
Trải triệu năm kiến tạo của địa chất cùng hành trình ngàn năm cha ông ta mở cõi đã tạo nên một đất nước như ngày hôm nay. Nhìn trên bản đồ, sẽ dễ dàng nhận thấy đường biên cương tổ quốc với trùng điệp núi rừng hùng vĩ tựa như chiếc xương sống của con rồng khổng lồ và những nhánh núi chạy hướng ra biển lớn là những dẻ xương sườn kiến lập nên một hình thế núi sông vững chãi. Trong tâm thức mỗi người, biên giới chính là dải hành lang giới hạn không gian sinh tồn của dân tộc Việt.
VHP trân trọng giới thiệu Tuỳ bút của Nhà thơ Phạm Vân Anh.
Trải triệu năm kiến tạo của địa chất cùng hành trình ngàn năm cha ông ta mở cõi đã tạo nên một đất nước như ngày hôm nay. Nhìn trên bản đồ, sẽ dễ dàng nhận thấy đường biên cương tổ quốc với trùng điệp núi rừng hùng vĩ tựa như chiếc xương sống của con rồng khổng lồ và những nhánh núi chạy hướng ra biển lớn là những dẻ xương sườn kiến lập nên một hình thế núi sông vững chãi. Trong tâm thức mỗi người, biên giới chính là dải hành lang giới hạn không gian sinh tồn của dân tộc Việt.
Cao Ba Lanh, Nam Châu Lãnh, Mẫu Sơn, Ngân Sơn – Yên Lạc, Đồng Văn, Tây Côn Lĩnh, Hoàng Liên Sơn, Pu Sam Cap, Đá Đỏ, Trường Sơn, Tu Ma Rông… thập tầng núi, thập tầng mây khiến những ai có tâm hồn thi sĩ lại có một liên tưởng khác rằng cái phần đất nước Việt Nam sừng sững ấy chợt mềm như động mạch chủ, và những dòng sông là những huyết mạch chở khí thiêng ngàn năm hội tụ của đại ngàn chảy dọc thân thể nước Nam. Dáng núi trải dài trong tư thế bảo vệ đất nước và con người thuộc nhiều thành phần dân tộc.
Từ đất Mũi Cà Mau tới địa đầu Lũng Cú, từ rừng dương Trà Cổ đến trảng bàng Hà Tiên… tôi đã đi để cảm nhận được hết vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc, để thấy non nước biên phòng kì vĩ và tươi đẹp biết bao. Dõi mắt nhìn theo dáng đá, lại nhớ mình đã từng đi đến bao miền đất dọc biên cương thăm thẳm, ngủ trong những buôn làng oi mùi khói bếp và mùi phân trâu bò hoai oải và được nghe biết bao giai điệu, bao khúc nhạc đắm say của rừng núi biên giới. Đã từng trầm trồ thán phục trước cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, trước đôi tay khéo léo của những nghệ nhân người dân tộc dệt nên màu hoa, sắc nắng trên thổ cẩm. Đã ghi vào tâm trí từng lối hoa văn, kiến trúc trên các nhà rông, nhà sàn, nhà dài cùng với đời sống và tâm hồn người dân nơi phên dậu địa đầu. Vậy mà mỗi lần đặt chân lên dải đất nhuộm máu ông cha, chứa hồn thiêng sống núi ấy, vẫn thấy lòng mình nhiều khác lạ, vừa như thể rất đỗi thân quen, mà vừa thật lạ lùng, kì bí.
Thân quen mà kì bí là bởi, mỗi vùng đất, mỗi con người nơi biên cương mà tôi gặp đã chia sớt cho tôi những tình cảm mến thương mang hai chữ “đồng bào”, giúp tôi mở lòng đón nhận nguồn tri thức về các giá trị văn hóa truyền thống ngàn năm nay vẫn bền bỉ chảy trong huyết quản của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Càng đi, càng gắn bó với biên cương, tôi càng thêm hiểu, thêm yêu những giọng nói từ thanh thoát đồng bằng đến khê nặng mùi gió biển, rồi học thêm được bao phương ngữ độc đáo, những câu giao tiếp đơn giản tiếng Mông, Dao, Tày, Thái, Hà Nhì, Chăm, Vân Kiều, Ê Đê, Ba Na, Khơ me… để thêm vào hành trang cuộc đời mình những góc tâm hồn Việt dẫu chỉ là thiểu số.
Các công trình nghiên cứu về nhân loại học đã khẳng định, những cư dân bản địa như Tày, Nùng, Khơ Mú, Vân Kiều, Ba-na… sinh sống trên biên giới có thể đã có mặt ở nơi đây từ thời đại đồ đá. Ước tính đến nay, khu vực biên giới quy tụ khoảng trên 40 sắc dân với nhiều hệ ngôn ngữ khác nhau. Dải đất biên cương nước Việt trải mấy nghìn năm đã là nơi nương tựa an toàn cho các bộ tộc thiên di từ hải đảo phía Nam lên và từ phương Bắc xuống. Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia, núi liền núi, sông liền sông, đồng liền cánh đồng… Các dân tộc hai bên biên giới đã chung sống hòa bình, nương tựa vào nhau để tạo dựng làng bản, đồi nương, khắc chế thiên tai địch họa, duy trì giống nòi và truyền thống văn hóa dân tộc…, làm nên một tình thân trân quý hiếm có dẫu có là con dân hai nước, hai dân tộc.
Chính những sắc dân này đã tạo nên những nếp sống và nền văn hóa hết sức đặc thù và đa dạng. Đồng bào các dân tộc ở Bình Liêu có rất nhiều điệu dân ca, dân vũ và các lễ hội văn hóa, tâm linh đặc sắc, nhưng điều họ tự hào hơn cả chính là tiếng đục, tiếng thanh của “Đàn đá thần” thiên nhiên ban tặng trên đỉnh Cao Ba Lanh nơi biên giới Bình Liêu, Quảng Ninh. Đàn được hình thành từ nhiều hòn đá lớn với nhiều hình thù khác nhau, gắn với truyền thuyết chống giặc, cướp từ bên kia biên giới của đồng bào. Cạnh đàn đá còn có đôi rùa đá đang kỳ sinh nở hướng ra hồ nước. Cách đó không xa là tượng nhân sư hướng mặt về bản làng để bảo vệ dân làng, bảo vệ vùng đất thiêng liêng nơi biên cương của Tổ quốc.
Khi phát hiện những biểu hiện bất thường, người phụ trách việc canh phòng sẽ gõ vào đàn đá để tạo nên những tiếng kêu ngân nga vang đi trong gió, truyền tin cho dân bản biết để chuẩn bị chống trả kẻ thù. Tiếng đàn đá truyền trong lòng núi, cộng hưởng với nước hồ tạo nên những tiếng gầm đáng sợ, trấn áp tinh thần giặc cướp. Âm thanh từ “đàn đá thần” dẫu không thật hay, thật dịu êm, tinh khiết như lời hát, tiếng đàn, nhưng tôi hiểu bà con các dân tộc Bình Liêu đã cho đó chính là khúc nhạc tuyệt vời nhất. Bởi có bài ca nào, khúc nhạc nào quý giá hơn lòng yêu nước và tinh thần chống giặc ngoại xâm, bảo vệ cõi bờ. Nghe tiếng đàn, gặp những người dân thuần hậu nơi đây, tôi thêm hiểu, đường biên giới trong lòng dân còn vững chắc hơn bất cứ loại vật liệu, ranh giới hữu hình nào.
Nổi danh với điệu Sli, Lượn, với tiếng đàn tính trong như tiếng suối, động đồng các dân tộc Tày, Nùng trên biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng có cách nói năng, ví von mộc mạc đến giản dị trong tư duy, cách nghĩ và cách quan sát của họ. Mùa tiếp mùa, màu xanh của lúa nương và bãi ngô phủ kín non cao, thung sâu chốn núi ngà Phja Boóc. Thấp thoáng đâu đó trong dáng núi có màu áo hoa của sơn nữ đi làm cỏ lúa, tiếng hát vút cao khiến hương quế, hương hồi cũng cuống quýt, nồng nàn ẩn trong nếp áo. Đã vậy, lời hát như tiếng con chim Queng Quy hót vào lòng người, giọng ca này chưa dứt thì tiếng sli, lượn khác lại nối âm. Cứ miên man trong những giai điệu quê hương quyến luyến đến mức, dẫu đã đến với vùng đất địa đầu ấy vài ba lần, tôi vẫn không khỏi chuyếnh choáng, xuyến xao… Để rồi lòng theo “bước đá, bước mây”, để câu hát đưa đường bạn theo tiếng then, tiếng lượn mà về với mỗi nếp sàn ấm áp trên sóng đá quê hương.
Rồi những đêm múa vòng trong âm hưởng trầm hùng của tiếng trống đồng cùng những chủ nhân đầu tiên của vùng cao nguyên đá Đồng Văn, dân tộc Lô Lô trên thung lũng Thèn Pả, nơi có đỉnh núi Rồng, có cột cờ tột Bắc. Có nhiều cách lí giải về sự xuất hiện của trống đồng nơi đây, song, câu chuyện được lưu truyền nhiều nhất là vào thời Tây Sơn, Hoàng đế Quang Trung đã cho đặt ở nơi biên ải hiểm trở này một chiếc trống lớn, để khi biên cương có giặc thì nổi trống báo hiệu cho quân triều đình đến ứng cứu. Đó không chỉ là hiệu lệnh, là phương tiện thông tin của quân đội Tây Sơn, mà còn như một sự khẳng định chủ quyền của đất nước.
Qua thời gian, giờ chỉ còn lại một cặp trống có niên đại ước chừng 600 năm đã mòn vẹt. Với người Lô Lô thì trống đồng là biểu tượng của vũ trụ, của con người. Trống chỉ được dùng vào việc tế trời đất, cúng ma cho người chết và nhảy múa trong Lễ cúng tổ tiên vào tháng 7 âm lịch. Người Lô Lô có tới 36 điệu đánh trống đồng để giữ nhịp cho các bài múa. Âm hưởng trầm vang của trống có ảnh hưởng rất lớn đến phong tục tập quán, và dân ca, dân vũ. Trong ngày hội vui, người Lô Lô mới đem những chiếc trống cổ cùng những vũ điệu nguyên sơ ra để trình diễn như một phức điệu đẹp của núi rừng, của tấm lòng tôn kính tổ tiên và cùng cầu mong cho mọi gia đình hạnh phúc, mạnh khỏe.
Và tôi sẽ chẳng bao giờ quên khoảnh khắc tuyệt vời một chiều cuối thu, trong không gian rừng núi bên dòng Đà giang thẳm dốc, điệu múa sơn cước của các thiếu phụ Si La tha thước, dịu dàng, đong đầy nét duyên một thủa. Nhìn điệu múa đắm say ấy, tôi tự hỏi liệu đây có phải là những bước chân thiên di khi vượt ngàn băng núi với ước vọng về một miền đất trái ngọt cây lành còn đang ở trước mặt đợi chờ. Hay nỗi niềm của người già Si La nhớ về quê hương Mồ U xa ngái ngàn trùng, ngày về cũng chính là ngày nằm xuống trong lời khấn tiễn đưa. Ngoài điệu múa “Chò trì si a”, tạm dịch là “khăn thêu” này, người Si La còn gìn giữ một số điệu múa trong các lễ hội như cầu mùa, vào mùa với các động tác mô phỏng hiện tượng thiên nhiên hay trong lao động và có sự giao thoa cùng ảnh hưởng lớn từ các dân tộc xung quanh như Hà Nhì, Thái, Mông…
Những người anh em Pa Cô sống trên địa bàn biên giới các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế lưu giữ vốn cổ của mình trong cuộc sống thường ngày. Trai gái đi sim tìm hiểu nhau dùng đàn Talư và bài A Dà lúc tha thiết nhớ thương, lúc trách hờn; bài Păn tưi (lẻ loi) da diết kể về nỗi buồn của chàng trai vượt núi băng sông tìm bạn yêu nhưng người ấy đã bị chàng trai khác giành mất; Trong niềm vui, nỗi buồn của bản làng có sự hoà nhịp của đủ bộ chiên cồng, đàn Talư, khèn bè Ciên, đàn A – ben với điệu Hiê réo rắt… Từ những bài hát nồng nàn của cô Ajư Tươi vùng A Sao – A Lưới đến điệu khèn môi da diết của nghệ nhân Mai Hoa Sen vùng Hướng Hóa đều khiến cho người nghe xao xuyến.
Xứ trầm hương Quảng Nam lại là nơi lưu giữ những thanh âm tuyệt vời của dân tộc Jẻ-T’riêng và Cơ-tu ở 73 thôn bản thuộc 12 xã của 2 huyện Nam Giang và Tây Giang. Văn hóa tộc người Cơ Tu không chỉ đa dạng và phong phú mà còn tiềm ẩn trong đó biết bao triết lí nhân sinh quan của con người đã quen sống khoáng đạt giữa núi rừng. Ngoài các lễ hội truyền thống như: Lễ hội đâm trâu, mừng lúa mới, mừng nhà mới hay cưới hỏi, ngày hội dân ca dân vũ tân’tung, da’dă, chơi đàn abel, khèn… Độc đáo nhất có lẽ là điệu P’rá pr’ma, têng bh’noóch, tr’a (nói lý- hát lý truyền thống)… Điệu hát này là hình thức ứng khẩu sử dụng vào mục đích sinh hoạt văn hóa văn nghệ trong đời sống người Cơ Tu. Nói lý hát lý không nhất thiết là phải dùng triết lý để phân tích một sự việc hiện tượng, mà dùng hình tượng ẩn dụ, nhân hóa ví cái này hiểu nghĩa cái kia. Vì thế nói lý hát lý luôn kích thích người nghe, giúp đối phương hiểu sâu công việc và đồng cảm với nhau.
Nếu người Cơ Tu tự hào về điệu P’rá pr’ma, têng bh’noóch, tr’a thì người anh em Jẻ T’riêng sống dọc theo con đường Hồ Chí Minh huyền thoại lại sở hữu một kho tàng thơ ca mang đậm chất trữ tình và giàu nhạc cảm. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội của buôn làng. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng gồm 7 chiếc, 6 chiếc, 4 chiếc, 3 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)… có khả năng hòa âm với lời ca hoặc độc tấu cũng là nét đẹp văn hóa riêng có của đồng bào nơi đây.
Rồi dãy núi kiêu hãnh ấy sau biết bao ghềnh cao, vách dựng lại mở lòng hiền hòa, ấm nóng với màu đất đỏ bazan tạo nên cao nguyên huyền thoại. Theo dòng sông Auna hiền hòa, thơ mộng chảy giữa cao nguyên, sẽ tuyệt với biết bao nếu được nghe nghệ nhân A Lưu, A Bek (dân tộc Ba Na), Y Yon (dân tộc Jarai) rỉ rả những bản trường ca của đất trời Tây Nguyên từ đầu hôm đến sớm mai. Để nhận ra tâm hồn người Tây Nguyên trầm lắng êm ả hòa theo bài Kdor đối đáp dưới dạng đồng ca, xướng xô, kể câu chuyện ngàn năm trước đây các dân tộc đến với đất nước này. Nghệ nhân A Lưu hát mà giọng Hơ-mon của ông làm hiển hiện trước mắt tôi tiếng nước reo, lửa cháy, tiếng sấm rền trong những cơn giông đầu mùa hạ, tiếng hổ gầm trong vách núi, cả tiếng chim hót trong trẻo và cả tiếng hát của những cô gái Ba Na bên dòng suối. Đặc biệt những trường ca Giông, Giở qua lời hát kể của ông đã hoàn thành sứ mạng của mình là nối liền quá khứ nghìn năm và hiện tại một cách đầy sinh động.
Một trong những nét độc đáo và đa dạng của nền âm nhạc dân gian trên dải biên cương chính là hàng trăm loại nhạc cụ truyền thống của các sắc dân nơi đây. Thật khó để có thể thống kê hết được các loại nhạc cụ cùng những tính năng chuyên biệt của chúng. Điểm tương đồng dễ nhận thấy là đa phần các nhạc cụ đều được chế tác từ lá, tre nứa và thân cây rừng, nhưng không vì thế mà làm giảm đi nhạc cảm của những người được thưởng thức. Các nghệ nhân đã ghép những ống nứa dài ngắn khác nhau để tạo nên nào đàn môi, khèn, sáo, tính tẩu, khạp luống, ciên, đinh tút, klôngpút, đinh jơi, trôsô, tà khê… Mỗi dân tộc một màu sắc, một âm điệu đã khiến cho bài ca của núi rừng thể hiện mọi trạng huống cảm xúc của con người trước thiên nhiên và cuộc sống.
Song, điều kì diệu nhất mà cộng đồng các dân tộc thiểu số trên biên giới mang lại cho kho tàng văn hóa và âm nhạc nước nhà có lẽ chính là sự hùng tráng bất tận của dàn cồng chiêng. Hầu hết các dân tộc dù có số dân đông đảo như với những dàn cồng chiêng quy mô như Jarai, Êđê, Banar, đến các dân tộc ít dân số nhất như Brâu, Rơ măm tỉnh Kontum đều có tài sản quý này của riêng mình. Trong đời sống sinh hoạt văn hóa của 13 dân tộc Vân Kiều, Kơ tu, H”rê, K”dong, Chăm roi, Răk Lây, Giẻ Triêng, H”mông, Ba Na, K”ho, Gia Rai, Xê Đăng và Ê Đê…, dường như lúc nào thiếu đi tiếng cồng chiêng. Nó ngân nga trong lễ mời ông bà đi gieo hạt, lễ ăn cơm mới, lễ bỏ mả hay những ngày hội mừng bản làng, đất nước đổi mới. Người Jarai, Êđê, Banar… đánh cồng chiêng theo bài bản và quy định chặt trong cách đánh theo từng hoàn cảnh. Dàn cồng chiêng có thể lên đến hàng chục chiếc được tấu lên theo từng bè ổn định. Dân tộc Brâu chỉ với hơn 200 người lại có niềm tự hào về bộ chiêng Tha trân quý, mỗi lần đánh chiêng chỉ có hai người ngồi hai bên nhưng cũng không vì thế mà kém đi giai điệu. Một đêm nhảy múa quanh đống lửa bên nhà rông – nơi trước đây từng là hố bom cày, nghe dàn cồng chiêng dân tộc Rơ Măm ở biên giới Kon Tum đã khiến trái tim tôi rộn ràng những nhịp đập nồng nàn, để thấy tiếng cồng chiêng là hơi thở, là máu huyết của các dân tộc trên dãy Trường Sơn.
“Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu”, câu nói cách đây gần 100 năm của nhà Tây Nguyên học Jacques Dournes khiến tôi nhận ra nhiều điều. Đi trên đường tuần tra biên giới dài hơn 2.050km, với tổng mức đầu tư khoảng 11.000 tỷ đồng do Bộ Quốc phòng làm chủ đầu tư, chạy qua núi cao, sông rộng của địa bàn 25 tỉnh thần biên giới đất liền từ Quảng Ninh đến Kiên Giang để cảm nhận một sức vươn bền bỉ của một vùng đất còn nhiều tiềm năng chưa khai phá. Cũng trên con đường “trù phương lược” ấy, ngang qua biết bao tượng đài, đền miếu tưởng niệm, được nghe nhiều câu chuyện về đồng bào các dân tộc nơi đây đã kề vai sát cánh chiến đấu giải phòng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, sẽ càng thấy được quyết tâm của các dân tộc đã kiên gan gìn giữ nét văn hóa của cộng đồng mình dù trải qua chiến tranh, li loạn hay những thiếu khó, cam khổ nơi xa xôi, khắc nghiệt. Và khi hòa mình vào các điệu dân ca, dân vũ của đại ngàn, bạn sẽ tìm thấy trong lịch sử, trong tự nhiên, trong văn hóa, trong con người nơi đây bao điều để suy ngẫm về lẽ đời, về cuộc sống giữa thế giới đang rối bời xung đột hôm nay.
P.V.A