– Thật vậy, vì chỉ tiếng chày nện dạ cũng đã đủ làm cho một hiệp sĩ giang hồ dũng cảm như ngài mất ăn mất ngủ. Ngoài ra, ngài có thể tin tưởng từ nay tôi sẽ không mở mồm chế giễu ngài nữa mà chỉ để ca tụng ngài như một người chủ của tôi.
– Có như thế anh mới sống được trên trái đất này vì sau bố mẹ, con người ta cần phải biết kính trọng ông chủ của mình, coi cũng như bố mẹ vậy… (Tiếp kì 10)
– Thật vậy, vì chỉ tiếng chày nện dạ cũng đã đủ làm cho một hiệp sĩ giang hồ dũng cảm như ngài mất ăn mất ngủ. Ngoài ra, ngài có thể tin tưởng từ nay tôi sẽ không mở mồm chế giễu ngài nữa mà chỉ để ca tụng ngài như một người chủ của tôi.
– Có như thế anh mới sống được trên trái đất này vì sau bố mẹ, con người ta cần phải biết kính trọng ông chủ của mình, coi cũng như bố mẹ vậy. (Tiếp kì 10)
Chương 19
TỪ CUỘC TÂM SỰ GIỮA XANTRÔ VÀ ĐÔN KIHÔTÊ ĐẾN CUỘC GẶP GỠ VỚI MỘT CÁI XÁC CHẾT, CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC LY KỲ KHÁC
– Thưa ông chủ, hình như tất cả những chuyện không may xảy ra trong mấy ngày hôm nay là một sự trừng phạt đối với ngài vì ngài đã vi phạm luật lệ của hiệp sĩ đạo. Ngài đã không làm đúng lời thề là ăn không cần ngồi bàn, sống không gần vợ, và còn nhiều điều khác nữa mà ngài đã hứa sẽ thực hiện chừng nào chưa đoạt được cái mũ sắt của Malanđrinô, tên Môrô mà tôi không nhớ rõ tên tuổi lắm.
– Xantrô, anh nói rất đúng, Đôn Kihôtê đáp; thú thực, ta quên bẵng đi mất; và anh có thể chắc chắn rằng vì đã không nhắc nhở ta kịp thời nên anh đã bị trêu ghẹo. Thôi được, rồi ta sẽ sửa vì trong hiệp sĩ đạo có nhiều cách giải quyết.
– Nhưng tôi có thề thốt gì đâu?
– Dù anh không thề cũng vậy thôi vì chỉ cần anh có đóng góp vào sự sai trái của ta. Cho nên, dù có thề hay không thề cũng cần phải tìm cách sửa.
– Nếu như vậy, xin ngài chớ quên điều này cùng những lời thề cũ. Có thể lũ yêu ma lại định trêu ghẹo tôi lần nữa, thậm chí còn trêu ghẹo cả ngài nữa kia.
Còn đang trò chuyện thì trời đã tối mà hai người vẫn chưa tìm được chỗ nghỉ chân; thêm vào đó, cả hai đều đói bụng mà cái túi hai ngăn đựng lương thực thì mất rồi. Đã thế, trời lại tối đen như mực. Tuy vậy, họ vẫn đi. Xantrô đinh ninh rằng đi độ một hai dặm nữa trên đường cái quan này, chắc sẽ gặp quán trọ. Hai thầy trò cứ mò mẫm trong đêm tối, trò đói bụng, thầy cũng muốn ăn. Bỗng đâu từ phía trước mặt tới thấy có rất nhiều đốm lửa, trông như sao đổi ngôi. Xantrô lạnh toát cả người, Đôn Kihôtê cũng đâm hoảng. Bác giám mã ghì dây tròng lừa, chàng hiệp sĩ ghì cương ngựa, rồi cả hai nín lặng nhìn chăm chú xem sao. Những đốm lửa vẫn tiến về phía họ, càng gần càng to. Xantrô run bần bật, tóc trên đầu Đôn Kihôtê cũng dựng ngược lên. Chàng hiệp sĩ cố trấn tĩnh nói:
– Xantrô, chắc chắn đây là một chuyện phiêu lưu lớn nhất và nguy hiểm nhất, đòi hỏi ta phải dốc hết can đảm và sức lực ra.
– Vô phúc cho tôi chưa! Nếu lại có một chuyện ma quái nữa như tôi cảm thấy, thử hỏi còn đâu xương sườn để chịu đòn.
– Dù có ma quái chăng nữa, ta cũng sẽ không để chúng chạm tới một sợi lông ở áo anh. Sở dĩ trước đây chúng trêu ghẹo anh vì ta không vượt tường nhảy vào sân được; nhưng bây giờ chúng ta ở nơi đất bằng và ta có đất để múa gươm.
– Nhưng nếu chúng lại làm cho ngài mê mẩn và liệt cả tay chân, thử hỏi ở nơi đất bằng có được lợi lộc gì hay không?
– Xantrô, dù sao ta cũng khuyên anh nên có can đảm; rồi anh sẽ thấy ta không run sợ trước bọn chúng.
– Ơn nhờ Chúa, tôi sẽ có can đảm.
Hai người đứng né sang bên đường chăm chú nhìn xem những đốm lửa di động kia là cái gì thì thấy một đám người choàng áo lễ trắng. Cảnh tượng khủng khiếp đó khiến Xantrô Panxa mất hết tinh thần, hai hàm răng cứ đập vào nhau như lên cơn sốt rét, càng nhìn rõ bao nhiêu tóc càng dựng ngược và răng càng đập mạnh bấy nhiêu. Trước mắt họ có tới hai chục người cưỡi la, mặc áo trắng dài, tay cầm đuốc; rồi đến một cái kiệu phủ toàn vải đen theo sau có sáu người cũng cưỡi la, cả người lẫn vật đều để tang suốt từ đầu tới chân (nhìn bước đi chậm chạp của những con vật cũng thấy rõ không phải là ngựa). Những người choàng áo trắng dài vừa đi, vừa rì rầm cầu nguyện với một vẻ thương xót. Cảnh tượng rùng rợn này, giữa đêm hôm khuya khoắt vắng vẻ, đủ làm cho Xantrô và ngay cả chủ bác phải hoảng hồn. Bác giám mã đã bắt đầu chùn; trái lại, Đôn Kihôtê tưởng tượng ngay ra một chuyện phiêu lưu mạo hiểm như đã đọc trong sách.
Chàng nhìn cái kiệu hóa ra cái cáng, trên đó có một hiệp sĩ bị trọng thương hoặc đã chết, và nhiệm vụ của chàng là phải trả thù cho kẻ bị nạn.
Thế là, chẳng nói chẳng rằng, chàng cầm ngang ngọn giáo, ngồi lại ngay ngắn trên yên ngựa, rồi với một vẻ hiên ngang đĩnh đạc, đứng ra giữa đường chờ đám người mặc áo choàng trắng đi tới. Khi họ đã tới gần, Đôn Kihôtê cất cao giọng:
– Hỡi các hiệp sĩ, bất kể các người là ai, hãy dừng lại xưng danh và nói cho ta biết các người từ đâu tới đây, đi đâu và khiêng ai trên cáng kia. Xem ra, các người đã gây tội lỗi hay đã bị ai gây hấn và ta cần phải biết điều đó để một là trị tội các người, hai là rửa hận cho các người.
– Chúng tôi đang vội, một người khoác áo choàng trắng đáp, quán trọ còn xa; chúng tôi không thể dừng lại để báo cáo theo yêu cầu của ngài.
Nói rồi, người đó thúc la vượt lên. Đôn Kihôtê đùng đùng nổi giận, nắm ngay cương con la, thét:
– Đứng lại; hãy tỏ ra có lễ độ hơn và trả lời những câu hỏi của ta; nếu không ta sẽ đánh cả bọn.
Con la này nhát tính, thấy có người nắm cương, chồm bốn vó lên rồi ngã lăn ra đất, quật cả chủ nó xuống theo. Có một anh hầu đi bộ, nhìn thấy cảnh đó, bèn chửi rủa Đôn Kihôtê. Hăng máu, chàng hiệp sĩ nắm chặt ngọn giáo, xông vào một người mặc đồ tang quật ngã xuống đất rồi quay sang đánh luôn những người khác, tả xung hữu đột, nom thật đẹp mắt, con Rôxinantê lướt trên mặt đất một cách oai hùng như mới có thêm đôi cánh. Đám người mặc áo choàng trắng không quen đánh nhau, lại không có vũ khí, vội bỏ cuộc, tay cầm đuốc chạy khắp cánh đồng, nom giống như những người đeo mặt nạ hóa trang trong buổi dạ hội; những người mặc tang phục, bị lúng túng trong bộ đồ dài lượt thượt, không sao trở tay được, khiến Đôn Kihôtê được một phen đánh đuổi thích tay. Họ tưởng chàng không phải người trần mà là một con quỷ ở địa ngục lên cướp tử thi trong kiệu.
Trước cảnh tượng đó, Xantrô rất khâm phục sự dũng cảm của chủ, bác tự nhủ: “Chủ ta thật là can đảm như ngài vẫn nói”.
Có một bó đuốc cháy dở dưới đất, soi rõ người mặc áo choàng trắng bị con la vật ngã lúc đầu; chợt nhìn thấy, Đôn Kihôtê tiến lại gần, gí ngọn giáo vào mặt, bắt phải đầu hàng, nếu không sẽ giết chết. Người mặc áo choàng trắng vội đáp:
– Tôi đã hàng từ lâu vì tôi có nhúc nhích được đâu, tôi bị gãy một đùi rồi. Nếu ngài là một hiệp sĩ theo đạo Ki-tô, tôi van ngài đừng giết tôi, nếu không ngài sẽ mắc một điều đại bất kính vì tôi đã đỗ cử nhân và mới được thụ phong giáo chức.
– Ông là người của Giáo hội ư? Đôn Kihôtê hỏi. Vậy ai run rủi ông tới đây?
– Ai ư? Thưa ngài, sự bất hạnh dẫn tôi tới đây.
– Vậy thì ông sẽ gặp một sự bất hạnh lớn hơn nếu không thỏa mãn tôi và trả lời những câu hỏi của tôi.
– Ngài sẽ được thỏa mãn ngay bây giờ, người tự khoe là ông cử đáp; tôi không đỗ cử nhân như đã nói lúc nãy mà mới có bằng tú tài; tên tôi là Alônxô Lôpêx, quê quán tại Alcôbenđax; tôi tới tỉnh Baêda cùng với mười một giáo sĩ khác là những người cầm đuốc vừa chạy trốn lúc nãy; chúng tôi đưa một cái kiệu trong có tử thi một hiệp sĩ đến tỉnh Xêgôvia; hiệp sĩ này chết ở Baêda và đã được chôn ở đó; bây giờ chúng tôi đưa hài cốt về Xêgôvia là nơi chôn rau cắt rốn của chàng.
– Ai giết hiệp sĩ đó? Đôn Kihôtê hỏi.
– Chúa đã bắt tội chàng sau một cơn sốt ác liệt.
– Nếu vậy, Chúa đã miễn cho tôi nhiệm vụ báo thù cho chàng vì một khi Chúa bắt tội ai, người đó phải cúi đầu tuân theo không được cưỡng lại. Ví thử Chúa bắt tội bản thân tôi, tôi cũng sẽ chịu như vậy. Tiện đây, tôi cũng muốn nói để ngài biết rằng tôi là một hiệp sĩ ở xứ Mantra, tên là Đôn Kihôtê, và công việc của tôi là đi khắp đó đây để bênh vực kẻ hèn yếu, trả thù cho những người bị xúc phạm.
– Chẳng biết ông bênh vực kẻ hèn yếu ra sao mà làm đùi tôi gãy đôi thế này, không bao giờ thẳng lại được nữa; còn nói rằng ông trả thù cho người bị xúc phạm thì thực ra ông đã xúc phạm tôi tới mức không bao giờ gột rửa được. Thật là đại bất hạnh cho tôi đã gặp phải một hiệp sĩ giang hồ như ông.
– Thưa ông tú Alônxô Lôpêx, mọi việc trên đời này đều không giống nhau đâu. Sở dĩ xảy ra chuyện không may này là do các ông đi đêm, lại mặc áo choàng trắng và đồ tang, tay cầm đuốc, mồm lầm rầm cầu nguyện, thành thử trông các ông giống hệt lũ ma quỷ ở thế giới bên kia. Trước trách nhiệm không thể trốn tránh được, tôi đã xông vào đánh các ông; và dù các ông có là quỷ Xa-tăng ở địa ngục thật, như tôi đã tưởng, tôi cũng không tha.
– Không may cho tôi xảy ra cơ sự như thế này, mong ngài hiệp sĩ giang hồ (ngài đã làm tôi khốn khổ) hãy kéo tôi ra khỏi con la vì đùi tôi bị kẹp giữa cái yên và bàn đạp.
– Thế mà chẳng bảo ngay! Còn đợi đến bao giờ mới nói?
Đôn Kihôtê vội gọi Xantrô Panxa lại, nhưng bác giám mã chưa buồn đến ngay vì còn đang bận vơ vét lương thực chất trên một con la đi cùng với đoàn này. Bác lấy áo khoác làm thành một cái túi, lèn đầy thực phẩm, rồi đặt lên lưng con lừa của mình, xong đâu đấy mới chạy lại kéo ông tú tài ra khỏi con la, đỡ ngồi lên yên và trả lại cho ông ta bó đuốc. Đôn Kihôtê nhờ ông ta chuyển lời xin lỗi tới những người kia về sự việc đáng tiếc vừa xảy ra mà chàng không thể tránh được. Xantrô cũng nói thêm:
– Nếu các bạn của ngài muốn biết con người dũng cảm đã làm cho họ thất điên bát đảo là ai, xin hãy nói lại rằng đó là chàng Đôn Kihôtê trứ danh ở xứ Mantra, còn gọi là hiệp sĩ Mặt Buồn.
Sau khi ông tú tài đi khỏi, Đôn Kihôtê hỏi Xantrô lý do vì sao lại gọi chàng là hiệp sĩ Mặt Buồn. Xantrô đáp:
– Tôi xin nói. Sở dĩ tôi gọi như vậy là vì khi nhìn ngài dưới ánh đuốc của ông tú bất hạnh nọ, tôi thấy ngài có một bộ mặt xấu xí quá, chưa từng thấy như vậy bao giờ. Có thể vì lúc đó ngài đánh nhau bị mệt, hoặc giả vì thiếu mất mấy cái răng chăng.
– Không phải thế đâu; đó là vì nhà sử học có nhiệm vụ viết về những chiến công của ta, muốn rằng ta phải có một biệt hiệu riêng cũng như những hiệp sĩ thời xưa, ví dụ như hiệp sĩ Gươm Nóng Hổi, hiệp sĩ Kỳ Lân, hiệp sĩ Tiểu Thư, hiệp sĩ Phượng Hoàng, hiệp sĩ Chim Ưng, hiệp sĩ Tử Thần, những biệt hiệu khiến cho họ lừng danh khắp thiên hạ. Nhà sử học đó đã điều khiển ý nghĩ và lời nói của anh khiến cho anh gọi ta là hiệp sĩ Mặt Buồn; từ nay về sau, ta sẽ nhận biệt hiệu đó. Và để cho cái tên đó tương xứng với con người của ta, ta quyết định khi nào có dịp sẽ thuê vẽ trên khiên một bộ mặt thật buồn.
– Việc gì phải tốn thời giờ và tiền để làm việc đó; nói không ngoa, chỉ cần ngài giơ mặt ra cho mọi người xem, họ sẽ gọi ngay là hiệp sĩ Mặt Buồn, chả cần phải vẽ lên khiên làm gì. Nói thêm cho vui, mặt ngài đã quá xấu xí vì đói bụng và gãy răng cho nên, như tôi đã nói, có thể miễn bức vẽ buồn thảm đó được.
Câu pha trò của Xantrô làm Đôn Kihôtê không nín được cười; tuy nhiên, chàng vẫn quyết định nhận biệt hiệu đó và sẽ thuê vẽ một bộ mặt thật buồn trên khiên; chàng nói:
– Xantrô, ta nghĩ rằng ta sẽ bị trục xuất khỏi giáo hội vì đã xúc phạm tới sự Thánh; kể ra cũng đúng thôi vì ta đã bị ma quỷ ám ảnh. Tuy nhiên, ta không nhúng tay mà chỉ nhúng ngọn giáo này; hơn thế nữa, ta không chủ tâm đánh các nhà tu hành mà ta kính yêu vì ta là một tín đồ Kitô ngoan đạo; trái lại, ta chỉ định đánh loài ma quái ở thế giới bên kia thôi. Và trong trường hợp này, ta lại nhớ đến chuyện đầu lĩnh Rui Điax đập gãy tan cái ghế ngồi của một vị sứ thần trước mặt đức Giáo hoàng và đã bị trục xuất khỏi Giáo hội; ngày hôm đó Rôđrigô đê Vivar đã tỏ ra là một trang hiệp sĩ ngay thẳng và dũng cảm.
Đôn Kihôtê định đi kiểm tra xem có đúng có xác người chết trong cái kiệu không, nhưng Xantrô can và nói:
– Thưa ngài, trong tất cả những cuộc phiêu lưu mạo hiểm của ngài mà tôi đã được chứng kiến, lần này tôi mới thấy ngài không bị sứt mẻ gì. Nhưng rất có thể những người vừa mới bị ngài đánh bạt sẽ nhận ra rằng đối phương đã thắng họ chỉ có một người, và để rửa nhục, họ sẽ quay trở lại tìm ta hỏi tội. Thôi, con lừa kia đã mang đủ lương thực, núi rừng cách đây không xa, bụng đã đói rồi, ta hãy mau mau rút khỏi nơi đây; như người ta vẫn thường nói, người chết ăn đất còn người sống ăn bánh.
Nói rồi, bác thúc lừa, mời chủ đi. Thấy Xantrô có lý, Đôn Kihôtê lặng yên theo sau. Đi khỏi một khe núi, đến một thung lũng rộng và kín đáo, họ dừng lại. Xantrô giở lương thực ra, rồi hai thầy trò ngả xuống bãi cỏ xanh, ngon miệng ăn bù luôn cả bữa sáng, bữa trưa và bữa tối, đánh hơn một sọt thịt nguội chiếm đoạt được của đám thầy tu là những người hay ăn ngon. Nhưng lại một sự bất hạnh nữa đến với họ, mà Xantrô coi là một bất hạnh lớn nhất từ trước tới giờ: số là có ăn mà chả có một giọt rượu hoặc một giọt nước nào để đổ vào mồm, thành thử hai thầy trò khát khô cả cổ. Chợt Xantrô nhận ra nơi đây là một cánh đồng đầy cỏ xanh mượt, bác bèn nói với chủ. Xantrô nói gì, xin xem chương sau sẽ rõ.
Chương 20
MỘT CUỘC PHIÊU LƯU MẠO HIỂM CHƯA TỪNG THẤY, KHÔNG AI GIẢI QUYẾT TỐT BẰNG HIỆP SĨ TRỨ DANH ĐÔN KIHÔTÊ XỨ MANTRA
– Thưa ngài, cánh đồng này chứng tỏ có một con suối hay một con sông nào chảy gần đây khiến cho cỏ mọc tốt tươi. Ta hãy đi tìm để uống cho dịu cơn khát khủng khiếp đang hành ta vì đúng là khát còn khổ hơn đói nhiều.
Đôn Kihôtê tán thành rồi hai thầy trò, người dắt ngựa, kẻ dắt lừa, lên đường sau khi đã chất những thức ăn còn lại lên lưng con lừa của Xantrô. Hai người đi ngược cánh đồng, mò mẫm trong đêm tối. Mới đi chừng hai trăm bước, bỗng nghe có tiếng nước réo ầm ầm như từ tên núi cao đổ xuống. Mừng quá, họ dừng lại nghe ngóng xem ở phía nào bỗng đâu lại có tiếng động khác làm cho hai người cụt hứng, đặc biệt là Xantrô vốn nhát gan: đó là những tiếng thình thịch đều đặn xen lẫn tiếng xích sắt nghiến vào nhau kèn kẹt hòa cùng tiếng thác đổ ào ào khiến bất cứ ai – trừ Đôn Kihôtê – nghe thấy cũng phải khiếp sợ. Lúc này, hai người vừa tới một đám cây to. Trời tối như mực, gió lướt qua lá cây tạo thành một âm thanh ghê rợn. Cảnh hoang vu, đêm tối, tiếng thác đổ, tiếng lá cây lào xào, tất cả gây nên một cảm giác rùng rợn, nhất là tiếng đập thình thịch vẫn tiếp tục, gió vẫn thổi và đêm vẫn kéo dài; đã thế, hai người lại không biết nơi đang đứng là đâu. Nhưng, với lòng dũng cảm sẵn có, Đôn Kihôtê nhảy phắt lên lưng con Rôxinantê, ôm khiên, nắm chặt ngọn giáo nói:
– Anh bạn Xantrô, anh phải biết rằng Chúa muốn ta sinh ra giữa thời đại thiết khí này để làm sống lại thời đại hoàng kim như người ta vẫn thường gọi. Ta sinh ra để hứng lấy những gian nguy, để lập nên những chiến công hiển hách, để có những hành động dũng cảm. Ta nhắc lại rằng ta sinh ra để làm sống lại tinh thần của các hiệp sĩ Bàn Tròn, của mười hai vị Đình thần nước Pháp và của chín Danh Nhân thế giới. Ta sinh ra để thiên hạ lãng quên những hiệp sĩ như Platir Tablantê, Ôlivantê, Tirantê, Phêbô, Bêlianix cùng tất cả đám hiệp sĩ giang hồ nổi tiếng thời xưa, và để cho những chiến công hiển hách nhất của họ bị lu mờ vì những chiến công vĩ đại và kỳ diệu của ta. Hỡi giám mã trung thành và tận tụy, hãy chú ý quan sát đêm tối, sự hoang vắng kỳ lạ, tiếng rì rầm của cây cối, tiếng thác chảy rùng rợn như thể từ trên rặng núi cao Luna đổ xuống, tiếng đập thình thịch không ngừng như xé tai, tất cả những cái đó tách riêng ra cũng đủ làm cho thần Chiến tranh phải sợ hãi kinh hoàng, nói chi tới những kẻ chưa từng gặp những tình huống như vậy bao giờ. Nhưng tất cả những cái đó thôi thúc, kích thích ta và khơi động tinh thần ta khiến ta muốn dấn thân vào cuộc mạo hiểm này dù khó khăn đến mấy. Thôi, hãy siết chặt đai ngựa cho ta rồi chờ ta tại đây ba ngày; quá hạn đó nếu không thấy ta quay lại thì hãy trở về quê giúp ta một việc: hãy đến Tôbôxô nói với nàng Đulxinêa không ai bì nổi của ta rằng hiệp sĩ của nàng đã chết vì muốn hành động sao cho xứng đáng là thủ hạ của nàng.
Nghe lời chủ nói, Xantrô khóc nức nở, đáp:
– Ngài ôi, tôi không hiểu vì sao ngài lại lao đầu vào cuộc mạo hiểm rùng rợn này. Đang lúc đêm tối không ai nhìn thấy, ta hãy tìm đường khác lánh nguy dù có phải chịu khát ba ngày liền, và vì không ai nhìn thấy nên càng không có ai bảo ta là những kẻ nhát gan được. Vả lại, tôi có nghe thấy Cha xứ làng ta mà ngài quen biết, nói rằng cứ bạo hổ bằng hà lắm thì mất mạng. Ta cũng chẳng nên thi gan với Thượng đế làm gì; nếu ngài cứ khăng khăng không chịu nghe, tôi e sẽ không thoát khỏi tai ương, trừ phi có phép màu. Nhờ Trời, ngài đã không bị tung lên quật xuống như tôi, rồi lại đánh thắng đám người khiêng xác chết mà không bị sứt mẻ gì. Nếu những lý lẽ của tôi không lay chuyển nổi trái tim sắt đá của ngài, xin hãy nghĩ rằng sau khi ngài đi khỏi nơi đây, tôi sẽ không sống nổi vì sợ hãi. Tôi đã xa làng xa nước, bỏ vợ bỏ con đi theo hầu ngài, những tưởng được hưởng chút bổng lộc gì. Nhưng ở đời tham thì thâm, cho nên bao nhiêu hy vọng của tôi đã tiêu tan; đang lúc tôi chứa chan hy vọng được làm chúa hòn đảo quái ác kia mà ngài đã bao lần hứa hẹn thì để trả công tôi, ngài bỏ tôi bơ vơ ở nơi khỉ ho cò gáy này. Lạy Chúa, xin ngài đừng làm khổ tôi như vậy. Còn nếu ngài cứ một mực giữ ý kiến của mình, ít ra xin hãy chờ tới sáng. Hồi còn đi chăn cừu, tôi có học cách xem sao; chỉ độ ba tiếng nữa là trời sáng vì nhìn chòm sao Tiểu hùng, ta có thể biết được bây giờ đã là nửa đêm.
– Làm sao anh nhìn thấy được chòm sao Tiểu hùng một khi bầu trời tối đen như mực không có một ngôi sao nào cả? Đôn Kihôtê hỏi.
– Trời tối thật, nhưng sự sợ hãi làm mắt con người ta sáng ra, nhìn được cả dưới mặt đất và trên trời; cho nên có thể chắc chắn là chẳng bao lâu nữa sẽ sáng.
– Dù sáng hay không sáng, dù bây giờ hay bao giờ, những giọt nước mắt và những lời cầu khẩn cũng không thể làm cho ta từ bỏ nhiệm vụ của một hiệp sĩ. Xantrô, chớ van nài làm chi; Chúa đã bảo ta đảm đương công việc nguy hiểm chưa từng thấy này, Người sẽ phù hộ cho ta và an ủi anh. Thôi, hãy siết chặt đai ngựa cho ta và chờ ta ở đây; ta sẽ trở lại sớm, một sống hai mái.
Thấy chủ vẫn quyết tâm, không lay chuyển trước nước mắt, lời can ngăn và cầu khẩn của mình, và vẫn nhất mực muốn ra đi ngay, Xantrô bèn dùng mưu để cố giữ chủ ở lại tới sáng. Trong lúc siết chặt đai ngựa, bác lẳng lặng lấy cái dây tròng lừa buộc chặt hai chân con Rôxinantê lại, thành thử khi Đôn Kihôtê thúc ngựa, con vật không sao đi được, chỉ nhảy lò cò tại chỗ. Thấy đã thành công, Xantrô nói với chủ:
– Tôi đã bảo mà! Trời kia mủi lòng trước những giọt nước mắt và những lời cầu khẩn của tôi, đã giữ chân con Rôxinantê lại. Nếu ngài còn cứ thách thức, trêu gan Người và cứ khăng khăng mãi thì sẽ làm cho thần May rủi nổi giận, khác nào húc đầu vào đá.
Đôn Kihôtê thất vọng lắm vì thấy càng thúc con ngựa càng đứng ì. Không biết mưu mô của Xantrô và tưởng rằng có một nguyên nhân nào khác, chàng đành nén lòng chờ trời sáng hoặc cho tới khi con ngựa đi được. Chàng nói với giám mã:
– Vì con Rôxinantê không đi được, ta sẽ chờ tới lúc rạng đông mặc dù ta mếu dở vì phải chờ lâu quá.
– Ngài không việc gì phải khóc mếu cả. Tôi sẽ kể chuyện hầu ngài tới sáng trừ phi ngài muốn xuống ngựa nghỉ lưng trên đám cỏ non kia theo tục lệ của những nhà hiệp sĩ giang hồ để lấy sức sáng mai còn dấn mình vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm vô cùng khủng khiếp đang chờ ngài.
– Sao lại xuống ngựa? Sao lại nghỉ lưng? Ta đâu có như những anh chàng hiệp sĩ trốn tránh gian nguy. Anh đi mà ngủ vì anh sinh ra để ngủ, hay muốn làm gì thì tùy; còn ta sẽ làm theo ý ta.
– Xin ông chủ đừng nổi nóng, tôi không có ý trêu tức ngài đâu.
Nói rồi, bác bước lại gần Đôn Kihôtê, một tay nắm đầu yên ngựa, một tay nắm cuối yên, ôm lấy đùi trái của chủ không rời một bước; những tiếng đập thình thịch vẫn đều đều vang lên khiến bác sợ run. Đôn Kihôtê nhắc Xantrô kể chuyện cho vui như bác đã hứa, bác đáp là sẽ kể nếu như những tiếng động không làm cho bác quá sợ.
– Dù vậy, tôi cũng cố gắng kể hầu ngài một câu chuyện; nếu tôi kể được hết, không bị ai ngăn cản, chắc chắn đó là câu chuyện hay nhất; xin ngài chú ý nghe, tôi bắt đầu: câu chuyện kể lại rằng mọi người đều được hưởng điều hay, còn ai đi tìm điều dở sẽ gặp điều dở. Xin lưu ý ngài rằng người xưa thường mở đầu một chuyện kể bằng câu: “Ai đi tìm điều dở sẽ gặp điều dở”, nhắc lại câu nói của Catôn thời La Mã. Câu nói thật là hợp với hoàn cảnh lúc này, như khuyên ngài chớ quàng đường rậm và hãy chọn đường quang mà đi vì không ai bắt ta phải dấn mình vào con đường đầy sợ hãi lo âu đó.
– Thôi, hãy kể tiếp, còn để mặc ta tự chọn lấy đường đi.
– Vậy thì tại một làng ở Extramađura có một người chăn dê, người chăn dê kể ở đây tên là Lôpê Ruix; anh chàng Lôpê Ruix này mê một cô gái chăn cừu tên là Tôralba, còn cô gái chăn cừu Tôralba lại là con một nhà chăn nuôi giàu có, và nhà chăn nuôi giàu có này…
– Nếu anh cứ kể theo cái kiểu ấy, lắp đi lắp lại điều định nói, thì đến hai ngày cũng chẳng xong. Hãy đi thẳng vào câu chuyện một cách thông minh, nếu không, thà đừng kể còn hơn.
– Ở quê tôi, người ta đều kể chuyện theo kiểu này cả và tôi không biết làm theo kiểu khác; ngài bắt tôi kể theo kiểu mới sẽ không hay đâu.
– Thôi được, tùy anh; số phận đã bắt ta phải nghe, anh cứ tiếp tục.
– Vậy thì, thưa ông chủ quý mến, như tôi đã kể, anh chàng chăn dê nọ mê cô chăn cừu Tôralba là một cô gái béo tròn béo trục, tính nết cục cằn, tướng đàn ông vì cô ta có bộ ria khá đặc biệt khiến tôi vẫn nhớ mồn một.
– Vậy ra anh ta quen cô ta ư?
– Tôi không quen, nhưng người kể với tôi nói rằng câu chuyện này hoàn toàn có thật, cho nên khi kể lại cho người khác, tôi có thể khẳng định và thề rằng tôi đã được nhìn thấy cô ta. Thế nhưng ngày qua tháng lại, con tạo trớ trêu đã biến tình yêu của anh chàng chăn dê thành sự căm ghét. Nguyên nhân là có những kẻ độc miệng phao tin rằng cô này tằng tịu lung tung, nay anh này mai anh khác, khiến anh chàng Lôpê đâm ghen, rồi từ ghen đến ghét, và để cho khuất mắt, anh ta định bụng sẽ đi thật xa để khỏi phải nhìn mặt cô nàng. Từ khi bị bỏ rơi, Tôralba đâm yêu Lôpê thật sự, còn hơn cả khi chàng yêu cô trước kia.
– Tính tình đàn bà vẫn như vậy, Đôn Kihôtê nói; họ ghét bỏ kẻ nào đeo đuổi họ và chạy theo những kẻ hắt hủi họ. Thôi, kể tiếp đi.
– Thế rồi để thực hiện ý định của mình, anh chàng Lôpê đánh đàn dê ra đi, qua miền đồng bằng Extramađura để sang vương quốc Bồ Đào Nha. Được tin đó, cô nàng Tôralba đuổi theo; cô ta đi bộ, chân đất, sau anh chàng một quãng xa, tay chống gậy, cổ đeo một cái túi hai ngăn trong đựng một mảnh gương, một cái lược gãy và một hộp phấn đánh mặt chẳng biết to nhỏ ra sao; nhưng cô ta mang gì, tôi cũng chẳng cần biết, chỉ xin kể tiếp rằng anh chàng Lôpê cùng đàn dê đi tới bờ sông Guađiana; về mùa này, nước sông lên to mấp mé bờ mà đò giang chẳng có, người lái cũng không, không sao sang được bên kia. Lôpê rất băn khoăn lo lắng vì thấy cô nàng Tôralba đã tới gần, sợ phải nghe những lời van xin và nhìn thấy những giọt nước mắt. Còn đang tìm kiếm, bỗng đâu thấy có một ông lái đò và một con đò bé tí tẹo chỉ chở nổi một người và một con dê; cực chẳng đã, Lôpê đành gọi và nhờ bác lái chở anh ta và cả ba trăm con dê sang sông. Bác lái đò nhận lời, xuống đò dắt theo một con dê chở sang bên kia, rồi quay trở lại chở con thứ hai, rồi lại quay trở lại chở con thứ ba… Xin ngài nhớ cho số con dê đã được chở sang sông, quên một con là hết chuyện, không thể nào kể tiếp được nữa. Nào, tôi kể tiếp: bến sông bên kia lắm bùn và trơn, thành thử con đò qua lại mất khá nhiều thời gian. Cứ thế, bác lái đò sang rồi lại về chở hết con này đến con khác.
– Thì cứ cho là đã chở hết đàn dê sang sông rồi đi. Nếu cứ kể lể từng chuyến đò sang sông rồi lại về sông thì đến sang năm cũng chưa đưa hết đàn dê sang.
– Bao nhiêu con sang sông rồi, thưa ngài? Xantrô hỏi.
– Ta nhớ thế quái nào được! Đôn Kihôtê đáp.
– Tôi đã dặn rằng phải đếm đủ số dê đã sang sông cơ mà. Thôi thế là hết chuyện, chả còn gì kể nữa.
– Sao lại thế? Chẳng lẽ tất cả câu chuyện chỉ xoay quanh số lượng con dê đã sang sông hay sao? Nói rộng ra, nếu thừa hay thiếu một con thì anh không kể tiếp được sao?
– Đúng vậy, không thể nào kể được; ngài cho biết bao nhiêu con dê đã qua sông và ngài trả lời là không biết, thế là tôi chẳng nhớ còn lại bao nhiêu con để kể nốt; thật ra, câu chuyện này rất hay.
– Thế là kết thúc câu chuyện rồi ư?
– Vâng, thế là kết thúc, cũng như cuộc đời của mẹ tôi vậy.
– Quả thật câu chuyện anh vừa kể là một trong những chuyện mới lạ trên đời không ai có thể nghĩ ra được, và cách kể chuyện nửa vời của anh cũng có một không hai mặc dù ta không trông mong gì hơn ở trí tuệ của anh. Ta cũng không lấy thế làm ngạc nhiên vì có lẽ những tiếng đập thình thịch liên hồi kia đã làm anh rối trí.
– Mọi việc đều có thể xảy ra, Xantrô đáp; chỉ biết rằng câu chuyện của tôi chẳng còn gì để kể nữa; nó kết thúc khi ta bắt đầu đếm nhầm số con dê sang sông.
– Muốn kết thúc ở chỗ nào cũng được; bây giờ ta hãy thử xem con Rôxinantê có nhúc nhích được hay không.
Nói rồi, Đôn Kihôtê lấy đùi thúc vào sườn con ngựa, nhưng vì bị buộc quá chặt, con vật cứ nhảy lò cò tại chỗ không sao tiến lên được.
Lúc này, không hiểu vì khí lạnh lúc sắp bình minh, hay vì Xantrô ăn phải thứ gì quá nhuận tràng, hoặc giả do thói quen tự nhiên (có lẽ lý do sau cùng đúng nhất), bỗng dưng bác giám mã muốn đi làm một việc mà không ai có thể làm thay được. Khốn nỗi sự sợ hãi đã nhập vào tâm khảm bác, khiến cho bác không dám rời chủ nửa bước; một mặt khác, bác cũng không thể không đáp ứng yêu cầu cấp bách của bản thân. Cuối cùng, bác đã giải quyết một cách êm thấm: bác rút tay phải đang nắm yên ngựa rồi rất nhẹ nhàng, cởi cái dải rút vẫn dùng để buộc quần và tụt quần xuống; xong rồi, bác cố vén cao áo sơ-mi, để hở đôi mông to tướng. Làm xong việc đó mà bác cho là khó nhất, bác tưởng đã thoát nạn, nào ngờ lại đẻ ra một việc còn khó hơn: số là trong khi giải quyết nhu cầu tự nhiên, phải làm sao không phát ra tiếng động để khỏi lộ; bác bèn nghiến chặt hai hàm răng, so vai rụt cổ, cố hết sức nín thở. Nhưng dù đã làm đủ mọi cách, chẳng may bác phát ra một tiếng nhỏ khác hẳn những tiếng đập thình thịch đã khiến bác kinh hồn bạt vía. Đôn Kihôtê nghe thấy bèn hỏi:
– Tiếng gì vậy, Xantrô?
– Dạ, tôi không rõ, chắc lại có chuyện gì mới đây. Vì rằng những chuyện hay chuyện dở đều bắt đầu từ những sự việc không nhỏ.
Nói rồi, bác tiếp tục công việc đang làm dở một cách trót lọt, không phát ra một tiếng nào nữa, và thế là bác đã trút hết được gánh nặng trong lòng. Nhưng Đôn Kihôtê đã thính tai lại thính cả mũi; đã thế Xantrô lại đứng sát nách, thành thử hơi từ dưới xông thẳng lên phía trên, vào đúng mũi chàng. Bất chợt ngửi thấy mùi, Đôn Kihôtê vội vàng lấy hai ngón tay bịt mũi rồi nói, giọng ồm ồm:
– Xantrô, hình như anh đang sợ lắm thì phải?
– Vâng ạ, nhưng sao lúc này hơn lúc nào hết, ngài nhận thấy rõ như vậy?
– À, vì rằng lúc này hơn lúc nào hết, người anh có mùi, mà không phải long diên hương.
– Đúng vậy, nhưng lỗi không phải ở tôi mà do ngài cả, vì ngài đã dẫn tôi đi không đúng lúc và không đúng chỗ.
Tay vẫn ôm mũi, Đôn Kihôtê bảo Xantrô:
– Anh bạn hãy tránh xa ra một chút. Từ nay về sau, phải giữ gìn thân thể sạch sẽ hơn và ăn ở với ta cho phải đạo; chỉ vì ta quá thân mật nên anh đâm ra nhờn.
– Chắc ngài nghĩ rằng tôi đã làm điều gì không phải… đối với bản thân tôi.
– Thôi, tốt hơn hết là đừng bàn tới chuyện đó nữa, Đôn Kihôtê đáp.
Trong khi thầy trò trao đổi ý kiến, đêm qua dần; thấy trời sắp sáng, Xantrô nhẹ nhàng cởi trói cho con Rôxinantê và thắt lại quần. Được tự do thoải mái, Rôxinantê giơ hai chân trước lên đá không khí (tôi không định nói xấu nhưng nó không thể nhảy chồm lên được vì thiểu lực). Thấy con ngựa cử động được, Đôn Kihôtê cho đó là điềm tốt báo hiệu đã tới giờ ra tay. Lúc này, trời sáng bạch soi rõ mọi vật xung quanh, và Đôn Kihôtê thấy mình đang đứng dưới một lùm cây dẻ to, cành lá um tùm; những tiếng thình thịch vẫn không ngớt nhưng chưa tìm ra nguyên nhân. Trước khi ra đi, chàng quay lại từ biệt Xantrô và dặn:
– Hãy chờ ta tại đây ba ngày, nếu quá hạn không thấy ta trở về có nghĩa là Chúa muốn cuộc đời ta kết liễu cùng với cuộc phiêu lưu mạo hiểm này. Hãy làm nhiệm vụ đã được giao phó và đến gặp nàng Đulxinêa. Về khoản tiền công, anh không phải lo vì ta đã làm di chúc từ khi ở nhà ra đi, trong đó có ghi một khoản cho anh, tính theo số ngày làm. Nhưng nếu Chúa phù hộ cho ta được vô sự sau cuộc phiêu lưu mạo hiểm này, anh có thể càng thêm chắc chắn được nhận hòn đảo mà ta đã hứa.
Nghe những lời nói lâm ly thống thiết của chủ, Xantrô lại òa lên khóc, và bác quyết định đi theo chủ tới cùng, cho tới khi kết thúc câu chuyện phiêu lưu này.
Những giọt nước mắt và quyết định đáng quý của Xantrô Panxa khiến tác giả truyện này kết luận rằng bác là một người tốt, một con chiên đạo gốc. Hành động của Xantrô khiến Đôn Kihôtê xúc động nhưng chưa đủ để lay chuyển lòng chàng. Nén tình cảm lại, chàng đi về phía có tiếng nước đổ và tiếng đập thình thịch; Xantrô bước theo sau, tay dắt con lừa, người bạn đường luôn luôn cùng bác chia sẻ ngọt bùi, đắng cay. Sau khi đi một quãng dài dưới vòm những cây dẻ, hai thầy trò tới một cánh đồng cỏ nhỏ hẹp, xung quanh có núi đá cao chót vót. Từ trên đỉnh núi có một thác nước đổ xuống; dưới chân núi có một vài túp nhà – nói đúng hơn, đó là những ngôi nhà đã đổ nát – từ trong đó phát ra những tiếng đập thình thịch liên hồi. Con Rôxinantê hoảng sợ lồng lên; vừa vỗ về con vật, Đôn Kihôtê vừa từ từ tiến lại gần những túp nhà, mồm ra sức cầu nguyện tình nương phù trợ cho trong những phút gian nguy này, ngoài ra cũng không quên cầu Chúa đừng bỏ rơi. Xantrô bám sát chủ, vừa đi vừa nghển cổ giương mắt cố nhìn qua bốn cẳng con Rôxinantê xem có cái gì ở trong những túp nhà khiến bác hồi hộp lo âu cả đêm. Hai người đi thêm một trăm bước nữa, quành một quả núi, và kia… nguyên nhân của những tiếng động khủng khiếp khiến hai người hồi hộp lo âu suốt cả đêm đã hiện ra trước mắt họ, rõ như ban ngày. Đó là (xin độc giả chớ thất vọng, buồn phiền) sáu cái chày nện dạ đang hoạt động và phát ra những tiếng đập thình thịch như đã tả ở trên.
Trước cảnh tượng đó, Đôn Kihôtê lặng người, xỉu đi. Xantrô nhìn chủ, thấy chàng gục đầu xuống ngực với một vẻ bối rối sượng sùng. Một lát sau, chàng ngửng mặt lên nhìn Xantrô thì thấy hai má bác bạnh ra, mồm có vẻ muốn phá lên cười; thấy vậy, mặc dù còn đang nẫu cả ruột, Đôn Kihôtê cũng không nhịn được cười: thấy chủ đã mở đầu, Xantrô cười phá lên và bốn lần bác phải lấy hai tay ấn vào mạng sườn để tự ghìm lại nhưng vẫn không được, khiến Đôn Kihôtê phát khùng, nhất là khi nghe thấy bác nhại lại: “Anh bạn Xantrô, anh phải biết rằng Chúa muốn ta sinh ra giữa thời đại thiết khí này để làm sống lại thời đại hoàng kim. Ta sinh ra để hứng lấy những gian nguy, để lập nên những chiến công hiển hách, để có những hành động dũng cảm…” Cứ như thế, Xantrô nhắc lại những lời nói của Đôn Kihôtê khi hai người lần đầu tiên nghe thấy những tiếng chày nện dạ.
Thấy Xantrô chế giễu mình, Đôn Kihôtê vừa thẹn vừa tức, giơ tay giáo phang cho bác hai đòn; cũng may Đôn Kihôtê chỉ đánh trúng vai chứ nếu vào đầu, chắc chắn chàng sẽ không phải trả tiền công cho Xantrô nữa; hoặc nếu có thì sẽ chỉ phải trả cho những người thừa kế của bác giám mã mà thôi. Thấy vì đùa mà bị đòn đau như vậy, sợ chủ tiếp tục, Xantrô vội nói với một vẻ rất cung kính:
– Xin ngài bớt giận làm lành, tôi xin thề có Chúa rằng tôi đùa thôi.
– Anh đùa nhưng ta không đùa, Đôn Kihôtê đáp. Này anh chàng hay bông phèng, hãy nghe ta hỏi: giả sử đây không phải là những cái chày mà là một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm thật, thử hỏi ta có thiếu lòng dũng cảm để xông vào cuộc không? Có bắt buộc một hiệp sĩ như ta phải phân biệt được các âm thanh và biết tiếng chày nện dạ như thế nào không? Hơn nữa, thực ra ta có nhìn thấy cái chày nện dạ bao giờ; ta đâu thô lỗ như anh vốn sinh ra và lớn lên bên những cái chày đó. Thử biến sáu cái chày kia thành sáu tên khổng lồ và hãy dẫn chúng tới trước mặt ta, từng tên một hoặc cả bọn cũng được; nếu ta không đánh ngã được chúng, lúc đó hãy tha hồ mà chế giễu ta.
– Thôi, xin ngài nguôi giận, quả thực lúc nãy tôi đùa hơi nhả, ngài bỏ quá cho. Bây giờ ta đã làm lành với nhau rồi và tôi muốn thưa với ngài một điều: trong các cuộc phiêu lưu đã qua, Chúa đều phù hộ cho ngài được bình an vô sự, kể cả lần này; những nỗi lo âu của thầy trò ta – hay nói đúng hơn là nỗi lo âu của tôi vì tôi biết xưa nay ngài không hề run sợ – kể ra cũng nực cười và đáng kể lại lắm chứ?
– Ta đồng ý rằng việc vừa xảy ra thật đáng cười, nhưng không nên kể lại làm gì vì có những kẻ vô tri vô giác không đặt đúng vấn đề.
– Ít ra ngài cũng đã đặt đúng ngọn giáo vào đầu tôi; nhưng nhờ Chúa và nhờ tài tránh đòn của tôi, ngài chỉ phang được vào vai. Nhưng thôi, mọi việc đều có nguyên nhân cả và như người ta thường nói: “Yêu cho roi cho vọt”. Mà thường sau khi nặng lời với gia nhân, các vị đại gia hay cho họ quà cáp. Tôi không hiểu các vị đó sẽ cho gì khi họ đánh đập gia nhân; chỉ biết cũng trong trường hợp ấy, các hiệp sĩ giang hồ cho giám mã của họ một hòn đảo hay một vương quốc trong đất liền.
– Mọi sự việc đều biến chuyển và những điều anh vừa nói có thể trở thành sự thật. Nhưng thôi, ta xin lỗi về hành động đã qua. Anh là một người biết điều và anh cũng hiểu rằng nhiều khi con người ta không tự kiềm chế được hành động của mình. Ta cũng muốn dặn anh từ nay về sau, phải bớt mồm bớt miệng đi; trong rất nhiều sách kiếm hiệp mà ta đã đọc, ta chưa hề thấy có giám mã nào nói năng với chủ bạo mồm bạo miệng như anh. Thực ra, cả hai chúng ta đều có lỗi: anh không kính trọng ta lắm, còn ta cũng không làm cho anh phải kính trọng hơn nữa. Ganđalin, bá tước đảo Phirmê, giám mã của Amađix nước Gôlơ, khi nói với chủ bao giờ cũng bỏ mũ cầm tay, đầu cúi xuống, người ngả về đằng trước theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Còn Gaxabal, giám mã của Đôn Galaor, rất ít nói; và để làm nổi bật đức tính ít lời của anh ta, trong suốt câu chuyện dài và có thật đó, chỉ thấy nhắc tới tên anh ta có một lần. Xantrô, anh cần suy nghĩ về những lời nói của ta và phải biết phân biệt giữa chủ và tớ, giữa gia chủ và gia nhân, giữa hiệp sĩ và giám mã. Từ nay trở đi, anh phải biết kính nể ta hơn, chớ sinh nhờn vì rằng nếu anh làm ta nổi giận bất kể trong trường hợp nào, phần thiệt vẫn thuộc về anh. Những phần thưởng đã hứa rồi đây sẽ về tay anh; và dù không có chăng nữa, ít ra anh cũng không thể mất được tiền công như ta đã nói.
– Tất cả những điều ngài nói đều hay cả, nhưng tôi cũng muốn được biết (phòng khi không có phần thưởng còn trông vào tiền công) tiền trả cho giám mã của một hiệp sĩ giang hồ thời trước là bao nhiêu và người ta có tính công tháng hay công nhật như trả công cho thợ nề không?
– Ta nghĩ rằng những giám mã đời xưa không nhận tiền công mà chỉ nhận phần thưởng thôi. Sở dĩ ta ghi một khoản tiền công cho anh trong di chúc để ở nhà là vì ta đề phòng những chuyện có thể xảy ra; ta cũng không biết trong thời đại đầy tai ương này, ta sẽ gặp phải những thử thách gì, và ta muốn lòng ta khỏi phải áy náy ở bên kia thế giới về những chuyện lặt vặt. Xantrô, anh phải biết rằng không có gì nguy hiểm bằng làm nghề hiệp sĩ này cả.
– Thật vậy, vì chỉ tiếng chày nện dạ cũng đã đủ làm cho một hiệp sĩ giang hồ dũng cảm như ngài mất ăn mất ngủ. Ngoài ra, ngài có thể tin tưởng từ nay tôi sẽ không mở mồm chế giễu ngài nữa mà chỉ để ca tụng ngài như một người chủ của tôi.
– Có như thế anh mới sống được trên trái đất này vì sau bố mẹ, con người ta cần phải biết kính trọng ông chủ của mình, coi cũng như bố mẹ vậy.
(Còn tiếp)