Đêm Ai Cập – Truyện ngắn của Pushkin (1799-1837)

Giá vé 10 rúp; mở màn lúc 7 giờ.

Tờ quảng cáo

(Thủy Nguyên dịch)…

Giá vé 10 rúp; mở màn lúc 7 giờ.

Tờ quảng cáo

(Thủy Nguyên dịch)…

Gian phòng của công tước phu nhân X. được dành cho cuộc biểu diễn của nhà thơ ứng tác. Người ta đã dựng lên một cái bục. Ghế ngồi được xếp thành mười hai hàng. Đến ngày đã định, đúng bảy giờ tối, gian phòng thắp đèn sáng trưng. Trước cửa đặt một cái bàn con có một người đàn bà mũi dài ngồi bán vé, đầu đội mũ dạ màu xám có cắm những chiếc lông chim gáy xơ xác, tay đeo đầy nhẫn. Ngoài cổng có mấy viên cảnh binh đứng. Công chúng bắt đầu lục tục kéo đến. Tsarxki là một trong những người đến sớm nhất. Chàng rất thiết tha với buổi biểu diễn và muốn gặp nhà thơ ứng tác để hỏi xem chàng ta đã hài lòng về những việc tổ chức trang trí chưa. Tsarxki gặp nhà thơ người Ý đang sốt ruột ngồi nhìn đồng hồ trong gian phòng bên; người Ý ăn mặc như một diễn viên trên sân khấu. Chàng ta vận toàn màu đen từ đầu đến chân. Cái cổ sơ-mi thêu đăng ten để hở ra, và màu da trắng bệch trên cổ tương phản một cách kỳ dị với bộ râu đen rậm rạp. Mái tóc nhà thơ rủ xuống từng chùm viền lấy vầng trán và đôi lông mày. Những thứ đó không làm cho Tsarxki vừa lòng lắm: chàng thấy khó chịu khi thấy một nhà thơ mà lại ăn mặc như một thằng hề như vậy. Tsarxki hỏi thăm anh ta dăm ba câu và ra ngồi ở phòng ngoài. Bấy giờ công chúng đến mỗi lúc một đông.
Chẳng bao lâu các dãy ghế bành đã chật những khách nữ giới ăn mặc cực kỳ sang trọng. Nam giới thì đứng vòng quanh thành một cái khung chật ở cạnh bục, dọc hai bên tường và sau hàng ghế cuối cùng. Các nhạc công đặt giá nhạc và ngồi ở hai bên bục. Ở giữa, trên một chiếc bàn có đặt một cái bình sứ. Công chúng đến rất đông. Mọi người đều nóng lòng chờ buổi biểu diễn bắt đầu. Cuối cùng đến bảy giờ rưỡi các nhạc công rục rịch soạn sửa, rồi bắt đầu chơi đoạn nhạc mở màn của vở Tăngkrét(7). Mọi người đều ngồi vào chỗ và im lặng. Những phách cuối cùng của đoạn nhạc mở màn đã cử xong… Nhà thơ ứng tác bước ra, tiếng vỗ tay từ bốn phía nổi lên vang dội. Người Ý vừa cúi chào, vừa đi ra đến tận ngoài lề cái bục.
Tsarxki sốt ruột chờ xem cái phút đầu này gây một ấn tượng như thế nào, nhưng chàng để ý thấy rằng cách phục sức của người Ý mà chàng thấy khó chịu, lại không hề gây nên trong công chúng một ấn tượng như thế. Ngay bản thân chàng cũng không thấy anh ta có gì buồn cười khi trông thấy anh ta ở trên bục, khuôn mặt tái xanh, dưới ánh sáng rực rỡ của cây đèn treo và đèn nến. Tiếng vỗ tay đã ngớt, tiếng nói chuyện im hẳn… Người Ý dùng một thứ tiếng Pháp lơ lớ thỉnh cầu các quý khách ra cho một số đề, vị nào ra đề sẽ viết nó vào một mảnh giấy riêng. Trước lời thỉnh cầu đột ngột đó mọi người đều im lặng đưa mắt nhìn nhau, chẳng ai đáp lại lấy một lời. Người Ý đứng đợi một lát, rồi nhắc lại lời thỉnh cầu lúc nãy với một giọng rụt rè, nhỏ nhẻ. Tsarxki bấy giờ đứng ngay ở bên cạnh bục. Chàng bắt đầu thấy lo lắng bứt rứt; chàng thấy trước rằng không có chàng thì e việc này không xong, và thế nào rồi chàng cũng phải viết đầu đề của mình ra. Quả nhiên mấy cái đầu phụ nữ đã quay sang phía chàng và bắt đầu cất tiếng gọi chàng, lúc đầu họ còn gọi khe khẽ, sau càng ngày càng to dần. Nghe tên Tsarxki, nhà thơ ứng tác liền đưa mắt tìm chàng ở phía dưới chân mình, rồi trao cho chàng một cây bút chì và mảnh giấy, miệng mỉm cười thân ái. Phải đóng một vai trò trong tấn hài kịch này, Tsarxki rất khó chịu, nhưng bây giờ không còn biết làm thế nào nữa; chàng cầm lấy cây bút chì và mảnh giấy trên tay người Ý viết mấy chữ vào đấy. Người Ý từ trên bục bước xuống, đến lấy cái bình để trên bàn đưa cho Tsarxki. Tsarxki bỏ mảnh giấy của mình vào bình. Guơng của chàng có tác dụng ngay; hai nhà báo, với tư cách là những người hoạt động văn học, tự thấy có nhiệm vụ mỗi người viết một đề. Viên thư ký đại sứ quá Nêapôn và một chàng thanh niên vừa mới đi du lịch về và trí óc đang còn mơ tưởng thành Phlôrenxi cũng ra đề bỏ vào bình. Cuối cùng một cô con gái xấu xí, theo lệnh của bà mẹ, nước mắt lưng tròng, cũng viết mấy dòng bằng tiếng Ý và đỏ mặt tía tai đưa cho nhà thơ ứng tác, trong khi các bà các cô khác nhìn cô ta, trên nét mặt thoáng vẻ giễu cợt. Trở về bục, nhà thơ ứng tác đặt chiếc bình lên bàn và bắt đầu lần lượt lấy mấy mảnh giấy ra đọc to từng mảnh một:
Gia đình Tsentsi.
(La famiglia dei Cenci.)
L’ultimo giorno di Pompeia.
Cleopatra e i suoi amanti.
La primavera veduta da una prigione.
Il trionfo di Tasso.

(Gia đình Tsentsi. – Ngày cuối cùng của thành Pômpei. – Clêôpatra và các tình nhân của bà ta. – Mùa xuân nhìn qua cửa ngục. Cuộc khải hoàn của Tasso – tiếng Ý)(8)
– Thưa quý vị, ý quý vị thế nào ạ! – người Ý rụt rè hỏi đám công chúng. – Bây giờ tôi tự chọn lấy một trong các đề tài đã ra hay cần phải bắt thăm để quyết định ạ?
Trong đám đông có tiếng nói:
– Bắt thăm!
– Bắt thăm, bắt thăm! – công chúng lặp lại.
Nhà thơ ứng tác lại từ trên bục bước xuống, tay cầm chiếc bình, hỏi công chúng: – Vị nào vui lòng muốn rút thăm xem cần phải chọn đề nào đây ạ? – Nhà thơ ứng tác đưa mắt van lơn nhìn qua mấy dãy ghế trước. Trong số các cô các bà ăn mặc sang trọng ngồi ở đấy không có ai nhúc nhích. Nhà thơ Ý chưa quen với cái vẻ lạnh nhạt của người phương Bắc nên hình như khổ tâm lắm… Chợt chàng ta trông thấy phía bên cạnh có một bàn tay nho nhỏ đi găng trắng giơ lên. Chàng háo hức quay sang phía đó và đến gần một thiếu nữ xinh đẹp ngồi một cách trang trọng ở cuối dãy ghế thứ hai. Cô thiếu nữ không chút ngượng nghịu thò bàn tay quý phái vào bình và, với cử chỉ hết sức tự nhiên đơn giản, rút ra một mảnh giấy.
Nhà thơ ứng tác bảo thiếu nữ:
– Xin cô làm ơn mở ra và đọc lên cho.
Cô thiếu nữ mở mảnh giấy ra và đọc:
Cleopatra e i suoi amanti.

Cô thiếu nữ đọc rất khẽ, nhưng trong phòng bấy giờ im phăng phắc nên ai nấy đều nghe rõ mồn một. Nhà thơ ứng tác cúi mình rất thấp chào cô thiếu nữ, vẻ biết ơn sâu sắc, và trở về chiếc bục của mình, quay về phía công chúng nói:
– Thưa quý vị, như vậy là tôi phải ứng tác theo đề tài “Clêôpatơra và các tình nhân của bà”. Tôi xin trân trọng yêu cầu vị nào đã ra đề này cho biết rõ ý: vị đó muốn nói đến những người tình nào, perché la grande regina n’aveva molto… (vì vị nữ hoàng vốn có nhiều tình nhân lắm… – tiếng Ý)
Nghe nói đoạn nhiều vị khách nam giới cuời rất to tiếng. Nhà thơ ứng tác hơi luống cuống. Chàng nói tiếp:
– Tôi muốn hỏi vị nào đã chọn đề tài này xem vị đó có ý ám chỉ cố sự lịch sử nào… Nếu vị đó có lòng giải thích rõ, tôi xin cảm ơn vạn bội.
Không có ai chịu trả lời ngay cho. Một vài thiếu phụ nhìn sang phía người thiếu nữ xấu xí lúc nãy đã viết đề theo lệnh của bà mẹ. Người con gái đáng thượng nhận thấy sự chú ý thiếu thiện cảm này và cảm thấy bối rối, đến nỗi nước mắt chảy ướt cả hàng mi… Tsarxki trông thấy thế không sao đành lòng được. Chàng quay sang phía nhà thơ ứng tác và nói với anh ta bằng tiếng Ý:
– Đề đó chính tôi ra. Tôi muốn nói đến một mẩu chuyện do Avrêlia Víchto(9) kể lại. Theo câu chuyện này thì nữ hoàng Clêôpatơra có lần đã định giá một đêm ân ái của mình là một mạng người, và đã có những người không thấy sợ hãi và ghê tởm trước điều kiện này… Nhưng tôi thấy hình như đề tài này hơi khó khăn một chút… có lẽ chọn một đề tài khác chăng?…
Nhưng nhà thơ ứng tác đã bắt đầu cảm thấy hơi thở của thần thi ca… Chàng ra hiệu cho các nhạc công bắt đầu cử nhạc. Sắc mặt chàng tái xanh đi một cách kinh khủng, chàng run lên như đang cơn sốt; mắt chàng sáng lên một tia lửa thần diệu; chàng lấy tay hất mái tóc đen nhánh, dùng khăn mùi – soa lau vầng trán cao lấm tấm mồ hôi… rồi bỗng bước tới trước, khoanh tay trước ngực thành hình chữ thập… Âm nhạc ngừng… Cuộc ứng tác bắt đầu.

Lâu đài rực sáng. Tiếng đồng ca,
Tiếng đàn ngân theo tiếng sáo chung hoà.
Nữ hoàng đấy, mắt đưa cùng tiếng nói
Làm tưng bừng thêm tiệc lớn nguy nga;
Những trári tim vươn sát tới ngai vàng,
Bỗng nữ hoàng nghiêng mái đầu diễm lệ
Trên chén vàng, dáng trầm lặng nghĩ suy…

Và tiệc lớn huy hoàng như lặng thiếp ngay đi…
Khách bặt tiếng và im ngừng giọng hát.
Nhưng nữ hoàng lại bừng vui khoé mắt,
Ngầng đầu lên dõng dạc tiếng truyền đưa:
– Được ái ân cùng ta là diễm phúc các người ư?
Diễm phúc ấy các ngươi mua được đấy!
Hãy im lặng nghe lời ta phán dạy:
Giữa chúng ta, ta muốn xoá rào ngăn,
Ai sẽ cùng ta mua bán ái ân?
Ái ân ấy phen này ta sẽ bán;
Hãy nói đi ai là người sẽ dám
Mua một đêm ân ái với riêng ta,
Và trả bằng tính mệnh chẳng kêu ca!

Nữ hoàng phán – và mọi người kinh hãi
Và bao nhiêu trái tim rung vì lửa lòng rực cháy…
Nàng lắng nghe: bối rối tiếng thì thầm,
Gương mặt lạnh lùng, ngạo nghễ dửng dưng,
Và khinh khỉnh mắt đưa nhìn mọi kẻ
Đang ước mơ mình mà nỗi lòng không dám hé…
Bỗng một người rẽ vội đám đông lên,
Và tiếp buớc là hai chàng khác nữa.
Thế hiên ngang, mắt ngời như ánh lửa;
Nàng đứng lên nghênh tiếp ba người
Lòng thuận lòng ba tối trắng mua vui
Và chăn gối cõi âm đang dập dồn gọi họ.

Và kìa trông các thầy phù thuỷ nọ
Đã dốc bình định mệnh sẵn trong tay
Trước mặt bao người đang lặng đứng nơi đây;
Ba chiếc thăm định kẻ sau người trước.
Và Phlavi là tên người thứ nhất,
Đã lừng danh tay tráng sĩ can trường,
Trong đoàn quân La Mã ruổi muôn phương;
Từng dạn gót bàn chân nơi trận địa;
Không chịu nổi nữ hoàng kia ngạo nghễ,
Quá khinh người vênh váo kiu căng;
Chàng nhận lời thách thức ái ân
Như đã nhận, những ngày trên trận tuyến
Lời thách thức bước vào huyết chiến.
Tiếp theo chàng: vị hiền triết Critôn,
Tuổi thiếu niên, nhưng tiếng đã vang đồn,
Chàng sinh trưởng trong cánh rừng hút gió
Của Êpiquya(10) và tôn thờ ngưỡng mộ
Kipriđa(11), Kharít(12) và Amua(13).
Trông dáng chàng mắt ngắm thảy đều ưa,
Như một đoá hoa xuân vừa hé nở.

Người sau rốt, tên chẳng truyền trong sử,
Trên má chàng mơn mởn chớm lông tơ,
Trên mắt chàng lóng lánh ánh lửa say mơ,
Và sức mạnh ái ân dường sóng bể
Sôi sục dậy trong tim chàng son trẻ,
Và nữ hoàng kinh ngạc ngước trông chàng.
– Ôi! Nữ thần của lạc thú truy hoan,
Ta nguyện sẽ cúi bên người phụng sự
Như một kẻ trên đời chưa từng có
Ta tới nơi như một kẻ nữ tỳ
Trên gối chăn của ân ái mê ly.
Hãy nghe đây, hỡi nữ thần Kipriđa,
Các ngươi nữa, hỡi các thần địa ngục,
Hỡi các thần của Aít(14) hung tà!
Ta nguyện thề đến tận sáng mai ra
Cho đến phút bình minh bừng toả sáng,
Ta nguyện quyết sẽ làm cho thoả mãn
Những lòng người lửa dục đang bùng lên,
Ta sẽ làm mê mẩn đến cuồng điên
Những kẻ chiếm thân ta và sẽ làm sáng rõ
Những bí quyết ái ân đã từng che giấu họ,
Với khoái lạc thần tiên mãn nguyện tràn đầy.
Nhưng hễ chúa bình minh vĩnh cửu đã vung tay
Tung ánh sáng lên trời cao chói đỏ,
Ta thề – dưới lưỡi dao thần đao phủ
Đầu những người diễm

Thoạt đầu Puskin đặt tên cho truyện này là “Clêôpatơra”. Ông viết vào mùa thu năm 1835 ở Mikhailốpxkôiê. Tác phẩm không đuợc hoàn thành trọn vẹn. Có lẽ Puskin sử dụng trích đoạn trường ca bỏ dở “Êderxki” (1833) và bài thơ về Clêôpatơra viết năm 1824 và đuợc viết lại năm 1828 của mình đua vào truyện làm lời ứng tác của nghệ sĩ Ý. Hình tượng nhà thơ ứng tác có thể có đuợc do ấn tượng sau các buổi trình diễn của người Đức tên là Mắc Langhesvartxơ đến nước Nga năm 1832. Người bạn gần gũi của Puskin, nhà thơ Ba Lan Ađam Mitxkiêvích cũng có tài ứng tác thơ. Ở hình tượng Tsarxki, Puskin đua vào một số nét tiểu sử của bản thân. Truyện “Đêm Ai Cập” lần đầu in sau khi nhà thơ đã qua đời, trong tạp chí “Người đuơng thời” (1837, t. VIII).

1) Đề từ này lấy ở “Tùng thư trò chơi chữ” (1771) của hầu tước Biơvrơ.
2) Món kem sữa làm ở cửa hàng kẹo bánh của Rêdanốp ở Pêterburg.
3) Métxenát – người đỡ đầu khoa học và nghệ thuật; gọi theo tên một nhà quý tộc giàu có ở Rôm, nổi tiếng che chở các nhà thơ và hoạ sĩ.
4) Đề từ trích trong bài tụng ca “Thượng đế” (1784) của G. Đergiavin.
5) Đexđêmôna – nữ nhân vật trong bi kịch “Ôtenlô” (1604) của U. Sếchxpia.
6) La singnora Catalani – bà Catalani Angiêlica (1780-1849) – nữ ca sĩ nổi tiếng người Ý, những năm 20 thế kỷ XIX sang biểu diễn ở Pêterburg.
7) “Tăngkrét” (1813) – nhạc kịch của nhạc sĩ Ý Gioakinô Rôxinhi (1792-1868) dựa trên cốt truyện bi kịch cùng tên của Vônte (1760). Đuợc công diễn ở Pêterburg vào mùa biểu diễn năm 1834-1835.
8) Gia đình Tsentsi – một gia đình quyền quý ở La Mã. Năm 1598 các thành viên của gia đình này bị truy tố vì tội giết người cha của gia đình là Phrantsexcô Tsentxi. Cảnh sát của Giáo hoàng Klimen VIII dò la đuợc rằng tham gia vào vụ giết người này có cô con gái của Phrantsexcô – cô Bêatơritsê xinh đẹp, em trai cô ta và dì ghẻ của họ, vợ Phrantsexcô là Lukrêtxia Pêtơrônhi. Mặc dù toà án đã rõ ràng việc giết người có nguyên nhân là sự lăng nhục quá đáng của gã Phrantsexcô truỵ lạc và chuyên quyền đối với các thành viên trong gia đình, nhưng các bị cáo vẫn bị kết án tử hình. Thái độ kiên quyết của Bêatơritsê thể hiện trong khi bị tra tấn và lúc lên đoạn đầu đài đã khiến cho mọi người thương cảm. Lịch sử gia đình Tsentsi là cơ sở cho một loạt tác phẩm văn học.
Ngày cuối cùng của thành Pômpei. – Chủ đề để ứng tác thơ có lẽ đuợc gợi ra bởi bức tranh của Cáclơ Pêtơrôvích Briulốp (1799-1852) đuợc trưng bày ở Pêterburg năm 1834 và gây tiếng vang lớn trong dư luận.
Clêôpatơra và các tình nhân của bà. – Clêôpatơra (69-30 trước công nguyên) – nữ hoàng cuối cùng của Ai Cập. Triều đại của bà ta trùng với giai đoạn Ai Cập bị La Mã chinh phục. Nhằm giữ được quyền binh trong tay mình, Clêôpatơra đã gắn bó số phận của mình khi thì với Xêda, lúc thì với Mắccơ Antôni (thống lĩnh quân đội La Mã đã chạy sang Ai Cập). Khi Mắccơ Antôni bị Ốctavian đánh bại, Clêôpatơra đã uống thuốc độc tự tử, và Ai Cập bị sáp nhập với La Mã. Clêôpatơra nổi tiếng vì trí thông minh, vì sắc đẹp hiếm có, vì tri thức và thói truỵ lạc. Hình tượng Clêôpatơra và số phận của bà ta là đề tài của nhiều tác phẩm văn học.
Mùa xuân nhìn qua cửa ngục. – Đề tài có lẽ được gợi ra bởi chi tiết trong cuốn sách nổi tiếng lúc đó của nhà văn và nhà hoạt động chính trị Ý Xinviô Penlicô (189-1854) “Những nhà ngục của tôi” (1832)
Cuộc khải hoàn của Tasso. – Tốcvatô Tasso (1544-1595) – nhà thơ Ý nổi tiếng thời Phục Hưng. Sống dưới triều quận công Phêrarơxki Anphôngxơ II. Do nhhững mưu toan thoán đoạt trong cung đình nên bị giam vào ngục, đến cuối đời vẫn bị truy nã và bị chết trong nhà tu ít lâu trước khi được vòng nguyệt quế ở Kapitôlia. Về đề tài này K.N. Bachiuskốp (1787-1855) đã viết bản sầu ca “Tasso hấp hối” (1817).
9) Ý nói tình tiết trong cuốn sách “Về những con người danh tiếng của thành La Mã” mà người ta cho là của nhà văn và nhà sử học La Mã cổ đại Xếchxtơ Avrêlia Víchto (thế kỷ IV sau công nguyên).
10) Êpiquya – triết gia duy vật cổ Hy Lạp thế kỷ IV-III trước công nguyên, cho rằng mục đích cuộc sống là hướng khoái lạc.
11) Kipriđa – tên gọi nữ thần tình yêu của người Hy Lạp cổ đại.
12) Kharít – trong thần thoại cổ Hy Lạp thì ba chị em nữ thần tượng trưng cho sự duyên dáng và lôi cuốn.
13) Amua – thần tình yêu của người La Mã cổ đại. Được thể hiện qua hình hài một chú bé trần truồng có đôi cánh sau lưng và bộ cung tên.
14) Aít – theo thần thoại cổ Hy Lạp, đó là thần của âm phủ và của vương quốc các người chết.

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder