Đưa tác phẩm văn học dân tộc và miền núi vào nhà trường

Tôi vẫn cho là, việc tổ chức sinh hoạt nhằm quảng bá văn học dân tộc và miền núi của Hội ta, trước nay, làm chưa mạnh. Kinh tế thị trường rồi, đừng nên nghĩ rằng, đây là “món ăn tinh thần không thể thiếu!” như cách nghĩ của hai ba mươi năm qua.

Nhà văn Hà Lâm Kỳ

Xin được nói ngay rằng, đây là việc lớn, cấp thiết, thật cấp thiết, và không mới nhưng lại rất mới.

Những năm sáu mươi thế kỷ trước, tôi đi học cấp một, rồi cấp hai (trình độ tiểu học và trung học cơ sở bây giờ) đã được nghe thầy giáo giảng trên lớp các bài học về truyện Kim Đồng, truyện Vừ A Dính, Hai làng Tà Pình và Động Hía. Các bài học về thơ: Bắc cầu sang Làng Cao, Dọn về làng, cả trường ca Đam San – Xinh Nhã, Tiếng hát làm dâu, Tiễn dặn người yêu. Lớn lên một chút nữa, được nghe giảng Em là con gái Châu Yên, Vợ chồng A Phủ, Truyện Tây Bắc, Hoan hô chiến sỹ Điện Biên… Tôi không còn nhớ các bài học diễn ra trong giờ chính khóa hay ngoại khóa, có kiểm tra thi cử hay không. Nhưng một điều rất rõ rằng, những tác phẩm về văn học miền núi, về dân tộc đó in đậm trong tôi, giục giã tôi suốt từ tuổi nhi đồng đến đoạn đời lên lão. Có lẽ lớp bạn cùng thế hệ, với tôi cũng cảm nhận như vậy. Tôi cảm ơn các tác giả, tác phẩm. Tôi cảm ơn Bộ giáo dục và các thầy cô giáo.

Đất nước thống nhất, lượng tác phẩm nhiều thêm, có chủ đề phải ưu tiên, thời lượng giờ học có hạn, ấy là chưa nói đến kinh tế thị trường. Những người làm sách giáo khoa và làm chương trình giảng dạy văn học trong nhà trường thật đau đầu. Có thể vì thế mà tỷ lệ tác phẩm văn học về miền núi, về dân tộc thiểu số có trong các chương trình giảng dạy rất khiêm tốn, đã vậy, có tác phẩm lại không tiêu biểu nữa, trong khi đó thành tựu văn học dân tộc và miền núi của nước nhà đã khẳng định, sắc thái văn hóa đó làm nên “vườn hoa có nhiều hương sắc” (Nông Quốc Chấn) trong vườn hoa đất nước, đóng góp phần quan trọng giữ bền nền văn hóa Việt và Tổ quốc Việt Nam trước sóng gió của thiên tai địch họa từ khắp nơi thế giới. Các nhà quản lý Đảng, Nhà nước và ai ai cũng nhận rõ điều này nên mới có nghị quyết Trung ương Đảng khóa VIII và Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị khóa X về văn hóa, văn học nghệ thuật, và mới có các Hội nghị, Hội thảo, sinh hoạt chuyên đề với một mục tiêu lớn là thúc đẩy phát triển sự nghiệp văn hóa văn học nghệ thuật miền núi dân tộc.

Văn học dân tộc, miền núi nếu là một “sự nghiệp”, đang đứng trước cơ chế thị trường hôm nay, nó sẽ phát triển như thế nào đây? Mục tiêu định hướng thì đã rõ, nhưng còn giải pháp và phương thức? Tôi cho rằng nhà trường vừa làm một giải pháp “xã hội hóa”, vừa là một phương thức rất hữu hiệu và có ý nghĩa với phát triển văn học nói chung, văn học dân tộc và miền núi nói riêng. Lâu nay, những tác giả, tác phẩm có tiếng đã được đưa vào chương trình nhưng đó chỉ là hạt muối bỏ bể. Vả lại, nó cũng không có mặt đại diện cho cả một sự nghiệp suốt mấy chục năm trời bởi tính giai đoạn, tính lịch sử của nó. Vậy thì làm thế nào để chuyển tải văn học đến công chúng trước hết là học sinh sinh viên? Tôi nghĩ Hội Nhà văn, Hội VHNT các DTTS, nhất là Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, cần có nội dung liên ngành với Bộ Giáo dục và đào tạo để hệ thống giáo dục và văn nghệ địa phương có cơ sở đưa văn học vào nhà trường ngoài chương trình sách giáo khoa đã ấn định.

Nhưng trong nhà trường, học sinh sinh viên ngày nay rất kén chọn loại hình thưởng thức văn học và tác phẩm văn học. Về tác phẩm, họ dễ chọn truyện nào, thơ nào có “mốt” thời cuộc, có “nóng” của thị trường. Về loại hình, họ nghiêng về nghe, nhìn hơn là đọc sách. Không ai phủ nhận sở thích của mỗi con người, nhưng để đưa được tác phẩm đến với lớp trẻ và họ tự nguyện tiếp nhận thì cần có sự thích ứng. Sự thích ứng này phải từ cả hai phía: Tác phẩm và tổ chức hoạt động.

Về tác phẩm, tôi đồng tình quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu khi lựa chọn và sử dụng ổn định thuật ngữ “văn học dân tộc và miền núi” (nhân đây cũng xin nói luôn, tôi không nhất trí khi nhiều người dùng cụm từ “văn học miền núi và dân tộc”).  Chúng ta đã có khối lượng lớn tác phẩm mang tính chuyên đề này với loạt đề tài khác nhau: Lịch sử, kháng chiến, nông thôn, cộng đồng, thiếu nhi… Nhưng hình như còn những đề tài không nhỏ mà văn học dân tộc và miền núi ít động chạm tới như: Chiến tranh (nhấn mạnh: Chống Mỹ), quốc tế (nhấn mạnh: Giúp bạn Lào, Cam Pu Chia), xây dựng công trình, cải tạo phong tục tập quán, gìn giữ môi trường sinh thái… Tôi cứ suy nghĩ: 36 năm đất nước thống nhất mà văn học dân tộc và miền núi vẫn chưa xuất hiện những tác phẩm tầm cỡ tiểu thuyết như “Đất nước đứng lên”, truyện ngắn như “Vợ chồng A Phủ”, nhất là ở các đề tài trống vắng nói trên. Điều này thật thiệt thòi cho các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và cho miền núi. Vẫn biết rằng đó là những hạn chế của nhà văn nhưng lại nghĩ, nên chăng, ngoài sự kêu gọi và khích lệ như vẫn đang làn, Hội Nhà văn, Hội VHNT các DTTS có sự đặt hàng đầu tư công trình sáng tạo theo dạng đề tài nghiên cứu khoa học. Nghĩa là: Nhà văn tác giả + đề tài và bản thảo + nhà văn giàu kinh nghiệm + kinh phí đầu tư = tác phẩm. Dù là tiểu thuyết, truyện ngắn, tập thơ, hay lý luận phê bình, cũng vậy. Hy vọng nếu làm một cuộc thăm dò trong nhà trường, thì thầy cô giáo và học sinh sinh viên sẽ tự nguyện bỏ phiếu cho những tác phẩm đó.

Về tổ chức sinh hoạt (hoạt động)

Tôi vẫn cho là, việc tổ chức sinh hoạt nhằm quảng bá văn học dân tộc và miền núi của Hội ta, trước nay, làm chưa mạnh. Kinh tế thị trường rồi, đừng nên nghĩ rằng, đây là “món ăn tinh thần không thể thiếu!” như cách nghĩ của hai ba mươi năm qua. Nhưng sự quảng bá lại chỉ trông vào việc in sách biếu tặng, trao giải thưởng, rồi đôi ba nội dung trên Tạp chí Hội thì thật là thuần túy và đầy sự khô cứng. Nếu tác phẩm chưa vào được đại quần chúng thì hãy đưa đến nhà trường, ở đó giáo viên dạy văn, và các cộng sự của họ (tác giả văn học địa phương) sẽ là cầu nối lý tưởng giữa tác phẩm với học sinh sinh viên. Rất nhiều cách làm giúp sinh hoạt đó trở nên sinh động, hấp dẫn, ghi được dấu ấn. Bộ Giáo dục và đào tạo đã có sự chỉ đạo ngành dọc và đang khuyến khích vấn đề này. Ở tỉnh Yên Bái, Sở Giáo dục và Đào tạo, bốn năm nay đã đưa chương trình văn học địa phương vào giảng dạy chính khóa ở khối PTTHCS. Tạp chí Văn nghệ Yên Bái đã có nhiều cuộc tọa đàm về chuyên đề “Văn học với nhà trường”. Trường Cao đẳng VHNT và Du lịch Yên Bái mới được nghiệm thu đề tài khoa học cấp tỉnh: “Xây dựng chương trình bộ môn Địa phương học, giảng dạy trong nhà trường chuyên nghiệp”, ở đó dành thời lượng 10 tiết cho văn học dân tộc và miền núi. Chi hội Nhà văn Sông Chảy gồm các nhà văn thuộc bốn tỉnh: Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang đã tổ chức các chuyến đi thực tế vùng nông thôn miền núi, trong đó có giao lưu với học sinh sinh viên một số trường học, qua giao lưu ấy, quả thật, thấy rằng tác giả tác phẩm của ta, dù đã có tiếng, nhưng không phải đã dễ nhập với các em, trừ khi nó thành phim như “Ma làng”, “Chuyện của Pao”. Từ những việc làm trên của tỉnh Yên Bái, tôi nghĩ, nếu Hội VHNT và Sở Giáo dục và Đào tạo các địa phương cùng đặt ra một ý tưởng đẹp đẽ: Đưa tác phẩm văn học dân tộc và miền núi vào nhà trường, và có những giải pháp tích cực để thực hiện ý tưởng ấy, chắc chắn, đó sẽ là một việc làm được xã hội ủng hộ, vì nó là một hoạt động mang tính nhân văn, góp phần hoàn thiện nhân cách cho nhiều lứa tuổi học trò trong thời buổi kinh tế thị trường và hội nhập đầy tác động này.

HLK

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder