọi to:
– Tuấn! Lại đây.
Vũ Tuấn chạy lại phía các bạn, nói:
– à ! Đông đủ cả rồi nhỉ! Thằng Thử đâu?
Một người nói:
– Chắc cũng sắp ra đấy.
– Có khi chưa ngủ dậy cũng nên, thằng này chúa dậy muộn.
Trời sáng rõ, cha mẹ đám tráng đinh đăng lính lần này cũng đứng cả hai bên sân đình. Có người cười, có người khóc nhưng phần nhiều nghiêm trang nhìn về phía cửa đình, ở đó treo một lá cờ đại. Lúc sau, quan đô uý cùng mấy viên hiệu uý đi vào, theo sau là Nguyễn Vĩ Thố lí trưởng làng Cao Duệ, trương tuần và các vị chức sắc trong làng. Mấy anh lính tốt chạy lăng xăng bảo dân làng đứng lui xuống phía cuối sân đình, một anh cầm chiếc loa đứng lên bục cao cạnh lá cờ đại, hướng về đám trai đinh, nói:
– Nghe đây! Nghe đây! Hôm nay làm lễ tiễn binh, trai tráng trúng tuyển lặng yên nghe lệnh, khi gọi đến tên ai người ấy thưa “có” rồi vào trong đình đứng thành hàng để chờ làm lễ. Cha mẹ đinh tráng đứng ở ngoài sân không được ồn ào để các quan làm việc.
Mọi người yên lặng trước cảnh tượng long trọng của buổi lễ. Anh lính cầm loa dõng dạc gọi:
– Đoàn Sĩ Hiệp.
– Có!
Sĩ Hiệp thưa xong, bước những bước dài mạnh dạn về phía cửa đình. Trong đám cha mẹ, ai đó nói:
– Oai quá nhỉ. Cậu này nhất định rồi sẽ khá.
Người lính cầm loa gọi tiếp:
– Phạm Anh.
– Có!
Phạm Anh khoan thai bước lên bậc tam cấp. Mấy cô gái làng xì xào:
– Đẹp trai quá!
– Trông thư sinh thế!
– Trắng như con gái ấy!
Anh lính cầm loa gọi đến Nguyễn Văn Điền, Mai Văn Tự. Văn Điền, Văn Tự thưa, đi vào. Gọi đến Nguyễn Vĩ Thử, không có người trả lời. Trong đình, lí trưởng Nguyễn Vĩ Thố chắp tay nói với quan đô uý:
– Dạ! Thưa quan đô uý! Nguyễn Vĩ Thử là con trai của hạ cấp ạ. Mấy ngày hôm nay cháu nóng sốt li bì, đau bụng quằn quại. Dạ! Có giấy xác nhận của đại tư xã đây ạ. Xin quan đô úy hoãn cho cháu đến lượt tuyển lính sau ạ.
Viên đô uý cầm tờ giấy đưa lên xem, nói:
– Thôi được! ốm thì để lần sau chứ biết sao.
Trong đám tân binh, Sĩ Hiệp bảo Phạm Anh:
– Quái! Cái thằng Thử này! Hôm qua tao vẫn thấy nó đi chơi, còn ghẹo con Điệp nữa, sao bố nó lại bảo ốm mấy ngày rồi là thế nào?
Văn Tự bảo:
– Thôi! Cứ im đi đã. Ai còn lạ gì bố con nhà ông ấy nữa. Khi đi gọi người khác đăng lính, ông ấy nói hay lắm nhưng con ông ấy năm lần bảy lượt trốn không chịu đi.
Sĩ Hiệp bảo:
– Nhưng có giấy của đại tư xã cơ mà?
Phạm Anh nói:
– Chú ông ấy làm đại tư xã chứ ai, xin giấy gì chả được.
Anh lính cầm loa gọi tiếp Vũ Tuấn và những người khác. Gần trưa, mọi nghi lễ đã xong. Mấy chục gã tân binh xếp thành hàng, ngước trông bóng cờ bước theo nhịp trống rập rình. Dân làng tiễn đưa vẫy khăn, vẫy nón đến khi đoàn quân khuất dần sau luỹ tre phía xa mọi người mới tản dần về, chỉ còn các bà mẹ đứng nhìn theo mãi. Bà Nguyễn lấy vạt áo chấm nước mắt, bảo bà Phạm:
– Khổ! Nuôi con đến lúc nhớn đỡ đần được một chút lại phải vào lính, thằng Điền nhà tôi hiền lành như thế có biết đánh nhau bao giờ, chiều hôm qua vẫn còn giúp bố cày nốt hai sào ruộng ở cánh đồng Bến.
Bà Phạm bảo:
– Ai đẻ con ra lại muốn cho đi đánh nhau. Cũng là tại cái thằng giặc cả, nó không sang ăn cướp nước mình thì đâu nên chuyện. Thằng Phạm Anh nhà tôi yếu ớt quá, suốt ngày chỉ biết vùi đầu vào kinh vào sách.
Bà Đoàn nói:
– Yếu ớt cũng chẳng lo, theo anh theo em luyện tập vài tháng là lớn phổng lên ngay ấy mà. Trai thời loạn chẳng ra giúp nước thì sao. Biết đâu mà lo. Chúng nó đi rồi mình cứ chịu khó việc nông tang để anh em chúng có cái ăn mà đánh giặc là được.
Tuy nói vậy nhưng bà Đoàn cũng lấy tay áo quệt vội những giọt nước mắt chỉ chực rơi xuống. Mấy bà cùng nói:
– Bà Đoàn nói thế cũng phải.
*
Cốt Đ•i Ngột Lang gầm lên làm những cây kiếm cong treo trên giá run bần bật, nói:
– Vua đại Việt khinh ta quá lắm, đã không nghe lời lại còn giam sứ. Phen này ta quyết làm cỏ nước Nam. Triệt Triệt Đô, Đoàn Hưng Trí kiểm điểm binh mã đợi lệnh.
A Truật lúc bấy giờ mới mười tám tuổi nhưng đã là một dũng tướng, bước ra thưa:
– Thưa cha! Con thường nghe nói người Nam là giống quật cường không thể lấy lời đe doạ đè nén họ được. Chi bằng ta cứ ngon ngọt mà dụ thì hơn chứ chưa nên tiến binh vội.
Ngột Lang gầm lên:
– Vó ngựa của ta in dấu từ Tây sang Đông. Kẻ nào cũng mới chỉ nghe tên ta đã phải bỏ thành mà chạy. Ta đâu có phải ngon ngọt với ai bao giờ. Cứ nhùng nhằng mãi, khi nào mới đến được đất Nam Tống đây.
Tín Thư Phúc bước ra thưa:
– Trình nguyên soái! Công tử nói rất đúng. Ta nên cho sứ sang Đại Việt nói rõ là mượn đường vào đất Tống. Chỉ cần người Nam cho quân ta vượt qua cửa ải, Đại Việt đã nằm trong tay ta rồi mà đường sang Nam Tống cũng không còn gì ngăn trở, ta có thể đến Ngạc Châu1 trước kì hạn. Như thế có phải đỡ vất vả vì giao tranh dọc đường không, lại dễ dàng lấy được Đại Việt.
Cốt Đ•i Ngột Lang nghe theo mới nuốt giận viết thư, cử sứ giả đi lần nữa. Một mặt sai A Truật, Hoài Đô, Triệt Triệt Đô, Đoàn Hưng Trí chuẩn bị binh mã, lương thảo vận chuyển trước đến ải Mã Quan. Chừng một tháng sau có mấy tên quân hộ vệ đoàn sứ về báo:
– Đoàn sứ của ta không dụ được vua Đại Việt liền đe là nguyên soái sẽ mang đại binh sang, không ngờ chúng nổi giận, bắt giam hết cả lại. Chúng còn bảo: “Để nguyên soái của các ngươi sang đây sẽ giam chung một thể”. Mấy chúng tôi liều chết trốn ra mới về thoát được. Mong nguyên soái mau phát binh đi đánh báo thù rửa cái nhục này.
Cốt Đãi Ngột Lang lông mày dựng ngược, vểnh râu, trợn mắt thét:
– Vua tôi nhà Trần giỏi thật. Ta xem các ngươi có mấy lá gan mà dám chống lại thiên triều!
Nói xong liền lệnh cho các tướng: Triệt Triệt Đô cùng Bố Nhĩ Hải, A Nhĩ Hải mỗi người đem một nghìn quân đi tiên phong, ngay ngày hôm ấy phải ra khỏi thành Thiện Xiển. A Truật, Hoài Đô đem mười viên lực sĩ cùng một vạn quân đi tiếp ứng cho ba mũi tiên phong và do thám những nơi bố phòng của quân Đại Việt. Đoàn Hưng Trí giao lại công việc trong nước cho em trai là Tín Thư Nhật nhiếp chính, cùng người em khác là Tín Thư Phúc, mang một vạn hai nghìn quân bộ Bắc Thoán và tám nghìn quân kị đi thứ ba vừa làm nhiệm vụ dẫn đường vừa hỗ trợ cho hai đạo quân trước. Cốt Đãi Ngột Lang thân đem một vạn năm nghìn quân đi sau. Tổng số nhân mã là bốn vạn tám ngàn lính. Bắt chín vạn ba ngàn dân phu người Đại Lý, Bạch Man, Lô Lô đi phục dịch, hẹn trong mười ngày phải ra khỏi Mã Quan.
Lúc ấy Nguyễn Bằng đang vờ buôn bán ở Thiện Xiển, dò biết được tình hình, bảo người đưa tin qua lối đỉnh Chim Ưng về cho Hà Khuất. Hà Khuất liền cử ngựa trạm chạy suốt ngày đêm về kinh cấp báo.
Bấy giờ đang là mùa đông, mấy vạn dân phu, trâu bò Đại Lý đi phục vụ quân binh rất khổ sở. Người chết vì rét, ngã núi, chết vì mệt nhọc… nhiều lắm. Thỉnh thoảng lại có mưa tuyết, quân lính vô cùng vất vả. Khi tiền quân đã áp sát ải Quy Hoá của Đại Việt thì hậu quân của Cốt Đãi Ngột Lang chưa ra hết cửa Mã Quan. Đạo quân của A Nhĩ Hải được lệnh đánh Quy Hoá, tấn công liền ba ngày mà không sao chiếm được ải. Quân của Hà Khuất dùng cung nỏ, gỗ đá đánh lại làm quân Mông Thát chết hại rất nhiều. Tín Thư Phúc bẩm với Cốt Đãi Ngột Lang:
– Trước đây nguyên soái cho sứ sang Đại Việt nhưng chưa xuất binh nên vua của chúng mới khinh lờn. Nay quân ta tiến đánh, cái cơ một sớm một chiều lấy được Đại Việt đã rõ. Vua tôi chúng tất phải sợ hãi. Xin nguyên soái phái sứ đi một lần nữa chắc bọn chúng không còn dám hỗn.
Cốt Đãi Ngột Lang nói:
– Ngươi nói cũng có lí, nhưng bây giờ cử ai đi sứ đây?
Triệt Triệt Đô nói:
– Lần này phải cử một dũng sĩ biết ăn nói đi, cho chúng thấy quân ta hùng mạnh thế nào. Tôi xin tiến cử một người là Ngạch Vu Tháp. Người này tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm lại ăn nói hào hùng, nhất định không phụ lòng thống tướng.
Hôm sau Ngạch Vu Tháp đến ải Quy Hoá, cho quân lính giương biển miễn chiến, gọi mở cửa thành cho sứ vào. Hà Khuất bắt phải cho quân lính lui lại, chỉ để Ngạch Vu Tháp và mươi tên quân theo hầu đi vào, ngay hôm ấy cho người áp giải về kinh thành Thăng Long.
Cốt Đ•i Ngột Lang ém quân lại đợi sứ về nhưng gần một tháng chẳng thấy sứ đâu mới tiếp tục xua quân đánh vào Quy Hoá. Triệt Triệt Đô đứng dưới cửa quan gọi to lên rằng:
– Này Hà Khuất! Ta giao sứ cho ngươi đến nay đã gần một tháng, vua tôi nhà ngươi cớ sao không cho sứ trở về?
Hà Khuất ở trên thành nói xuống:
– Đại Việt ta là nước văn hiến. Sứ của các ngươi đến chầu lại không biết giữ lễ, buông lời ngạo mạn, khinh thị quân vương, tội đáng phơi thây nhưng vua ta nhân từ mở đức hiếu sinh không giết, chỉ mời vào nghỉ trong nhà lao thôi. Bây giờ muốn nói chuyện gì phải hỏi cây nỏ của ta trước đã.
Triệt Triệt Đô căm tức bầm gan, múa cây búa Nguyệt Lãng thúc quân vào đánh. Trên thành tên đạn giội xuống như mưa. Quân Thát xông lên mấy lần đều phải lùi trở lại.
*
Kinh thành Thăng Long sôi lên vì tin quân Mông Thát đã đánh vào ải Quy Hoá. Các lò rèn đúc trong thành Đại La đỏ lửa suốt ngày đêm. Trường thương, đoản kiếm, hoạ kích, đại đao được làm ra vô số. Trai tráng trong lính ngoài dân ai ai cũng muốn sắm cho mình một thứ binh khí vừa tay cầm. Từ tướng quân đến sĩ tốt chỗ nào cũng chỉ nói chuyện chinh chiến. Các tướng Vương Lâm, Trần Khuê Kình, Chu Bác Lãm đến nói với Bùi Khâm và Lê Tần rằng:
– Nay quân Thát đã đến cửa ngõ, không biết hoàng thượng giao quyền tiết chế cho ai? Nếu để thái sư cầm quân e rằng hỏng việc. Chúng ta đều là trọng thần phải nên gắng sức khuyên nhà vua chọn người hiền tài mà giao binh quyền mới có thể giữ yên đất nước.
Mọi người cùng nói phải đấy, riêng Lê Tần bảo:
– Các ông không phải lo. Dẫu hoàng thượng có giao ấn nguyên nhung thái sư cũng không nhận đâu. Việc cầm quân ắt có người tài đảm trách.
Trong điện Thiên An, Thái Tông ngồi thiết triều. Văn võ bách quan đứng hai hàng. Thái Tông phán:
– Nay quân giặc đã xâm phạm biên cương, trẫm giao toàn quyền điều vát quân sĩ cho thống quốc thái sư. Khanh hãy vì muôn dân trăm họ mà nâng lấy gánh nặng giang sơn.
Thái sư Trần Thủ Độ bước ra tâu:
– Muôn tâu hoàng thượng! Việc hoàng thượng uỷ thác, thần muôn chết chẳng dám từ. Nhưng xét nghĩ nước ta nay phía Bắc sát biên giới với hai nước lớn là Tống và Thát, việc binh bị chắc phải lâu dài mà thần tuổi đã sáu tư, không biết còn hầu hạ hoàng thượng được bao lâu, nên trộm nghĩ cần phải chọn trong các tướng trẻ lấy người tài giỏi để giao trọng trách, đặng gây dựng rường cột lâu dài cho xã tắc.
Quần thần đều cho là thái sư nói phải. Thái tông truyền:
– Các khanh đã nói vậy hãy cử cho trẫm một người có thể gánh vác được công việc nặng nhọc lâu dài này.
Lê Tần đứng ra tâu:
– Thần xin tiến cử Trần Quốc Tuấn. Người ấy trẻ tuổi, tài đức vẹn toàn, thông hiểu binh pháp, tài hoa văn chương, sâu sắc kinh sử lại có lòng thương yêu bách tính, đó là tướng muôn đời hiếm thấy.
Các quan đều nói sự tiến cử của Lê Tần là sáng suốt nhưng Nhân Đạo vương nói:
– Thần thiết nghĩ cử tướng là phải dùng người tài đức vẹn toàn, thông đạo, hiểu lễ. Cứ xét việc tháng giêng năm Nguyên Phong thứ nhất thì thấy Quốc Tuấn là kẻ ngông cuồng không có đức, không biết giữ lễ, e khó mà hiệu lệnh được ba quân.
Đầu đuôi sự việc tháng giêng năm Nguyên Phong thứ nhất (Tân Hợi-1251) thế này: Trần Quốc Tuấn là con thứ của An Sinh vương Trần Liễu, vốn vẫn sống ở ấp An Sinh1. Công chúa Thuỵ Bà (em ruột của An Sinh vương, chị ruột của Thái Tông) một hôm đến chơi, thấy Quốc Tuấn thông minh dĩnh ngộ mới nhận làm con nuôi, mang về Thăng Long cho ăn học. ở đây Quốc Tuấn gặp công chúa Thiên Thành2 lúc ấy mới hơn mười tuổi. Hai người thường chơi với nhau, lâu ngày tình cảm quyến luyến. Tháng Giêng năm Tân Hợi, Thái Tông gả Thiên Thành cho con trai Nhân Đạo vương là Trung Thành vương( Năm ấy Thiên Thành khoảng mười bốn, mười lăm tuổi). Vua cho mở hội bảy ngày để mừng lễ cưới. Quốc Tuấn lúc ấy đã hai mươi tuổi, không biết làm thế nào, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng3.
Công chúa Thuỵ Bà sợ Nhân Đạo vương bắt làm tội Quốc Tuấn, liền đến cáo cấp với nhà vua, nhà vua vội sai nội nhân đến dinh Nhân Đạo vương nhưng thấy yên lặng, vào phòng ngủ của Thiên Thành thì Quốc Tuấn đang ở đấy. Lúc bấy giờ Nhân Đạo vương mới biết chuyện.
Hôm sau, công chúa Thuỵ Bà vội dâng mười mâm vàng lên nhà vua để làm lễ hỏi Thiên Thành cho Quốc Tuấn. Vua bất đắc dĩ phải gả, mặt khác lấy hai nghìn khoảnh ruộng ở phủ ứng Thiên để hoàn lại sính lễ cho Trung Thành vương. Việc này bị đời sau rất là chê trách4.
Từ đấy Nhân Đạo vương vẫn ấm ức nên buổi chầu hôm đó mới bác ý kiến chọn Quốc Tuấn làm tướng. Trung Thành vương tính tình khoan hậu, lại biết Quốc Tuấn là người tài mới bước ra tâu:
– Quốc Tuấn tuy làm chuyện không hay nhưng là người tài ba lỗi lạc, hiếm có trên đời. Thần nghĩ cử người ấy làm tướng là rất xứng đáng. Xin hoàng thượng minh xét, đừng vì việc người ta mắc lỗi mà bỏ, để hỏng đại sự quốc gia.
Thái tông tươi cười nói:
– Đáng khen Trung Thành vương là người đại lượng. Vậy theo sự đồng tiến cử của triều thần, trẫm phong Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn quyền tiết chế ba quân điều binh phá giặc. Các vương hầu tướng lĩnh nhất nhất tuân theo. Ai trái lệnh xử theo quân pháp.
Quốc Tuấn bước lên nhận kiếm lệnh và soái ấn, năm ấy ông mới hai mươi bảy tuổi. Thái tông nói:
– Nay khanh đã nhận quyền tiết chế, trong việc quân trẫm cũng phải tuân theo. Khanh cứ điều động.
Quốc Tuấn nói:
– Thần trộm nghĩ việc dùng binh muốn thủ thắng phải tạo cho mình cái thế có thể điều được giặc. Nay nếu ta mang hết quân lên biên ải để chống nhau với quân Thát, đường sá xa xôi, núi rừng hiểm trở lại đang vào mùa rét mướt, dân phu vận chuyển lương thảo rất cực nhọc. Như vậy quân Thát nhàn nhã chờ ta đến mà đánh, hại cho ta lắm. Chi bằng nhử cho chúng vào sâu phải hành quân xa, người ngựa mỏi mệt lúc ấy ta lấy quân nhàn nhã mà đánh ắt toàn thắng. Đó chính là kế dĩ dật đãi lao vậy.
Phú Lương hầu Vương Lâm nói:
– Thần nghĩ rằng từ Đại Lý sang ta chỉ có một đường đi qua Quy Hoá, vừa nhỏ hẹp vừa hiểm trở rất tiện cho việc bố phòng, một người trấn giữ trăm người khó qua. Ta nên chặn giặc ngay từ ngoài thì hơn, để chúng vào sâu tất tàn hại sinh linh bách tính.
Đại tướng Lê Tần bước ra tâu:
– Lời Phú Lương hầu nói cũng có lý nhưng theo kế sách của Hưng Đạo vương vẫn hơn, vì giặc chỉ ỷ vào kị binh, khi vào sâu trong đất ta sông ngòi chằng chịt chúng không thể tỏ rõ được sở trường. Đó chính là chỗ chết của chúng.
Hưng Đạo vương nói:
– Thần xin cử một đạo binh lên tăng viện cho các cửa ải để làm chậm bước tiến quân của giặc, mặt khác thông báo cho những vùng có thể giặc đi qua, đưa dân tạm lánh đi nơi khác, cất giấu hết thóc lúa trâu bò gà lợn để giặc không thể cướp bóc được. Khi chúng đã vào sâu, ta cho quân chặn đường tiếp lương thì mấy vạn quân binh của chúng sẽ thành ma đói cả.
Thái tông nghe theo kế ấy, lệnh cho Hưng Đạo vương tiến binh. Lúc tan triều, các tướng hỏi Lê Tần vì sao biết thái sư không nhận quyền tiết chế. Tần nói:
– Các ông chỉ biết chỗ dở của thái sư là không biết dàn binh phá trận mà không thấy chỗ hay của thái sư không tham quyền cố vị, việc không cáng đáng được, thành thực không nhận, thế lại chả hơn lắm kẻ chẳng hiểu cái mù tịt gì nhưng cứ tranh giành làm hỏng việc hay sao? Vả lại thái sư đánh thành cướp đất thì kém nhưng việc đắp móng xây nền, cất nhắc hiền tài đã ai sánh kịp. Triều Trần ta không có ông ấy liệu được như ngày nay? Người cẩn trọng như thế không thể mạo hiểm mà nhận quyền tiết chế.
Mọi người đều cho lời của Lê Tần là rất chí lý. Hôm sau Hưng Đạo vương phân công các tướng: Đội thứ nhất,Trần Khánh Dư lĩnh một nghìn quân lên tăng viện cho ải Yên Khâu chỉ cần giữ chân giặc trong năm ngày rồi tản vào rừng, khi đại quân của chúng đã qua thì chẹn đường không cho vận chuyển lương thảo. Đội thứ nhì, Lê Tần mang thuỷ binh lên trấn giữ bờ Nam ngã ba Bạch Hạc, khi giặc đến lập tức chặn đánh tiêu hao chúng rồi xuôi theo sông Lô1 đưa quân về Bình Lệ nguyên tăng cường cho trận tuyến của nhà vua và thái tử. Đội thứ ba, Hoàng thượng, thái tử Hoảng, Trần Khuê Kình, Bùi Khâm, Trung Thành vương đem ba vạn quân bày trận ở cánh đồng Bình Lệ đợi giặc. Đội thứ tư, Vương Lâm mang một vạn quân, năm trăm thuyền chiến chờ sẵn trên sông Nguyệt Đức, phòng tình huống bất trắc. Đội thứ năm, Thái sư Trần Thủ Độ, Nhân Đạo vương thống lĩnh toàn bộ hậu quân, tuỳ cơ tiếp ứng cho các đạo khi cần. Hưng Đạo vương đặt soái phủ tại Bình Lệ nguyên, bên cạnh nhà vua để ngày đêm cùng bàn kế sách.
*
Trần Khánh Dư năm ấy mới chưa đầy hai mươi tuổi, là con của tướng quân Trần Phó Duyệt ở châu Chí Linh, luyện tập võ nghệ từ nhỏ lại có sức khoẻ ít người sánh kịp, thường một mình dong thuyền đi chơi ở sông Lục Đầu xem buôn bán nên học được nhiều mẹo kinh doanh của thương khách, lần này được Quốc Tuấn tín nhiệm cho đem quân đi đánh giặc thì thích lắm, liền điểm binh đi ngay, khi đi đến địa phận Hưng Hoá, nghe nói trên núi Lịch có vị tiên tử đã tu luyện ở đấy từ thời Đinh Tiên Hoàng, có thể biết trước mọi việc. Khánh Dư mới cùng bộ tướng tìm đến, thấy một ông già tóc như tuyết nhuốm, mình gầy da khô, ngồi thiền trong am cỏ. Có khách tới, một tiên đồng bước ra chào, hỏi:
– Ngài có phải là tướng quân Trần Khánh Dư đó chăng?
Khánh Dư giật mình hỏi lại:
– Sao ngươi biết ta?
Tiên đồng nói:
– Sư phụ tôi bảo hôm nay Trần Khánh Dư tướng quân người đi đánh giặc qua thăm. Xin mời vào trong ạ.
Khánh Dư vào trong cúi chào tiên tử. Tiên ông đứng dậy đáp lễ, hỏi:
– Chẳng hay tướng quân có việc gì mà phải lặn lội đến thảo am này tìm bần đạo.
– Tiểu tướng nhận lệnh đi đánh giặc qua đây, nghe nói tiên ông tu luyện từ thời Đinh Tiên Hoàng Đế, đạo pháp đã dày, hiểu biết việc quá khứ vị lai. Xin tiên ông chỉ cho biết việc chinh chiến năm nay thế nào?
Tiên tử cười, nói:
– Thế mới biết người đời cũng khéo ngoa ngôn. Từ thời Đinh Tiên Hoàng đến nay đã ba trăm năm. Tôi cũng chỉ là người thường thôi, làm sao sống lâu đến thế. Còn như việc đánh giặc năm nay, muôn người một ý, thế nước đang lên há phải lo chi.
– Tiểu tướng còn ít tuổi mà được giao việc nặng không rõ mai hậu thế nào? Xin tiên ông dạy cho.
– Tướng quân cũng là người của cung Thanh Hư xuống đây sao lại hỏi vậy?
Khánh Dư tỏ ý không hiểu. Tiên tử lấy giấy bút vẽ một sợi dây vòng xuống, vòng lên, có chỗ gấp, lại vòng lên rồi đi thẳng. Cuối sợi dây ghi bốn chữ “nhất bách linh nhị”. Trên sợi dây có xiên mấy đồng tiền. Khánh Dư xin tiên tử giải nghĩa cho nhưng ngài chỉ cười. Lúc tiên đồng tiễn mọi người ra về, Khánh Dư mới trộm hỏi:
– Này! Nhà ngươi có biết sư phụ vẽ cái gì đây không?
Cũng may vớ chú tiên đồng lẻo mép nói:
– Đây! Sợi dây này là chỉ đường đời của tướng quân, vòng lên vòng xuống bốn khúc là trải bốn đời vua, kết thúc ở nhất bách linh nhị là ngài thọ một trăm lẻ hai tuổi. Mấy đồng tiền này là cuộc đời ngài dẫu làm tướng, tột đỉnh công danh vẫn không thoát được chuyện buôn bán tiền nong. Sư phụ còn bảo ngài cũng là một tiên đồng ở cung Thanh Hư nhưng vì có lần lấy một trăm lẻ hai đồng tiền của An Kì Sinh2 đi đánh đáo nên bị đày một trăm lẻ hai ngày, xuống hạ giới là một trăm lẻ hai năm.
Trần Khánh Dư cười, bảo:
– Làm sao mà ta thọ được đến thế?
Tiên đồng bảo:
– Nhưng ngài chớ vội mừng, còn một chỗ vòng xuống với một chỗ gấp đây này.
– Thể nghĩa là sao?
– Hai lần hút chết chứ sao nữa.
– Sao ta lại hút chết?
Tiên đồng không nói, bái biệt quay về. Sau này quả có hai lần Khánh Dư mắc tội suýt bị giết.
*
Bấy giờ trên ải Quy Hoá, tướng Hà Khuất đang chỉ huy vài trăm người chống lại mấy vạn quân Thát. Triệt Triệt Đô, A Nhĩ Hải, Bố Nhĩ Hải ba tướng vây đánh ải Quy Hoá suốt cả ngày không hạ được, quân lính thiệt hại rất nhiều, ban đêm bàn nhau bắc thang dây trèo lên. Hà Khuất ở bên trong ít quân lại đánh nhau suốt ngày, tên đạn cũng cạn cả. Quân Thát lợi dụng trời tối trèo vào thành. Hà Khuất đem tướng sĩ chạy về thành Yên Khâu chốt giữ. Cốt Đ•i Ngột Lang vào ải, hôm sau kéo thẳng xuống Yên Khâu.
Yên Khâu là một thành nhỏ bên bờ Thao giang, một bên là núi dựng đứng, một bên là nước sông chảy xiết, nếu không mở được ải thì toàn quân sẽ bị ùn lại trong một địa thế chật hẹp. Vì vậy vừa đặt chân tới, Cốt Đ•i Ngột Lang ra lệnh tấn công ngay nhưng Hà Khuất đ• cho đặt các giàn hồi hồi pháo1, lệ chi pháo bắn ra vô số đá lớn đá bé làm quân Thát không dám xông lên. Đánh suốt một ngày không được, đến đêm Hà Khuất lại cho quân luồn rừng vào sát trại quân Thát, bắn tên nỏ tẩm thuốc độc làm lính Thát sợ h•i không dám ra khỏi trại. Hôm sau, Hoài Đô dâng kế:
– Quân ta đông, quân Nam ít tất ban ngày chúng không dám ra ngoài, xin thống tướng cho đóng bè tre, nhá nhem tối cho quân xuôi dòng mà sang phía bên kia ải đốt lửa lên làm hiệu. Hai đầu đánh ập lại, nhất định bắt được tướng của chúng.
Cốt Đ•i Ngột Lang nghe theo, một mặt sai Triệt Triệt Đô, A Nhĩ Hải cứ việc đánh ải, mặt khác cho A Truật, Bố Nhĩ Hải, Hoài Đô Đem quân vào rừng chặt tre nứa đóng mấy trăm cái bè, gần tối lệnh cho Triệt Triệt Đô, A Nhĩ Hải càng đánh thành gấp để Hà Khuất không còn thì giờ chú ý đến mặt sông. Đầu giờ Tuất, Cốt Đãi Ngột Lang lệnh cho A Truật, Bố Nhĩ Hải đem hai nghìn quân lên bè xuôi xuống phía sau ải.
Canh ba đêm hôm ấy, Hà Khuất đang đốc quân chống giữ các mặt, từ sáng đến bấy giờ ông chưa hề được nghỉ chút nào, bỗng nghe phía sau ải có tiếng pháo nổ, lửa cháy lên rần rật, sáng rực cả núi rừng. Quân về báo sau ải có giặc. Thuộc tướng của Hà Khuất là Hà Bổng nói:
– Giặc đã vào thành, xin chủ tướng hãy dẫn quân tạm lánh vào rừng để đánh lâu dài với chúng.
Hà Khuất nói:
– Việc ấy ta giao cho con. Hãy báo thù cho ta.
Nói xong, Hà Khuất cầm đao nhảy lên mặt thành đánh nhau với quân Thát. Cây đao của Hà Khuất múa lên lấp lánh trong ánh lửa, đi đến đâu máu quân Thát phun ra đến đấy. Nhưng quân Thát đông quá, tất cả cùng nhằm vào bắn. Hà Khuất trúng mấy chục mũi tên, ngã gục trên mặt thành, tay vẫn nắm chặt thanh đao. Đời sau có thơ rằng:
Hà Khuất giữ biên ải
Son sắt tấm lòng trung
Quy Hoá ngăn bước giặc
Yên Khâu đánh đến cùng
Cánh nỏ còn giương mãi
Lưỡi đao vẫn vẫy vùng
Thao giang ngàn năm hát
Tên tuổi một anh hùng.
Hà Bổng thấy Hà Khuất đã chết, đánh mở đường máu đưa số quân còn lại vào rừng lập trại để đánh lâu dài, đêm đêm lẻn ra thổi tù và, bắn tên nỏ vào quân Thát.
Cốt Đãi Ngột Lang qua được ải Yên Khâu, nói với các tướng :
– Từ ải Quy Hoá đến đây có chưa đến một trăm dặm đường mà đi mất cả chục ngày, thế này bao giờ mới đến được La thành? Ngày mai các đội hành quân gấp, không được trễ nải.
Hoài Đô nói:
– Đường đất ở đây chật hẹp khó đi nhanh, đội hình kéo dài quá. Ví thử có quân giặc đánh chặn ngang phía sau thì lương thảo của ta mất hết. Xin thống tướng cho các xe lương đi về phía trước.
A Nhĩ Hải nói:
– Xe lương ở cả phía trước nhỡ gặp quân Nam ta khó có thể nhanh chóng bày trận được.
Triệt Triệt Đô nói:
-Tôi đem quân đi trước mở đường. Nguyên soái chia một nửa lương thảo đi thứ hai, còn một nửa để đi sau, như thế mới có thể vẹn toàn.
Cốt Đãi Ngột Lang bảo:
– Các ngươi nói đúng lắm. Ta cho Triệt Triệt Đô mang quân đi tiên phong, đường tắc thì mở, giặc chặn thì đánh. Bố Nhĩ Hải chia một nửa quân lương đưa về phía trước. A Truật đoạn hậu. Sớm mai lên đường.
Đội tiên phong của Triệt Triệt Đô đi được ba ngày bỗng có thám mã của Tín Thư Phúc về báo phía trước có một dạo quân Đại Việt chăn đường. Triệt Triệt Đô liền dẫn các dũng sĩ tiến lên xem thì thấy có một tướng trẻ cưỡi ngựa ô truy cầm cây thương dài đứng chặn giữa đường, tư thế rất oai phong. Triệt Triệt Đô hoành cây Nguyệt Lãng đại phủ trên lưng ngựa, hỏi:
– Thằng nhãi kia muốn chết hay sao mà dám cản đường ta?
Tướng trẻ kia cười lớn, nói:
– Ta đâu có muốn cản đường nhà ngươi. Nghe nói nhà ngươi có nhiều lương thảo lắm, ta chỉ muốn lấy một ít mà thôi.
Triệt Triệt Đô quát:
– Ngươi không biết ta là tiên phong Triệt Triệt Đô hay sao mà dám nói càn như vậy.
Tướng kia bảo:
– Ta không cần biết ngươi là tiên phong hay quỷ phong gì cả, chỉ muốn lấy lương thực của ngươi thôi. Hãy để các xe lương lại rồi ta cho đi.
Triệt Triệt Đô quay lại bảo các tướng:
– Hãy báo ngay cho Bố Nhĩ Hải phải trông coi lương thảo cẩn thận. Thằng này hung hăng lắm, không khéo nó cướp lương thật đấy.
Thật là:
Vất vả muôn phần qua được ải
Còn lo lương thảo khó chu toàn.
Mời bạn đọc tiếp chương sau xem tướng Việt ấy là ai.
(còn tiếp)
Đ.T