Đi sau Nhà vua và Thái hậu là Thái uý Lý Thường Kiệt và nhà sư Khô Đầu, vị quốc sư mới được…
Phần 5
Tháng ba.
Kinh thành đỏ rực hoa. Hàng cây gạo bên sông Cái, sông Nhuệ, sông Tô nghiêng những con rồng lửa quấn quýt nực nội xuống dòng sông. Những cánh hoa rơi lăn lóc trên mặt cỏ như bùi nhùi rơm nhỏ xíu lập loè cháy. Mênh mông mang đầy trời tiếng ong bay.
Vua Lý Nhân Tông ngự lãm điểm binh ở cánh đồng Gỉang Võ.
Bao quanh đài cao là đội Ngự lâm quân do quan Tả đô cấm vệ chỉ huy sứ chỉ huy. Vòng ngoài là mười vệ Điện tiền cấm quân gươm giáo sáng loà, trùng trùng lớp lớp trải rộng, cờ xí rợp trời, kéo dài tới tận sát nơi chuồng ngựa chuồng voi Kim Mã, Cống Vị. Các đạo Tả Quảng Thánh, Hữu Quảng Thánh, Tả Ngự Long, Hữu Ngự Long, Tả Bổng Nhật, Hữu Bổng Nhật, Tả Thần Điện, Hữu Thần Điện… Trên trán mỗi cấm quân đều thích ba chữ son đỏ: “Thiên tử quân”. Khi triều đình truyển mộ trai tráng vào các đạo cấm vệ quân, Thái uý Lý Thường Kiệt đã tâu lên vua: “Bẩm bệ hạ. Ta nên chọn dân châu Hoan. Dân đó xưa nay dù mang tiếng gàn dở nhưng một dạ trung thành. Bệ hạ sai chúng gác cổng Cấm thành, chẳng phải chỉ kẻ lạ mặt mà dẫu cha chúng nó xin vào thành nhổ một ngọn cỏ rồi trở ra tức khắc, chúng cũng quyết không cho!…”.
– Hoàng thượng giá lâm!
Tiếng hô của quan Tả đô cấm vệ chỉ huy sứ. Cả biển người chuyển động, hô theo như sấm rền:
– Thánh thượng vạn tuế! Thái hậu vạn tuế vạn vạn tuế!
Xa giá tới.
Thớt voi trắng dẫn đầu cỗ xe THÁI BÌNH. Bành voi Bồng la nga cẩn vàng. Cổ voi đeo một chuỗi ba mươi sáu chiếc chuông bạc, mỗi bước đi, tiếng chuông ngân lên trong vắt. Hai quan Chánh phó Điện tiền chủ huy sứ cưỡi ngựa trắng hộ tống hai bên. Đức Nhân Tông ngồi trên bành voi, mặc áo bào tía, đầu đội mũ hành phục quan màu vàng có đính hạt châu. Ngài ngự đang ở tuổi hai mươi hai. Da đỏ hồng hào. Trán dô. Cái nhìn như đóng đinh người ta. Hàm vuông miệng rộng. Tay dài quá gối. Bên cạnh Ngài, Thái hậu Ỷ Lan mặt tròn như trăng rằm, mày tằm, mũi như trái mật treo, quyền cốt nổi rõ dù đám thị nữ đã khéo che phủ bằng một lớp phấn màu hoa đào. Thái hậu đội mũ thêu cửu long chầu nguyệt, tóc búi cài đôi trâm vàng có chữ thọ kết bằng ngọc quý. Mặc áo bào dệt bằng tơ đậu tám sợi thêu rồng. Xiêm cũng dệt bằng tơ đậu tám sợi màu trắng thêu chim phượng.
Đi sau Nhà vua và Thái hậu là Thái uý Lý Thường Kiệt và nhà sư Khô Đầu, vị quốc sư mới được nhà vua tấn phong hồi tháng Giêng, tay cầm tiết việt. Lý Thường Kiệt đã vào tuổi lục tuần nhưng tráng kiện trong bộ võ phục màu đen nẹp trắng, đai tơ sẫm màu, trước ngực thêu hình đầu hổ chỉ bạc. Dưới vành mũ Thái uý là gương mặt đẹp uy nghi. Dải mũ bản to quá khổ nhằm che khuất chiếc cằm trắng không râu. Đi sau nữa là các hoàng thân quốc thích, quan lại từ Tứ phẩm trở lên đội mũ phốc đầu, chân đi hia đế cao. Diên Thành hầu dẫn đầu. Áo bào đỏ viền đai cẩn ngọc quý, hầu là vị quan nhất phẩm được vua Nhân Tông nể vì. Là vị vua có hiếu với mẹ, Đức vua rất hài lòng khi thấy vợ chồng Diên Thành hầu thường xuyên đến thăm Thái hậu, dâng hương liệu lạ, châu ngọc quí và có những câu pha trò khiến Thái hậu vui.
Đến trước đài cao, theo hiệu lệnh của quản tượng, voi trắng rống lên một tiếng trầm đục rồi quì hai chân phủ phục. Thái giám, thị vệ, thị nữ xúm xít đỡ Vua và Thái hậu. Ba hồi chín tiếng trống dóng lên. Theo nhịp trống, Vua và Thái hậu dẫn đầu cùng các quan văn võ bước lên đài.
Đức Nhân Tông kiêu hãnh phóng tầm mắt.
Dưới chân đài, một rừng quân tướng hàng ngũ chỉnh tề, khí giới sắc quắc đứng nín thở chờ đến lúc Ngài phát lệnh điểm binh.
Xa hơn, đội kỵ binh và đội tượng binh uy nghi bên tả, bên hữu…
Và xa hơn nữa, đám dân chúng chen chúc nhau mong được trộm ngắm mặt rồng.
Đức Nhân Tông vui mừng trong dạ. Đất nước qua bao cơn bĩ cực đã tới tuần thái lai.
Mười sáu năm về trước, Nhâm Tý, Thái Ninh năm thứ nhất, mới mười bảy tuổi, Thái tử Càn Đức nối nghiệp cha lên ngôi hoàng đế. Mưa tầm tã hàng tháng trời. Vừa kịp rước Phật Pháp Vân về kinh để cầu tạnh thì xảy đến chuyện nhật thực u ám đất trời. Khắp kinh thành, trong các làng xóm thôn xã, người người chạy ra đường gào thất thanh: “Gấu ăn mặt trời! Gấu ăn mặt trời! Đuổi gấu! Đuổi gấu…”. Nhà có mõ dùng mõ, nhà có thanh la dùng thanh la. Người đem nồi đồng mâm thau, liềm quốc ra sân, thất thần ngửa mặt lên trời gõ inh ỏi. Các bà mẹ lén lút dúi đầu con trẻ dưới vạt áo nâu, sợ gấu trông thấy sẽ thèm rỏ dãi, dãi rơi xuống nhân gian mà thành bệnh đậu mùa. Ông già bà cả dùng mỡ bò hoà với nhọ nồi, bắt cả làng bôi nhọ vào mặt trông cho dữ tợn, dùng đòn xóc hai đầu nhọn đẩy trai tráng nhẩy lên nóc nhà, leo lên ngọn cau hú đuổi gấu. Dân chúng hoang mang sợ hãi, nghĩ rằng con gấu đen đang ăn mặt trời trên kia trông thấy, sẽ sợ hãi nhả mặt trời ra mà bỏ đi.
Hết mưa dầm lại đến nắng hạn. Suốt bốn tháng hè không có một hạt mưa. Sông ngòi cạn kiệt. Đồng ruộng nứt nẻ khô rang. Trâu bò lăn ra chết từng đàn. Người người kéo cày thay trâu. Qua thu, cánh đồng lúa chín xơ xác, chó chạy hở đuôi lại bị chuột bọ sinh sôi cùng lũ châu chấu tràn về như những đám mây đen tàn phá. Đã lắm người chết đói. Sáng sáng, cứ mỗi làng bản lại có một đoàn bốn người chức việc mặc áo sô gai, mũ mấn trùm kín mặt, vác hai chiếc cáng tre đi khắp các nẻo phố, khắp hang cùng ngõ hẻm nhặt xác chết đem chôn. Nhiều nhất là xác trẻ con và người già. Không đủ áo tơi nón lá dể đắp xác người. Kín đầu thì hở cả đôi chân khô đét đen sạm. Kín chân thì để lộ cái đầu tái nhợt ghê rợn với đôi tròng mắt tụt như biến sâu vào trong hốc mắt. Thân nhân người chết cũng đói hõm bụng, vật vờ đi sau những chiếc cáng, không đủ sức há miệng cất lên tiếng khóc.
Khắp thiên hạ không thiếu lời xì xầm thị phi. Có kẻ bạo miệng dám nhắc lại chuyện trong cung Thượng Dương. Nói là đêm đêm Linh Nhân thái hậu không ngủ yên. Ruột gan như có ai bào. Canh ba là Thái hậu bật dậy, cuống cuồng đi lại, có lúc chạy điên loạn như bị người ta bắt, rồi quấn hàng chục lớp chăn gấm ôm chân ngồi co trên giường mà khóc kể, gào thét. Hàng trăm chùa chiền mà Thái hậu cho dựng lên khắp trong nước là để sám hối, rửa oan cho việc Thượng Dương thái hậu và bảy mươi sáu cung nữ vô tội bị sát hại năm nào…
Trong nước là vậy. Tình hình bên ngoài cũng đâu được yên ắng. Phía nam giặc Chân Lạp, Chiêm Thành quấy đảo bờ cõi. Bắt người, cướp thuyền bè, thóc lúa. Phía bắc nhà Tống tập trung binh hùng tướng mạnh diễu võ dương oai chỉ chờ dịp nuốt chửng vùng biên ải, dọn quang đường tiến thẳng xuống nội kinh.
Linh Nhân thái hậu che rèm cùng vua ngồi bàn chính sự. Thái sư Lý Đạo Thành và Thái uý Lý Thường Kiệt là quan văn, võ đầu triều được vời vào.
Thái sư Lý Đạo Thành nói:
– Bẩm tâu Thái hậu! Bẩm tâu Hoàng thượng! Ông trời ra hoạ, hết lũ lụt lại hạn hán. Nhưng đâu chỉ có vậy. Thiên hoạ không bằng nhân hoạ. Mấy năm nay nhân khi triều đình bận đối phó với giặc ngoài biên ải, lũ tham quan ô lại, bọn cường hào ác bá mọi nơi đua nhau lộng hành. Dân chúng đã khốn cùng lại càng khốn cùng hơn…
– Có vậy sao?
– Bẩm Thái hậu, kẻ hạ thần đâu dám ngoa ngôn, sàm tấu. Ngày đầu tháng vừa rồi, dân phủ Bình Giang kéo đến trước cửa Đô hộ phủ ngục tụng để kêu về việc tri phủ Lê Trường Tích hà lạm công quỹ, ức hiếp dân lành. Dân tình đói kém người chết đầy đường mà vụ mùa vừa rồi tri phủ tự ý nâng mức thuế vượt quá quy định của triều đình, rồi khai man để đổ thóc xuống thuyền bán cho con buôn với giá gấp năm gấp bảy.
– Sao chưa thấy Tam pháp ty tâu trình việc này?
– Dạ bẩm… Có lời nói Tri phủ Bình Giang dám làm việc sai trái đến vậy là do ỷ thế có chỗ dựa nơi quyền cao chức trọng trong triều đình… Do có…
“Chát!”… Thái sư Lý Đạo Thành giật nẩy người vì tiếng bàn tay Thái hậu đập mạnh lên mặt kỷ. Tiếng Thái hậu cất lên sang sảng sau rèm:
– Quân pháp bất vị thân… Ngay ngày mai ta sẽ đích thân xem xét việc này.
– Dạ… bẩm tâu Thái hậu. Thật phúc cho con dân! Thần trộm nghĩ… Bình Giang là một phủ chẳng xa kinh thành là mấy. Đất rộng, người đông. Không thiếu người hiển đạt, được hưởng tước vị bổng lộc của triều đình… mà còn vậy thì ở những nơi xa xôi hẻo lánh, dân tình ngu muội, triều đình xa quan nha gần thử hỏi thân phận đám dân đen sẽ còn ra sao…!
– Kế sách? – Tiếng Thái hậu với vẻ sốt ruột, nôn nóng.
– Dạ bẩm… Thần trộm nghĩ… Mọi kế sách lúc này của triều đình là sao cho no cái bụng của người dân. Dân có no thì nước mới mạnh. Triều đình cần ra chính sách khuyến nông khuyến điền. Xét giảm thuế má cho những nơi mất mùa dân tình thực sự đói kém. Khai thông mương máng dẫn thuỷ nhập điền, bồi đắp đê điều phòng khi lũ lụt. Khuyến cáo người khai phá đất hoang trồng ngô trồng lúa… Song hành cùng việc đó, triều đình cử quan khâm sai đi các châu phủ để xem xét dân tình, tra xét hành vi của bọn tham quan ô lại để giữ nghiêm phép nước, cất nhắc những người hiền lương có tài văn võ cho quản quân dân… Không lúc nào bằng lúc này triều đình cần lời nói thẳng.
– Những việc đó cần làm ngay!
– Dạ, bẩm Thái hậu. Thật là hồng phúc cho muôn dân!
Thấy Lý Đạo Thành đã dập đầu lạy, nhưng vẫn cứ quỳ nguyên trước rèm, Thái hậu lên tiếng hỏi:
– Quan Thái sư còn có điều gì nữa?
– Dạ bẩm Thái hậu. Bẩm Hoàng thượng…
– Quan Thái sư chẳng vừa nói, triều đình ta đang cần người nói thắng mà!
– Bẩm Thái hậu. Thần vốn nông nổi, chỉ e lời nói khó lọt tai, mà khéo người nói lại chuốc hoạ…!
Sau rèm, Thái hậu cả cười. Là người đàn bà tuệ mẫn sáng láng, lại quyền biến trong những những năm chấp trị đất nước thay đức Thánh Tông đi đánh giặc bình định đất phương nam, bà am hiểu tỏ tường, biết sở trường sở đoản của từng quần thần văn võ đang phủ phục trước mặt kia. Đôi môi Thái hậu đầy đặn đỏ thắm:
– Thái sư cả nghĩ! Ta dẫu phận đàn bà nhưng nhờ ơn tiên đế cũng phân biệt được trăng sao. Có điều gì quan Thái sư cứ nói!
Thái sư Lý Đạo Thành ngập ngừng giây lát rồi mới cất tiếng:
– Từ thời đức Thái Tổ dựng nước, triều đình ta đã lấy đạo Phật làm gốc. Nhờ Phật pháp giáo hoá chúng sinh mà dân an nước thịnh. Nhưng những năm gần đây, dân tình đói khổ mà ngược lại chùa chiền lại dựng lên quá nhiều. Bao nhiêu của cải, công sức đổ vào nơi cửa Phật. Qúa nửa dân trong nước đi làm sư sãi, mải cầu kinh mà trễ nải nông tang. Số ruộng đất lành để làm Qui điền cho các chùa chiền rất nhiều mà thường lại bỏ hoang hoá vì đa phần sư sãi không lo chuyện ấy mà chỉ trông vào của cúng lễ của chúng sinh… Thần xin liều chết mạnh dạn tâu trình lên Thái hậu cùng Hoàng thượng… Triều đình cần ra định mức quy điền cho mỗi chùa tuỳ theo quy mô và số sư sãi trụ trì nơi đó. Số ruộng dôi dư sẽ chia cho các nông phu chăm chỉ làm ăn mà hiện không một tấc đất trong tay. Đồng thời cho củ soát nghiêm ngặt các nơi tu hành để loại bớt những kẻ lười biếng, không thực bụng tu hành, chỉ muốn nằm lười làm ăn nhờ trong cửa Phật… Như thế, Thái hậu sẽ có đến quá nửa người nhà chùa nhập thế lo việc nông tang. Mặc khác Phật đạo cũng vì thé mà lại thịnh vượng hơn nhiều. Triều đình cũng tránh được tiếng thị phi…
Sau rèm lặng ắng hồi lâu.
Rồi tiếng Thái hậu lạnh lùng ban ra: “Bãi triều!”.
Ba ngày sau hoả đầu được lệnh nấu những nồi cháo lớn đặt ở sân chùa, ngã ba ngã tư đường phát chẩn cho thiên hạ. Những bát cháo loãng còn rất ít ỏi, người chết đói vẫn đâỳ đường đầy chợ nhưng những nồi cháo thí cũng khiến cho dân chúng cảm động, từ chỗ oán thán chuyển sang ngợi ca công đức của Thái hậu và đấng minh quân. Thái hậu lại vời riêng một đám nho sĩ, ca công ra ân mưa móc cho được ân hưởng lộc điền trạch, ban phát lụa vàng. Đám nho sĩ, ca công được nuôi nấng chăm chút trong triều tưởng đời chẳng còn mong gì hơn, chỉ còn một việc ngaỳ đem uốn bút dẻo lưỡi bày đặt những diễm khúc tụng ca cuộc sống no ấm của chúng dân dưới công ơn mưa móc của Thái hậu và Hoàng thượng cùng những anh hùng dám lìa bỏ mẹ già vợ yếu con thơ đi chiến trận.
Nhưng cũng chẳng bao lâu sau buổi lên triều hiến dâng kế sách, Thái sư Lý Đạo Thành được gọi lên giao chức Tả Gián nghị đai phu vào trông coi châu Nghệ An xa xôi. Thái sư biết đây là hậu quả của việc mình quá lời tâu bày. Tới nơi trị nhậm mới, Đạo Thành lập Viện Địa Tạng trong miếu Vương Thánh. Uy nghi giữa điện đặt tượng Phật và vị hiệu của đức Thánh Tông, sớm hôm thờ phụng.
Năm Kỷ Mùi, Anh Chiêu Vũ Thắng thứ tư, châu Lạng dâng voi trắng. Có mưa đá. Nhưng cả nước lại được mùa to. Nhà nhà thóc chứa đầy cót, khoai củ chật gầm giường. Khắp nơi vang vang tiếng ca ngợi công đức của Linh Nhân Thái hậu và đức Nhân Tông trị nước.
Chúng dân lại nức lòng theo việc triều đình. Cả nước hăng hái dồ tận lực vào việc quân. Nhà nhà gươm giáo vũ khí sáng choang, cung nỏ dầy đặc trên vách. Trai định cuộn vế xoa tay mắm môi mắm lợi chỉ chờ lệnh trên gọi là lập tức đội nón vác đao đi làm việc quân. Việc đồng áng ruộng nương ở nhà tất thẩy đều do người già, đàn bà trẻ con gánh vác. Mỗi nhà đều giắt sẵn trên vách một tù và sừng trâu. Hễ có động là tiếng tù và rúc lên vang dội, gọi lũ lượt trẻ con, người già và đàn bà tay cung tay nỏ đổ túa ra đường… Không đủ vải trắng làm khăn tang cho người chết. Nhưng tất cả không ngăn được giòng thác người sẵn sàng chờ lệnh xung quân theo những tiếng tù và xông trận đầy ma lực.
Chẳng thế mà Vương An Thạch, tể tướng dạ dầy mưu lược của triều đình nhà Tống , ngoài từng đánh đông dẹp bắc, trong đã từng dâng nhiều kế sách trị quốc an dân, được hoàng đế Tống rất trọng nể, vẫn bị mắc lỡm khi phái thám quân sang dò la đất Giao Chỉ.
Quân về báo với ngài tể tướng rằng hiện vua Giao Chỉ còn trứng nước, mới chưa đầy mười tuổi, mới được Thiên tử triều Tống phong làm Giao Chỉ quận vương để an ủi mà ngoan ngoãn giữ thuần phục, nhưng nay giao chỉ quá lao lực về việc binh. Dân gầy còm vì đói kém lâu ngày, lại phải gánh vác lao dịch xây nhiều chuà chiền, nay tuy tướng với quân đều còn hăng hái nhưng phía nam phải lo đối phó với quân Chiêm Thành sang đánh phá liên miên, vì thế phía bắc có thể lơi là việc trấn giữ biên ải. Trải qua nhiều cuộc đao binh quân số hao mòn tổn hại, cả nước có lẽ không còn đến vạn binh…!
Nhân tin đó, Vương An Thạch tính kế tâu với vua Tống:
– Thần trộm nghe, việc mở mang bờ cõi làm rạng danh tổ nghiệp vốn là việc trọng đai của bản triều ta… Nước Nam đang suy yếu, vua nhỏ tuổi, dân tình ly tán đói khổ. Ta nên nhân dịp này mà xua quân đánh chiếm lấy để chia thành quận huyện thuộc thiên triều. Như vạy cũng là nhổ bỏ cái gai trong đế giầy vương giả, tránh cái hoạ tiềm ẩn phương Nam nhiều đời tiên triều ta vẫn phải lao tâm định liệu…
Vua Tống nghe lời tâu, cả mừng, bèn sai hai tướng tài Thẩm Khởi và Lương Di làm tri Quế Châu, chuẩn bị binh mã, cấm các châu huyện không được giao du mua bán với dân Giao Chỉ. Trên bộ thì ngầm dấy binh người Man động quấy rối vùng biên giới, dưới nước đóng thuyền bè ra sức dàn quân thao luyện thủy chiến.
Đứng từ đỉnh núi bên này trông sang, Thái uý Lý Thường Kiệt nhìn thấy dọc vùng biên, quân Tống ngựa xe dàn binh đen kịt, cờ xí rợp trời. Các chiến thuyền với hàng tay chèo lực lưỡng đậu sẵn trên bến sẵn sàng xuất trận. Lý Thường Kiệt cười nhạt nói với các phó tướng đang đứng quanh: “Xưa nay ta vẫn nghe tài dụng bình của THẨM KHỞI và LƯƠNG DI, trong lòng cũng có phần nể trọng. Gìơ mới được tận mắt nhìn thấy… lẽ nào lời truyền trong thiên hạ lại là ngoa ngôn?”.
Lý Thýờng Kiệt khẩn cấp về triều tâu lên vua kế sách chống giặc:
– Muôn tâu hoàng thượng! Thế giặc dẫu mạnh nhưng xin người đừng quá lo lắng làm hao tổn mặt rồng. Hạ thần đã có kế phá…
Đức vua khi dó mới mười tuổi, nghe thế giặc mạnh đã ngợp người kinh sợ, phán:
– Nay quân ta còn đang phải đối phó với rợ Chiêm Thành. Chiến trận liên miên thôn xóm nào cũng văng vẳng không dứt tiếng khóc người chết trận. Quân số còn lại ít ỏi sao có thể đối phó lại với giặc phương Bắc hung dữ như hùm như sói kia…
Thái hậu ngồi sau rèm toan cất lời thì Thái uý tâu tiếp:
– Hoàng thượng! Xin chớ nhọc lòng. Dân Đại Việt ta xưa nay nhiều chỗ kém người nhưng cũng có những điều mà thiên hạ không thể sánh kịp. Khắp thôn xóm bao đời nay chưa lúc nào nguôi tiếng khóc người chết trận…
Nhân Tông cau màu, vẻ bực bội hiện rõ trên mặt. Nhưng Thái uý đã tâu tiếp:
– Mà tiếng trống ra quân và tiếng tù và vào trận cũng chẳng khi nào ngập ngừng lưỡng lự. Mà mỗi dân đen là một tên lính dũng mãnh… Cái hơn của người Nam ta so với người thiên hạ là vậy. Mặt khác, dân chúng tuy lao dịch khổ ải nhưng Bệ hạ cũng biết rằng chính sự khổ ải trong cuộc sống trần thế này khiến cho con nhà nông phu nhẹ buông mạng sống hơn trong chiến trận. Trong thôn xóm vẫn có nhiều kẻ mong nhập quân để được bữa no cơm.
Thái uý rút từ trong tay áo ra một cuốn sách chữ viết bay bướm như hoa nở lá chào trên giấy hoa tiên màu vàng nhạt, nói tiếp:
– Và khắp trong dân gian, miệng lưỡi lũ ca nhi cùng ngòi bút lông cùn của kẻ sĩ xưa nay vẫn chẳng không ngừng đón ý Bệ hạ để làm bản ca ngợi cái chết nơi chiến trận, biến những chiến trận đẫm máu thành những lễ hội tưng bừng của kẻ thắng cuộc đó sao! Lẽ nào Bệ hạ không biết rằng dùng miệng lưỡi của bọn ca công và ngòi bút kẻ sĩ lùa người ra trận còn dễ còn nhẹ hơn nhiều lần lệnh chiêu binh mãi mã của triều đình?
Trong rèm chợt vang lên giọng cười sang sảng của Thái hậu:
– Ta không ngờ quan Thái uý lại tinh tường lòng người đến vậy. Thật cũng hả lòng với thiên hạ ngoa truyền rằng ta là phận nữ nhi mà cũng khéo biết dùng người. Vậy Thái uý hãy kíp đem binh đi lo liệu việc này.
Lý Thýờng Kiệt kính cẩn chắp hay tay trước ngực:
– Thần đội ơn Thái hậu đã có lời động viên kẻ ra trận. Nhưng thần cũng mạnh gan xin đề bạt lên Thái hậu và Hoàng đế bệ hạ xem xét…
– Quan Thái uý cứ nói…
– Triều đình nhà Tống lúc này tạm yên lòng với phương Bắc. Hiện muốn dồn sức thể thôn tính nước Nam ta. Thuỷ bộ hai mặt đều dùng tới. Lại thêm quân Man động là đân sơn cước hung hãn quen lối đánh hiểm thọc sâu… Kế sách dụng binh của ta xưa nay vẫn là lấy tinh thắng thô, lấy mưu trị lực. Nhưng cũng không thể dùng đê mỏng mà ngăn sóng dữ xô bờ…
Thái hậu xô rèm bước hẳn ra ngoài:
– Thái uý nói chí phải!
– Thần trộm nghĩ, mười vạn tinh binh là việc lúc này cần bằng mọi giá triệu tập…
Thái hậu thảng thốt, nhướng cao đôi mày ngài đen mượt:
– Sao? Lẽ nào Thái uý không biết rằng quân ta sau nhiều lần chinh chiến đã hao hụt tổn hại rất nhiều, nay có gắng gỏi vớt vét trong cả nước cũng chỉ được hơn mười vạn?
Lý Thường Kiệt thong thả chắp tay:
– Qủa có thế, tâu Thái hậu. Nhưng thần trộm nghĩ, xưa nay chiến trận giữa ta và phương Bắc có lúc thắng có lúc thua. Ngay lúc thắng thì đất nước dân tình cũng chỉ yên ổn được dăm năm. Còn mầm hoạ thì vẫn không loại được…
– Vậy quan Thái uý muốn gì?
– Dạ bẩm, xin Thái hậu và Hoàng thượng cho phép. Muốn dụng người phải dụng tận tâm. Muốn diệt hoạ phải diệt tận gốc. Lúc này dẫu binh sĩ ta không nhiều nhưng khí thế lại hăng say. Từ kinh thành đến nơi thôn dã nghe phong thanh quân Tống rập rình ngoài cõi, mọi người đã nhấp nhổm chờ lệnh trên truyền gọi:
Thái hậu cười, gương mặt đày đặn sáng ngời như khuôn trăng:
– Ta nghĩ, thứ dân trong thiên hạ, không đâu dễ sai bảo như thứ dân của nước Nam này.
Lý Thường Kiệt phác một cử chỉ không ra đồng tình, không ra phản đối, bàn tay rơi xuống lưng chừng:
– Vì thế, cứ theo ngu ý của thần, trận này không chỉ khoanh tay ngồi chờ giặc thù tràn vào bờ cõi mới đánh… mà phải ỷ vào sức quân lòng dân mà dấn trước… Ta phải tràn qua đất phương Bắc để đập tan mầm hoa, khiến lũ cầy cáo phương Bắc phải táng đởm kinh hồn, cha mẹ con cái truyền nhau đời đời không còn dám nhòm ngó đụng chạm đến nước Nam ta…
Ngai vàng lặng ắng. Thái uý thản nhiên chờ đợi.
Hồi lâu, tiếng Thái hậu vang lên sang sảng giữa triều đường:
– Bay đâu… Truyền lấy ấn tín. Giao toàn quyền cho Thái uý định liệu, thống lĩnh mười vạn tinh binh để trị tội lũ giặc phương Bắc…
Được ngự ấn, Lý Thường Kiệt chọn Tông Đản làm phó tướng, nhất nhất chỉnh đốn lại quân mã trong các châu huyện. Một mặt, cấp tốc luyện tập thuỷ bộ mười vạn tinh binh. Một mặt khẩn trương cho người đi khắp các thôn xóm động dân vi binh chuyển ngay về phía Nam phòng quân Chiêm Thành thừa lúc trong nước đang dồn quân lên phương Bắc mà tranh thủ sang quấy phá. Đàn ông trai tráng đã vét cạn kiệt. Trong đoàn dân binh chuyển về phía Nam đề phòng quân Chiêm Thành không thiếu những mái tóc đã bạc hay những chỏm tóc trái đào.
Đại binh thuỷ bộ rầm rập kéo lên phương Bắc. Mùa đông. Thái uý chỉ huy cánh quân vây hãm châu Khâm châu Liêm. Phó tướng Tông Đản vây đánh châu Ung trên đất nhà Tống. Vua Tống sai Đô Giám Quảng Tây là Trương Thủ Tiết mang quân đến cứu. Lý Thường Kiệt điều quân lên đón đánh ở cửa ái Côn Lôn, phá tan quân tiếp viện, chém Trương Thủ Tiết tại trận.
Thành Ung châu bị vi ròng rã bốn mươi ngày. Lương thảo cạn kiệt, quân Tống giết ngựa chiến để ăn thịt, vặt rơm cỏ cầm hơi, ngày đêm đỏ mắt trông đợi viện binh. Tri Ung châu là Tô Gíam là một kẻ trung thành, nghĩa khí, buộc mình và vợ con chịu đựng khổ sở cùng quân lính, bữa bữa cũng chỉ húp cháo thịt ngựa cầm hơi. Dân thành UNG châu thấy thế, không oán thán nữa, cắn răng cố thủ. Đến khi ngựa thị hết, quá nhiều người chết đói, quan lính bị dịch bệnh quá nửa, lại nghe tin cánh quân cứu viện của Trương Thủ Tiết dã bị tướng Giao Chỉ là Tông Đản đánh cho tan tác, quân dân trong thành kiệt hết nhuệ khí, không còn sức mà chống cự. Nghe tiếng loa mo cau của quân Giao Chỉ ngày đêm chõ vào thành gọi hàng, nhiều kẻ xáo động, bàn Tô Giám nên mở cổng thành để bảo toàn tính mạng.
Tô Giám ra đứng chắn trước cổng thành, cho người đi gọi vợ con quyến thuộc tất cả ba mươi sáu người đến. Lúc ấy quân Giao Chỉ đã cởi áo dồn đất buộc làm thành bao, chất lên cao ngất mà trèo vào mở cổng thành, tràn vào như nước vỡ bờ. Tô Giám biết thể đã cùng, quỳ xuống trước mặt vợ con xá ba xá:
– Xin nàng cùng các con tha tội. Thân nam nhi đứng trong trời đất, hưởng lộc vua ban mà lúc nguy nan không đền đáp được, chẳng còn mặt mũi nào nhìn thấy vầng ô kia nữa…!
Nói rồi, tự cầm kiếm bức gia thuộc ba mươi sáu người chết trước, chôn chung một hố rồi tự tay châm lưa đốt mình chết theo. Dân trong thành nhìn thấy cử chỉ ấy, hu hu khóc như khóc cha chết, liều mạng cố thủ. Cho đến lúc thành bị triệt hạ, quân và lính bị giết tới hơn năm vạn tám ngàn người. Cộng với số người nhà Tống bị giết ở cả ba châu đã tới hơn mười vạn người. Quân Giao Chỉ đã rút về nước rồi mà khắp mơi một giải đất giáp biên giới, dân Tống bỏ trắng đất đai nhà cửa mà tan tác chạy. Hàng chục dặm đường không nhìn thấy ánh lửa, không nghe thấy tiếng chó sủa mèo kêu.
Bị thua đau, Bính Thìn năm sau, vua Tống lại sai Tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Qùi làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân chín tướng hợp với Chiêm Thành, Chân Lạp sang nước ta để trả thù. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, bên sông Như Nguyệt chém hơn một nghìn đầu giặc. Quách Qùi phải lui quân.
Tháng Ba, Đinh Tỵ, lại đem binh sang đánh châu Khâm và châu Liêm nước Tống. Rồi mùa đông, tháng Chạp, tướng Tống là Triệu Tiết đưa quân sang xâm chiếm bờ cõi nước ta. Đánh đi đánh lại giằng co, không khuất được thì tha làm phúc, năm Kỷ Mùi, nhà Tống đành đem trả cho ta châu Quảng Yên dẫu rằng trước đó họ đã đổi tên thành Thuận Châu nhằm vĩnh viễn nhập vào đất Bắc. Để đáp lại, vua ta cũng sai người mang voi trắng, ngựa trắng sang dâng vua Tống, trả lại cho nhà Tống dân, lính bị bắt ở ba châu Ung, Khâm, Liêm. Vua Tống hài lòng, tháng Ba năm ngoái, sắc phong vua ta làm Nam Bình Vương.
… Lớp lớp quân sĩ diễu hành qua trước chân đài cao. “Thái hậu vạn vạn tuế! Hoàng thượng vạn vạn tuế!”. Đức Nhân Tông tươi cười, hả lòng đáp lại lời tung hô của các tướng sĩ. Ngài ngự nhìn sang bên, thấy Thái hậu cũng ngời ngợi niềm vui trên nét mặt.
Đoàn kỵ binh, tượng binh cuối cùng rầm rập diễu qua. Chiêng trống hoà trợ theo, tạo thêm cảnh tượng hùng tráng của buổi điểm quân.
Bỗng có tiếng ngựa hý, voi rống bất chợt vang lên phía cuối đoàn quân. Những con ngựa đang nhịp bước đều đặn đột ngột bị ghìm lại, tức tối tung hai vó lên trời, hí lên từng hồi.
Vua Nhân Tông cố nhướng mắt, vươn người để nhìn cho rõ.
Tả hữu văn võ đứng cả dậy, sửng sốt, giận dữ, cùng nhìn chằm chằm vào một hình thù trăng trắng đang cố sức vùng ra khỏi tay viên thống lĩnh ngự lâm lực lưỡng.
Con ngựa bị ghìm cương trước hai người càng lồng lên tức tối. Vó ngựa muốn giẫm nát kẻ trước mặt. Viên thống lĩnh sợ hãi buông lỏng tay, nhẩy dạt sang bên. Cái bóng trắng thừa cơ tháo thân, chạy vụt lên đài cao, đến trước mặt vua, quỳ mọp, hai tay giơ cao một mảnh lụa trắng thấm máu, rên xiết:
– Hoàng thượng! Oan ức quá!… Hoàng thượng!…
Bây giờ mới nhìn rõ, kẻ cả gan gây náo loạn đó là một thư sinh. Bộ áo sô gai không làm mờ được đôi mắt đang cháy rực trên gương mặt tuấn tú.
Cái thân hình nhàu nát đó là Từ Lộ.
Từ canh ba, Từ Lộ đã rời miếu cổ ven sông Tô, tay ấp chặt lá huyết thư vào ngực, lần đến cánh đồng Gỉang Võ nơi đức vua sẽ điểm binh. Chàng biết rằng việc mình định làm là vô cùng liều lĩnh, chiếu theo quân pháp có thể bị ghép vào tội chết tức thì. Nhưng nếu không nhân dịp này vượt qua mặt lũ tham quan ô lại được triều đình giao cho quyền cầm cân nẩy mực phán xử dân lành mà được tâu lên Thái hậu và Hoàng thượng nỗi oan khiên cùng cực của gia đình chàng, mong chờ lượng cửu trùng soi rõ cái chết oan ức của cha mẹ chàng thì dẫu có bị bêu đầu trên cọc nhọn, tứ mã phanh thây chàng cũng cam lòng.
Từ Lộ biết rằng từ thời Thái Tông hoàng đế anh minh, nhà vua đã xuống chiếu cho đúc một quả chuông tô treo ở sân Long Trì để thần dân thiên hạ ai có việc oan ức không bày tỏ được thì dến đánh chuông kêu oan. Có lần chính đức vua đã thân ngự ra xét xử. Nhờ thế, nhiều vụ oan khuất tày trời đã được minh định. Lũ tham quan ô lại bị trừng trị. Dân chúng phấn chấn, nức lòng ca ngợi ân đức cao xa, thương dân thương nước của Hoàng đế.
Nhưng đức vua thì có một mà nỗi oan khiên trong thiên hạ thì như rừng. Dần dần việc lớn việc nhỏ lại trở về Tam pháp ty và Đô hộ phủ ngục tụng tra xét, phán quyết. Quan Đô hộ phủ cho bốn tên lính cao to như bốn hộ pháp canh chùa đứng quanh quả chuông. Dùi chuông vẫn để đấy, chuông khiếu oan ngày đêm vẫn ngóng đợi tay người gõ nhưng đám dân đen oan khuất có bước được tới sân Long Trì thì vừa trông thấy lũ lính canh dữ dằn đã táng đởm kinh hồn, gan nào mà còn dám đụng đến dùi chuông. Qủa chuông kêu oan mưa nắng dãi dầu, dần dần hoen rỉ. Tiếng chuông thưa dần, ngài ngự trong cung thấy vắng tiếng chuông trong lòng lấy làm vui, nghĩ rằng phép công đã thấm đẫm xuống mọi dân đen con đỏ, thiên hạ yên bình, người người hoan lạc âu ca.
Từ ngày cha bị hại, mẹ chết oan ức khi có lệnh phán quyết của Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh, Từ Lộ không còn tin gì vào phép nước dưới bàn tay của lũ tham quan ô lại. Cũng đã nhiều làn chàng tự hỏi tại sao trước kia mình không thấy điều đó, và hiểu ra rằng những ngày mình sung sướng trong chăn êm nệm ấm, bữa bữa ngập mâm sơn hào hải vị, khi vui chơi thì xách cây đèn lồng nâng cây sáo Tiêu tương… thì làm sao có thể hiểu được nỗi khốn cùng của bàn dân thiên hạ.
Chàng biết rằng chỉ còn một cách, đợi ngày Dần tháng Tư sắp tới, Thái hậu cùng đức vua theo lệ hàng năm điểm quân ở cánh đồng Gỉang Võ tây bắc kinh thành, chàng sẽ liều mạng tới đó mong được bày tỏ nỗi oan khiên thấu trời trước mặt Thái hậu và Hoàng thượng anh minh.
– Tâu Thái hậu! Oan ức quá! Tâu Hoàng thượng!
Từ Lộ cố vặn mình dẫy dụa mong ra khỏi những cánh tay cứng như thép của mấy tên Ngự lâm quân để ngoài về phía đài cao.
Đã tạm yên tâm về tên nghịch tặc bị kìm chặt trong tay mấy tên lính ngự lâm quân lực lưỡng, quan Tả đô cấm vệ chỉ huy sứ lật đật chạy tới trước đài, quỳ mọp dưới chân vua, lạy như tế sao:
– Kẻ bề tôi ngu muội này vì sơ suất mà đắc tội làm kinh động đến Thái hậu và Hoàng thượng. Thật đáng tội chết!
Thái uý Lý Thường Kiệt nắm đốc gươm đeo bên người, cau mặt quát:
– Ta đã giao lệnh cho nhà ngươi, chốn võ trường phải phòng vệ nghiêm cẩn. Sao kẻ nghịch kia lại có thể len vào tới tận đây để khuấy động trước bệ rồng?
Quan Tả đô cấm vệ khúm núm dập đầu xuống đất:
– Dạ bẩm… Tên nghịch tặc này trà trộn trong đám người xem đứng điểm binh… Thấy hắn mặc đồ tang ai cũng nhường nhịn… Không ngờ hắn lại dám bạo gan liều mình cản đường voi ngựa làm kinh động ba quân. Xin quan Thái uý hãy lệnh cho quân sỹ chém ngay đầu hắn để làm gương trước dân chúng!…
– Hãy khoan…!
Tiếng quát uy nghiêm của đức vua cắt ngang lời quan Tả đô cấm vệ. Chung quanh im phắc chờ đợi.
Đức Nhân Tông nhìn xuống Từ Lộ đang bị mấy tên Ngự lâm quân giữ chặt tay chân dưới đài:
– Tên ngỗ ngược kia! Sao nhà ngươi dám to gan lớn mật gây náo loạn trong buổi điểm quân. Ngươi có biết như vậy là tội chém ngang lưng?
Từ Lộ nhân lúc các tên lính lỏng tay đón nghe lệnh của Nhà vua, chàng quỳ thụp xuống, hai tay dâng lá đơn viết bằng máu hướng lên phía Hoàng thượng:
– Bẩm, muôn tâu! Hạ dân biết tội này đáng chém. Nhưng trước khi chém đầu, xin Hoàng thượng gia ân, cứu xét việc phụ thần hạ dân này vì lòng trung trực mà bị kẻ cậy quyền cậy thế ám hại. Thân mẫu hạ dân ngậm miếng thác oan. Hạ dân nghĩ đó cũng là ý nguyện muôn đời của đấng Cửu trùng để giữ nghiêm kỷ cương phép nước. Lúc đó, hạ dân có chết cũng cam lòng.
Thái hậu nãy giờ vẫn lẳng lặng nhìn con người khăn sô áo trắng quỳ mọp dưới chân đài, bây giờ mới oai nghiêm lên tiêng:
– Hỗn xược! Tên dân đen càn rỡ không hiểu gì phép nước. Việc cứu xét án trạng, minh tỏ mọi nỗi oan khuất trong thiên hạ… dưới đã có các phủ các châu. Nơi kinh đô có Độ hộ phủ ngục tụng. Cao hơn nữa còn có Tam pháp ty… Nếu có quả có điều oan khuất tại sao ngươi không đến những nơi đó kêu trình mà lại dám đến đây cản đường điểm binh của quân sỹ. Cha ngươi, mẹ ngươi là những kẻ nào?
– Muôn tâu Thái hậu anh minh. Cha của hạ dân là Tăng đô án Từ Vinh, bị kẻ ác sát hại đêm Nguyên tiêu cách đây tròn ba tháng. Mẹ con hạ dân đã Đến đô hộ phủ ngục tụng kêu oan. Nhưng phán xét nơi cửa quan không được minh tường. Mẹ hạ dân phải chết trong oan khốc…!
Từ Lộ chưa dứt lời thì phía sai Thái hậu một người đã bước ngang ra. Người đó cúi gập áo bào trước mặt Thái hậu và Đức vua, rồi quay xuống chỉ vào mặt Từ Lộ quì dưới chân đầi:
– Muôn tâu Thái hậu. Muôn tâu Hoàng thượng! Kẻ ngỗ ngược kia là Từ Lộ con trai quan Tăng đô án Từ Vinh. Ba tháng trước, đêm Nguyên tiêu, quan Tăng đô án Từ Vinh đã vui chơi rượu say quá chén, trên đường về nhà hụt chân ngã xuống sông Tô mà chết. Mẹ con Từ Lộ không tin điều thật mà lại cho rằng chồng, cha mình bị người khác thù hằn ám hại. Mẹ con họ đã kiện cáo khắp nơi. Nhưng trời đất rõ tỏ. Công lý sáng bầy. Quan Đô hộ phủ ngục tục Trần Dĩnh đã đích thân mất nhiều công sức tra xét án này. Kết luận đã rõ ràng, khắp kinh thành người người đều công nhận. Thế mà tên Từ Lộ trẻ người non dạ kia vẫn không lấy thế làm yên, hôm nay lại còn dám đến tận nơi điểm quân này cản đường tướng sĩ, làm kinh động đến đức Thái hậu và Thánh thượng!
Thái hậu cau mặt. Rồi bất ngờ, bà quay lại phía sau, cất tiếng:
– Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh có đây? Truyền lệnh ta hỏi…
– Dạ bẩm… Có kẻ hạ thần!
Đô hộ phủ ngục tụng Trần Dĩnh từ phía sau lóp ngóp ngoi lên, quì mọp, vai so lại trước bệ rồng.
– Trần Dĩnh, có việc đó không?
Trần Dĩnh run rẩy:
– Muôn tâu Thái hậu. Muôn tâu Hoàng thượng. Dạ, có việc đó ạ!
– Đô hộ phủ, ngươi đã định việc thế nào?
Trần Dĩnh càng thất thần. Lưng gập lại mà vẫn cố lét nhìn lên nẹp áo bào đỏ của Diên Thành hầu. Bắt gặp nét mặt đe nẹt và cặp mắt lạnh lẽo của hầu, Trần Dĩnh thu mình, cố thu hết can đảm hồn vía trong người, lập cập tâu trình:
– Dạ, bẩm Thái hậu anh minh. Mẹ con nhà Tăng đô án bị khép tội vu cáo người ngay, làm náo động nhân tâm nơi kinh thành. Tội nặng đáng phải nghiêm trị. Nhưng xét công lao của Tăng đô án Từ Vinh trước đây, vả lại kẻ chết dẫu sao cũng đáng xót, nỗi đau của người sống dẫu sao cũng đáng thương nên chỉ cách xuống làm thứ dân, tịch biên toàn bộ gia sản.
Thái hậu gật đầu. Rồi bà quay trừng mắt quát Từ Lộ;
– Sự tra xét của quan Đô hộ phủ ngục tụng nghe vậy là có lý lại có tình. Kẻ học trò ngu muội kia! Ngươi còn gì để nói?
Diên Thành hầu lại vội quỳ xuống, tâu xen vào:
– Bẩm Thái hậu! Án của Đô hộ phủ ngục tụng ban ra, mọi người trong kinh thành đều hả dạ. Đều thấy rõ dưới thần oai sáng suốt của Thái hậu và Hoàng thượng, phép nước công minh, có uy có nhân. Muôn họ đều hết lòng ngợi ca… Thế mà bây giờ có kẻ nghịch tử ngông cuồng kia lại vẫn còn bạo gan làm rối bước ba quân, kinh động trước bệ rồng… Tội đáng chém ngang lưng. Xin Thái hậu ban lệnh để giữ nghiêm phép nước.
Thái hậu gật đầu:
– Các ngươi cứ theo phép nước mà thi hành. Nặng nhẹ đừng quá. Hãy nhớ, từng việc một, có con dân ở dưới theo dõi. Thôi, dọn kẻ này đi!
Nghe lời Thái hậu phán truyền, mấy tên ngự lâm quân xốc Từ Lộ dậy lôi đi xềnh xệch. Từ Lộ ngẩng mặt lên trời, kêu thống thiết:
– Từ Vinh cha ơi! Oan hồn người ở trên trời hay nơi địa ngục? Ngươi có nhìn thấu nỗi oan này không? Mẹ ơi! Hồn mẹ có thiêng, xin về chứng giám!
Tiếng kêu than của Từ Lộ vang thấu cõi trời. Dường như trời đang quang đãng bỗng tối sầm. Từ đôi mắt của Từ Lộ, đôi dòng máu chảy ra nhuộm đỏ cả khuôn mặt.
Trần Dĩnh bỗng rùng mình, đổ vật ra đất.
Ngồi bên Thái hậu, đức Nhân Tông thấy cảnh tang khốc, lại vốn tin vào các điềm lành dữ, nỗi từ bi hỷ xả của nhà Phật, ngài ngự giơ bàn tay ra phía trước, chậm rãi lên tiếng:
– Hãy khoan… Ta hỏi?
Lính ngự lâm vội ghìm Từ Lộ.
Nhân Tông:
– Tên học trò kia. Ngươi nói là cha ngươi bị kẻ ác dụng tâm hãm hại. Vậy ngươi có tang chứng gì không? Sao không đưa trình trước Đô hộ phủ?
– Dạ, bẩm tâu Hoàng thượng…!
Nghe đức vua hỏi, Từ Lộ rùng mình, lại khóc rống lên. Cổ họng chàng nghẹn tắc, không sao thốt được lên lời. Tang chứng ư? Chẳng lẽ lại dẫn ra được cái thây cha chàng dựng đứng trên sông Tô, ngón tay chỉ thẳng vào cửa nhà Diên Thành hầu. Chẳng lẽ lại có thể tâu lên đức Hoàng thượng cái khuôn mặt bầm máu và đôi mắt mở trừng trừng oan ức của cha trong những đêm hiện về báo mộng, kêu gọi mẹ con chàng phải trả thù?
– Oan ức lắm… Hoàng thượng!
Cuối cùng Từ Lộ một lần nữa chỉ biết kêu lên trước đấng Cửu trùng.
Đức Nhân Tông cau mày. Một niềm thương cảm thoáng hiện lên trông ánh mắt, khuôn mặt đức chăn dân.
– Thôi, tha cho kẻ học trò hồ đồ này. Trẻ người non dạ. Vả lại, nhà Tăng đô án Từ Vinh tang khốc như vậy là quá lắm rồi. Hãy lấy điều nhân nghĩa làm trọng.
Diên Thành hầu bầm mặt.
Linh Nhân Thái hậu đã đang suy nghĩ sang việc khác. Miệng bà mím chặt.
Nhân Tông phán truyền:
– Tha cho hắn! Trong ngày điểm binh, tối kỵ sát nhân gây rủi ro, làm nhụt lòng quân sĩ!
Trống lại điểm. Thanh la não bạt lại rộn ràng.
“Thánh thượng hồi cung!” Tiếng hô của quan Tả đô cấm vệ hùng dũng cất lên.
Thớt voi trắng được quản tượng điều tới, phủ phục trước đài cao.
Mảnh lụa viết bằng máu của Từ Lộ lảo đảo rơi xuống từ chín bậc Cửu trùng.
Từ Lộ bị lôi xềnh xệch ra khỏi đài cao, đẩy đổ gục xuống chân đám người nhốn nháo chen lấn. Trước khi ngất, Từ còn kịp thấy lớp lớp chân voi ngựa giẫm nát lá huyết đơn.
————————————-
Phần 6
… Ai cướp được con kén chày kình
Ấy thực nam sinh công hầu bá tước
Ai cướp được con kén mo dài
Ấy thực nữ tài cung phi hoàng hậu
Con con cháu cháu
Tử thịnh tôn đa…
Ngàn ngạt tiếng hát tiếng hú reo hò rộn rã khắp một vùng.
Dân Quí Vũ mở hội Chen và lễ Mở Cửa Rừng.
Tục truyền rằng thần núi Linh Sõn Đại Vương qua giấc ngủ dài mùa đông vươn vai thức dậy thì đã xuân. Đại Vương gạt tay mở cửa rừng chấm dứt cảnh xơ xác tiêu điều của hạ giới. Thế là mầm măng tua tủa mọc, chim chóc ra khỏi tổ, thú rời hang, dân làng nô nức vào rừng ngây ngất với sự hào phóng của thần núi.
Năm ngoái đói kém. Lúa nương nghẹn hạt. Người khắp nơi đổ về rừng bòn vét hết củ mài, đào cả củ nâu để sống cầm hơi. Có kẻ sa vực sâu, sập chân xuống hố đào đành nằm đó đợi làm mồi cho thú dữ, sâu bọ. Cuối thu vừa rồi dân làng còn nhặt được xác một ông già hai cánh tay khô đét ôm chặt nhánh rễ củ nâu, hàm răng vẫn cắn ngập qua lần vỏ củ. Mọi người kháo nhau là xác không tiêu được vì ông già ăn nhiều củ nâu quá, máu nghẽn lại trong người, thân hình dẹt đét như được bọc một lớp nhựa chát xít, khô cong.
Cũng từ hôm ông già chết, đêm đêm phía bìa rừng cứ văng vẳng tiếng đàn ông khóc gọi hồn. Tiếng khóc hú như gọi thêm người chết đói đổ xuống. Dân làng trách nhau rằng đầu năm đã mở lễ hội sơ sài, lễ dâng lên Linh Sơn Đại Vương quá mọn. Tổ tiên người Quí Vũ đã dặn lại con cháu, mức hào phóng của Linh Sơn Đại Vương tuỳ thuộc vào sự đông đúc của hội Chen trong những ngày mở cửa rừng. Năm nào già trẻ trai gái cật lực chen vai thích cánh thì cửa rừng sẽ mở rộng hơn. Mùa màng tươi tốt. Muông thú đầy rừng. Măng củ kín mặt đất. Đàn bà sinh con đẻ cái đầy nhà. Trận chiến liên miên nối nhau đời này qua đời khác cướp đi quá nửa trai tráng trong làng. Nhà nào đẻ lắm con trai thì triều đình sẽ ân thưởng. Hội Chen năm nay đông vui hơn mọi năm…
Gà gáy canh năm, già trẻ trai gái đã đến kéo kín bãi cỏ trước rừng. Những lá cờ đã được dựng lên từ lúc nào đang vẫy vùng trước gió. Vang tiếng rống nghẹn ngào ngào của lũ trâu rừng đang vồ đập trán dao chọc cổ. Mùi thịt thơm lừng trên đống lửa than đỏ rực. Những tảng thịt trâu nướng máu vẫn còn ứa huyết hồng đặt trên lá chuối rừng trước bệ thờ Linh Sơn Đại Vương. Lát nữa, Đại Vương thụ lễ, rồi thịt sẽ được xẻ thành tảng xâu dây mây phân phát đều cho bách tính dự hội. Từng cặp nam nữ cầm miếng làm phép. Đợi lúc trời sập tối, các đôi nam nữ dắt tay nhau tản vào rừng. Những đứa trẻ sinh ra từ những cuộc ân ái trong đêm Chen sẽ được dân làng tôn sùng, góp công nuôi nấng và gọi là con của Linh Sơn Đại Vương.
Điệu múa Gà Phủ mở đầu lễ hội. Một người đàn ông cởi trần đóng khố đầu gối bôi phẩm đỏ, cánh tay nổi cuộn giơ cao chiêng tấu lên âm thanh rộn ràng. Một người đàn bà tóc búi xoè ra như đuôi công ngực che miếng vải nâu nhỏ nửa thân dưới là chiếc váy kết bằng lông chim đủ màu sặc sỡ tay cầm mõ tre hoà cùng tiếng chiêng. Cùng nhảy múa với họ là cặp ông bà già được dân làng chọn trong đám những người già đông con nhiều cháu, con cháu khoẻ mạnh cường tráng nhất vùng. Ông già cũng đóng khố cởi trần. Bà già cũng mảnh vải cũn cỡn che ngực, váy lông chim. Chỉ có khác, mảnh vải che ngực của bà lão dệt bằng sợi gai nhuộm màu hường, phía dưới lủng lẳng những quả chuông đồng nhỏ. Ông già tay cầm một chiếc chày lớn đẽo bằng gỗ nghiến già chuốt màu nâu bóng tạc theo hình dương vật người nam. Bà già cầm một mo cau quét vôi trắng uốn công cong theo hình âm vật người nữ.
Chung quanh ông bà già và cặp người đánh chiêng gõ mõ là những vòng trai gái chen nhau. Trai khố vải ngực trần tay cầm gậy ngắn. Nữ yếm ngắn che ngực váy kết lá sồi. Tiếng chiêng rộn ràng. Tiếng mõ trầm ấm như lửa than. Trống cái thì thùng điểm nhịp. Hai người đàn ông đàn bà đánh chiêng gõ mõ vừa khom người vừa đi giật lùi, mỗi bước đi như mỗi lời mời mọc thúc gọi. Ông già bà già nhún nhẩy đuổi theo nhịp chiêng nhịp mõ. Mỗi khi tiếng trống “Tùng…!”, ông già lại cất tiếng hú lên những tiếng hú dài. Theo với tiếng hú, ông già bà già tiến lại gần nhau. Bà già giơ mo cau dứ dứ. Ông già miệng hú mình gồng tay đưa chày gỗ day day vào giữa mo cau. Hai người già nhún nhẩy tiến lên lùi xuống nhịp nhàng trong tiếng hú mênh mang thăm thẳm như vọng từ rừng sâu và tiếng chiêng mõ rộn ràng mà chày, mo vẫn không dời nhau. Mỗi lần chày gỗ chạm mo cau, vòng người chung quanh lại chao đảo, vai nam hích vai nữ, ngực nữ chạm ngực nam, miệng cất thành tiếng “Vào nõ bạc. Ra nõ vàng… Hú hời… Hú hợ…!”. Rồi từng đôi trai gái tách riêng, vẫn theo nhịp chiêng mõ trống điểm thì thùng mà múa như những cặp gà trống mái vờn nhau. Thỉnh thoảng bên nam lại nhẩy dựng lên miệng hú khẽ. Nữ khom mình chúm miệng hoà theo. Âm vang lách cách đầu gậy. Ràn rạt váy lá sồi… Quanh họ là lũ trẻ tóc trái đào chen lấn cùng các cô bé vừa làm lễ rửa ngực đeo yếm. Những chàng trai chưa vợ tìm cách len đến gần các cô gái thanh tân mà chàng ta để mắt từ lâu. Còn lớp người lớn tuổi thì vừa xem hội vừa mắt trước mắt sau đợi lúc vào tục Cướp Kén. Đó là là lúc tiếng chiêng tiếng mõ dứt và trống cái giật lên một hồi dài. Khắp bãi hội xô về phía ông già bà già. Người nào nhanh tay nhanh mắt cướp được chày gỗ nghiến, mo cau cong thì họ hàng làng xóm cũng được may lây suốt năm. Trâu bò lợn gà một sinh mười. Thóc gạo đầy nhà. Đàn bà tốt nái sinh nở bầy con Sơn Thần khoẻ mạnh. Cả họ giết trâu bò lợn gà mở tiệc ăn mừng.
Bãi rộng phía tây sát cửa rừng cũng một đám đông xúm đen xúm đỏ. Trò bắt chạch trong chum dành cho những đôi trai gái đã sẵn có tình ý. Những con chạch to tầy cổ tay được thả vào quẫy lộn trong chum đầy nước. Đôi trai gái đứng đối diện qua miệng chum, tay phải nắm chéo nhau giơ lên trời, thân khom, cùng thò tay trái vào chum quờ bắt lũ chạch trơn nhẫy. Phải hai tay hai người nắm vào một con chạch mới là thắng cuộc. Tiếng reo hò tán thưởng vang ầm. Đôi trai gái đó được quyền tay trong tay dắt nhau vào rừng hợp hoan thành vợ chồng ăn đời ở kiếp.
Tiếng người xôn xao trong đám bắt chạch chợt lắng. Xuất hiện trước mặt họ một đôi trai gái. Cô gái chừng đôi tám thân dong dỏng, cặp vai xuôi mượt, hai gò má cao ánh một lớp măng tơ như làn sương phủ. Môi trầu đỏ thắm. Hai mắt mở to trong veo như mắt bê con… Cô là con gái yêu của vị tộc trưởng danh giá nhất vùng mà người dân Quí Vũ ai cũng nể trọng. Chàng trai nắm tay cô gái có thân hình chắc như cây lim. Mày thô mắt sáng. Cái nhìn âu yếm. Mọi người nhận ra ngay chàng thợ săn tài ba dũng cảm nhất trong vùng. Tay trong tay đôi trai gái sóng bước tới bên chum chạch. Ánhs mắt nhìn nhau âu yếm rạng ngời. Tiếng mõ điểm đến nhịp năm, đôi cánh tay đã giơ lên cao. Một chú chạch lớn rối rít quẫy chiếc đuôi vàng khươm ròng ròng nước. Đám đông vây quanh reo hò ầm ĩ.
Chú chạch lại được thả xuống chum. Cô gái xoay thân kiễng chân xoè bàn tay ra trước mắt như để ngắm nghía những ngón tay thon thả lấp lánh nước mà những tia mặt trời cuối cùng trong ngày đang làm loé lên những vầng ngũ sắc trong giây lát rồi mới âu yếm nắm lấy bàn tay người yêu đang chìa trước mặt.
Nhưng cô gái giật bắn người. Thay cho bàn tay rắn chắc khoẻ mạnh quen thuộc của người yêu thì lại là một bàn tay thô rám, ngón tay sần sùi với những chiếc lông thô cứng như lông lợn lòi chợt nắm chặt tay cô. Cô gái ngước mắt nhìn lên. Kề sát mặt cô là một chiếc trán dô với đôi chùm lông mày bạc trắng rủ xuống phủ gần kín cặp mắt đỏ cười cợt. Một cái miệng với cặp môi dầy thưỡn ra trong một nụ cười đắc ý ướt đẫm nhục dục. Cô gái thét lên. Đó là gương mặt của pháp sư Đại Điên, người mà dân chúng khắp vùng Kinh Bắc này vưa vâng phục vừa kinh sợ. Dưới chân pháp sư, chàng thợ săn nằm bất tỉnh.
Đám đông há mồm kinh sợ. Tiếng kêu bị giam chặt trong những đôi hàm đã khoá cứng. Pháp sư Đại Điên ngửa mặt lên trời cười sằng sặc. Chiếc túi da vằn vện vẽ hình âm dương đeo trước ngực nẩy lên nẩy xuống theo nhịp rung của khuôn bụng béo mỡ. Chỉ một động tay, pháp sư nắm chặt ngang lưng cô gái. Cô vùng vẫy, nghiến răng cắn chặt vào bàn tay lông lá và rít lên những tiếng khiếp hãi của một con thú nhỏ. Pháp sư điềm tĩnh mở túi da thò hai ngón tay kẹp lấy một chiếc trâm bạc có gắn viên minh châu óng ánh to như hạt sen xanh. Vẫn cười nhếch miệng, pháp sư vuốt nhẹ gò má mịn màng của cô gái trẻ rồi thong thả gài trâm lên ngực yếm tơ hoa đào, nơi phập phồng đôi gò nhũ hoa như đôi chim kinh sợ đang vùng vẫy tìm cách thoát khỏi giam hãm.
Dưới chân pháp sư, chàng thợ săn hồi tỉnh. Chàng chống hai tay toan gắng gượng ngồi dậy. Khônng hề nhìn xuống, Đại Điên hướng lòng bàn tay xuống đất. Chàng trai lại gục xuống như chết.
Đại Điên lôi xềnh xệch con gái tù trưởng vọt qua đám người đang ngơ ngác. Một tay đỡ eo lưng cô, một tay thiền trượng, pháp sư hướng về phía cửa rừng đi như lướt.
Mặt trời dần chìm vế phía tây. Bóng âm u đổ xuống thảm cỏ mịn đang nhuộm màu sẫm tối. Tiếng xao xác cuả đàn chim rừng bay về tổ xáo động không trung. Xa hơn, thẳm sâu trong rừng, hồi gầm của những chúa sơn lâm tỉnh giấc ngày, bắt đầu vào cuộc kiếm mồi trong đêm tối.
Đại Điên đến sát cửa rừng. Cô gái như cái xác không hồn dựa oặt vào bên vai pháp sư. Còn vài bước, chừng như không thể kìm nén được nữa, Đại Điên rên khẽ một tiếng, bế xốc cô gái lên tay. Những dẻ lá gồi, lông chim từ tấm váy ngắn của cô gái lả tả rụng xuống theo đôi chân gấp gáp của pháp sư.
Chiều sẫm hẳn.
Đại Điên quay sang, cúi xuống nhìn vào khuôn mặt đờ đẫn như người trong cơn mê ngủ cuả cô gái, thẳng tay ném cây thiền trượng cắm ngập xuống thảm cỏ. Mấy ngón tay gấu lẩy bẩy cởi nút ngực áo…
Bỗng nhiên người cô gái khẽ giật lên. Rồi cái thân thể mềm mại đó chuồi khỏi cánh tay pháp sư, đổ xuống đám cỏ vừa bị xéo nát như đang rỉ nhựa. Đại Điên ngạc nhiên trừng mắt nhìn lại. Trên khoé miệng cô gái, một dòng máu đỏ ứa ra chảy dài xuống cổ. Cô gái đã cắn lưỡi tự vẫn…
– Hừ… Con ma ranh này!
Đại Điên chửi gằn. Một chân đạp lên bộ ngực trinh bạch của cô gái. Nhưng ngay lập tức pháp sư đứng thẳng dậy. Một điều gì đó ở phía trước khiến ông ta chợn rợn cau mày. Trong bóng đêm mịt mùng đang trùm lên cánh rừng, một ngọn đuốc nhựa trám vừa thắp lên soi quầng sáng quanh gốc đinh cổ thụ. Dưới quầng sáng, bên gốc cây, một bóng người đứng đó, cặp mắt trừng trừng nhìn thẳng về phía Đại Điên.
Đại Điên “hử” khẽ một tiếng trong miệng. Pháp sư đã nhận ra kẻ táo tợn. Đó là Từ Lộ, con trai của Tăng đô án Từ Vinhđã bị ông ta sát hại trong đêm Nguyên tiêu.
*
**
Cách đây hai tháng, trong miếu hoang thổ thần bên bờ sông Nhuệ, Từ Lộ ngồi lặng trước dải lụa rách nát vì bao vết chân voi chân ngựa chân người giẫm đạp. Những hàng chữ viết bằng máu đỏ trên dãi lụa chứa nỗi oan khuất ngút trời của gia đình chàng giờ đã khô đen bê bết bùn đất. Chàng nghe tiếng những bước chân của Nhuệ Anh mỗi lúc mỗi xa dần. Cả tiếng nức nở nghẹn uất của cô gái. Có bàn tay phũ phàng giật mạnh quả tim trong lồng ngực Từ Lộ. Cảm giác đau đớn nhục thê, trống rỗng xâm chiếm trong Từ. Sợi dây cuối cùng nối chàng với cõi đời đã đứt.
Chao ôi, trước đây chàng đã tin tưởng biết bao vào công lý, vào trật tự kỷ luật của triều đình, vào lẽ phải và từ tâm của con người. Tiếng tiêu của chàng đã bao lần hòa giọng ca tụng công đức của đấng minh quân vời vợi trời cao. Vậy mà giờ đây vẻ thờ ơ của Đức hoàng thượng và của Đức Ỷ Lan Thái hậu đã như nhát gươm xóc thẳng vào ngực chàng. Những bàn tay đang được thần dân ngưỡng vọng như thần thành nay đã phũ phàng ném mảnh lụa thấm đầy máu và nước mắt của mẹ con chàng xuống chân voi vó ngựa. Từ nhớ lại lúc thân mình bị kẹp chặt giữa những cánh tay sắt cuả bầy đao phủ, đao kề cổ, ngực chàng vẫn như vỡ ra mỗi khi bước chân của bầy ngựa voi giẫm lên ngực bức huyết đơn. Những vó sắt ngàn cân đó đang giẫm lên ngực Từ, vùi chôn mãi mãi những tiếng kêu oan khuất của mẹ con Từ cũng như những bàn dân thấp cổ bé họng bị dồn vào đường cùng như mẹ con chàng. Trong lòng Từ Lộ, trong chàng thư sinh hào hoa đang bơi lội trong hạnh phúc yêu đương và tiếng tiêu làm mê đắm cả kinh thành trước đây, giờ chỉ còn tiếng gào thét trả thù. Chàng đã tin vào lòng từ ái. Nhưng lòng từ ái đã bị cái ác giầy xéo. Chàng đã tin vào công lý. Nhưng công lý đã bị che khuất bởi manh tâm, bàn tay nhơ bẩn của Diên Thành hầu và biết bao tham quan ô lại…
Quanh miếu thổ thần, dật dờ những oan hồn. Từ trò chuyện với những hồn ma. Hồn mặc áo trắng và xoã tóc là hồn của những goá phụ bên nách cắp con. Những hài nhi chết yểu vì tên bay đạn lạc, thiếu sữa, đói khát. Những hồn áo nâu với hộp xương sọ phô màu xám xỉn là hồn của những chiến binh ra đi từ đồng ruộng, và nhanh chóng phơi thây nơi chiến địa.
Vô số là hồn không rõ hình hài, chỉ thấy mảnh lá chuối bó quanh che thân rít lên phần phật trong gió lạnh sởn xương sống… Trên mỗi đoạn xương cẳng tay gày guộc đội một tờ đơn. Những hồn oan khuất không chết vì tên bay đạn lạc và vì nghèo đói rách nát, không phơi thây nơi chiến địa, chỉ chết vì không chờ đợi nổi công lý. Từ như thấy thấp thoáng trong đám cô hồn đó có bộ xương trắng với những bước đi uyển chuyển của mẹ chàng. Bà đang đứng. Bà bước tới một dòng sông nước đầy ắp đỏ ngầu như máu đọng. Bà đưa tay ra. Có ai đó như Từ Vinh cha chàng đang đứng bên kia bờ sông máu. Tiếng khóc của cha, tiếng hờ oan của mẹ văng vẳng đâu đây quanh miếu thổ thần… Từ đứng dậy đẩy cửa miếu, lao vào bóng đêm bên ngoài.
Đó cũng là đêm kinh thành Thăng Long rực rỡ đèn hoa cờ xí. Ngày này cách đây vừa một giáp, trên sông Như Nguyệt, Thái uý Lý Thường Kiệt đánh tan đạo quân Tống do Chiêu thảo sứ Qúach Quì thống lĩnh, lấy lại được châu Quảng Yên. Mười hai năm đã qua, cùng với niềm mừng vui chiến thắng, nỗi đau đã dần khép miệng. Những người mẹ mất con, vợ mất chồng cũng khô nước mắt. Nước mắt lặn vào bên trong, chỉ đêm đêm thầm chắt rỉ ra trên giường chiếu lạnh, trong căn nhà trống vắng. Những đứa trẻ mồ côi đã có đủ thời giờ trở thành trai tráng. Và như những người bố bỏ mạng nơi trận địa, những đứa trẻ lại mong ước được đến ngày trở thành chiến binh…
Đèn lồng, đuốc sáng uốn lượn toả lập lờ dọc bờ sông Nhuệ, sông Tô. Người người lớp lớp trẩy đi. Tiếng cười nói râm ran. Thì thùng trống điểm đám thi vật, đám múa lân múa rồng. Trẻ nhỏ từng đàn hò reo chạy đuổi dọc bờ sông, chơi trò rồng rắn trước sân đình chùa, vỗ tay lanh lảnh cất tiếng hát lên khúc đồng dao mới:
“Nam quốc sơn hà…
Nam đế cư.
… định phận tại
thiên thư…”
Từ Lộ tránh vùng sáng, cứ nhằm nơi tối đen không có tiếng người mà bước tới.
Trang trại của quan Tăng đô án Từ Vinh cha chàng trước đây đã thuộc về tay Diên Thành hầu đang thiêm thiếp trong bóng đêm dày đặc, không biết gì đến nỗi bể dâu của mà chủ cũ của nó vừa trải qua. Chiếc đèn lồng tám mặt từ đời tổ tiên của chàng để lại cứ đến giờ dậu mỗi ngày được gia nhân đốt lên hắt ra tám hướng ánh sáng vàng sang cả thì nay vẫn được treo ở đó. Nhưng tám mặt đèn nay dường như chỉ để rọi sáng cho một tấm biển sơn son thiếp vàng rực rỡ với hai chữ “Hý viện” được viết bằng chữ thảo bay bướm.
Diên Thành hầu đã biến trang trại yên tĩnh nho nhã vào bậc nhất kinh thành này thành kỹ viện. Và kia, đôi đèn treo trên hai cột cổng hàng đêm đón khách đến mua vui lại chính là đôi đèn Mỹ nhân và Tiêu tương mà chàng và Nhuệ Anh đã tìm nhau theo anh sáng lung linh và say đắm bày tỏ tình yêu trong đêm Nguyên tiêu.
Đã qua giờ tý tám khắc. Đêm hội đã lắng dần trên kinh thành. Bên trong kỹ viện, đám kỹ nữ và khách làng chơi hẳn đã buông rèm ngủ yên. Từ Lộ nín thở rón rén bước lại gần hàng rào. Chàng chợt nghe tiếng ngựa hý ở dẫy nhà hướng nam trước đây cha mẹ chàng đã đặt bàn thờ tổ tiên. Chàng đã hiểu dã tâm của Diên Thành hầu. Kẻ thù đã y theo kế của pháp sư Đại Điên biến nơi thiêng liêng nhất trong khu dinh cơ này thành tầu ngựa để triệt mạch phúc của dòng họ Từ.
Từ Lộ chợt giật thót mình khi nhận ra một bóng người không hiểu đã lặng lẽ đến bên chàng từ lúc nào. Chàng chưa kịp phản ứng thì bóng người đã giơ bàn tay lên làm hiệu im lặng. “Tiểu công tử!”. Chàng nghe tiếng thì thào và nhận ra ngay đó là lão Ngô, người lão bộc trung thành đã hầu hạ trong nhà từ khi chàng chưa ra đời. Từ chưa kịp nói gì thì lão Ngô đã nắm lấy hai bàn tay lạnh giá của chàng:
– Tiểu chủ… chớ đến đây! Nguy lắm… Diên Thành hầu vẫn cho người di rình tìm tiểu chủ khắp kinh thành…!
Từ Lộ nấc lên, vịn vào vai lão bộc:
– Nhà ta… lại thành nơi như thế này ư, lão Ngô…?
Người lão bộc nghẹn ngào nức nở, bật ra những tiếng kêu khẽ đứt quãng:
– Đau đớn… lắm… tiểu chủ ơi…!
– … Sao lại ở đây… lúc này…?
Từ Lộ nhẹ giọng cố làm cho lão bộc trấn tĩnh lại.
– Tiểu chủ… Từ ngày đó đến nay không đêm nào kẻ vô dụng này có thể đặt mình ngủ trọn. Đêm nào cũng ra đây… Mà phải chờ đến canh này… người trong nhà đã yên ngủ cả… Kẻ này biết thế nào cũng có lúc tiểu chủ tìm trở về.
Từ Lộ nghiến răng bóp chặt hai vai lão bộc:
– Thế còn… bọn chúng… Diên Thành hầu, Đại Điên ra sao?
– Diên Thanh hầu tháp tùng xa giá lên khao quân của Thái uý Lý Thường Kiệt mừng chiến thắng trên sông Như Nguyệt. Còn Đại Điên là kẻ giang hồ. Cữ này lão vác thiền trượng khoác áo cà sa đi rong chơi. Rượu ngon, gái đẹp, trống cờ mở hội đâu vui là có lão…
Lặng im. Đến mức nghe rõ cả tiếng gió chạy lạt sạt trên hai hàng cau trổ lá xum xuê bên đường trước cổng khu dinh thự. Từ Lộ hỏi như trong cơn mê:
– Thế còn…
– Dạ… Thưa tiểu chủ… Bài vị thờ quan ông quan bà kẻ này vẫn cất giấu vào nơi tin cẩn. Đầu kẻ nô bộc này dẫu có rơi, máu kẻ nô bộc này dẫu có chảy thì khí vật thiêng liêng đó cũng không thể mất vào tay kẻ ác…
– Ta ơn lão suốt đời. Nhưng này… Bây giờ lão hãy trao lại vật thiêng đó cho ta…
– Trời… Tiểu chủ giữ bài vị của quan ông quan bà làm gì trong lúc này… Tiểu chủ còn đang phải lẩn tránh
– Lão Ngô… hãy nghe lời ta… – Từ Lộ toan nói tiếp. Nhưng chàng chợt đưa tay ngăn lão bộc lại – Lão chờ ta một chút… Ta vào trong này…
– Ơ kìa… Tiểu chủ… – Lão bộc sợ hãi kêu lên – Coi chừng hại đến tính mạng.
Từ Lộ như không nghe thấy tiếng lão Ngô. Chàng nhẩy qua hàng rào vào vườn. Tránh chỗ có ánh đèn sáng, Từ bò về phía gian từ đường trước đây và bây giờ là tầu nhốt ngựa. Đầu hồi khóm hoàng trúc do chính tay Từ Vinh cha chàng xin được mầm non trổ vào mùa xuân từ vườn ngự uyển của đức vua mang về trồng vào đúng ngày mẹ trở dạ sinh ra chàng. Mười tám năm qua, mầm trúc mảnh mai giờ đã thành khóm trúc rậm rạp, thân vàng óng vươn cao. Từ bước nhẹ đến bên khóm trúc. Chàng cúi xuống, lần tìm một thân trúc vừa tầm khẩu tay. Thân trúc lung lay. Lá trúc rung chuyển sương đêm ào ạt trút xuống ướt đẫm hai vai áo. “Lạy cha… Lạy mẹ… Lạy vong linh tổ tiên họ Từ… xin cha xin mẹ hãy về phù hộ cho con trả mối thù này…!” Từ Lộ cúi xuống về phía từ đường dòng họ, miệng lẩm bẩm khấn. Kỳ lạ…! Cùng với lời khấn nguyện của Từ, một ngọn gió lạnh buốt dấy lên. Những vòm lá trúc trên đầu chàng lại im phắc. Và thân trúc trong tay chàng buột ra khỏi bộ rễ bền chặt nhằng nhịt dưới đất, như tự chuồi lên nằm gọn trong tay Từ.
Từ đã trở lại bên lão bộc:
– Lão cứ trao bài vị cho ta…
– Nhưng…
– Đừng nói gì nữa, lão Ngô…
Từ Lộ vội ngưng lời. Trước mặt chàng, những ngọn đuốc đỏ dọc vừa bất chợt đốt lên trong trang trại. Tiếng người huyên náo. Trên chòi gác, tù và gấp gáp rúc lên.
– Bọn chúng biết… Lộ rồi… Tiểu chủ chạy đi…!
Lão bộc hốt hoảng đẩy vai Từ Lộ.
– Lão mau đi cùng ta!
– Không được… Tiểu chủ trốn chạy đi… Hướng này…!
– Lão Ngô…!
Nhưng lão bộc đã dang tay đẩy mạnh chàng về phía bờ sông Tô. Còn lão lại vùng lên nhằm ngay hướng chuồng ngựa của hý viện và khuệch khoạng chạy.
“Bắt…! Có kẻ gian đột nhập trại…!”. Tiếng người la hét. Thêm nhiều đuốc sáng. Chân người rinh rịch chạy. Gươm đao loảng xoảng. Hai cánh cổng trang trại rền rĩ mở ra.
Từ Lộ cứ nhằm bóng tối trước mặt mà chạy lao đi.
“… Có kẻ trộm ngựa…! Trộm ngựa!…”. Phía sau Từ Lộ, nơi trang trại nhà chàng khi trước lại vang lên những tiếng thét hốt hoảng. Đột ngột, không gian lại như bị vỡ ra thành muôn mảnh bởi tiếng vó ngựa từng đàn hốt hoảng chạy lồng lên trong bóng đêm.
Từ Lộ thu mình đứng nép bên gốc duối bên đường. Những con ngựa cao lớn lực lưỡng cất tiếng hý vang nối nhau phóng rầm rập vụt qua trước mặt chàng. Tiếng đập trong lồng ngực Từ Lộ cũng chợt như dừng đứng lại. Chàng hiểu. Ngưòi lão bộc trung thành đã liều thân tháo then chuồng thả đàn ngựa ra để đánh lạc hướng lũ gia nhân nhà Diên Thành hầu cho chàng chạy thoát. Chờ cho tiếng vó ngựa lắng, ánh đuốc và tiếng người hò hét đuổi theo bầy ngựa xa dần, Từ Lộ ôm gốc cây ngồi thụp xuống giọng thầm thì nghẹn tắc trong cổ họng:
– Cha ơi… mẹ ơi…! Đêm này là đêm cuối cùng hèn nhát của đứa con đớn hèn mang tên Từ Lộ do cha mẹ sinh ra. Con xin tạ tội trước vong linh… Ta tạ lỗi với lão Ngô vì sự hèn yếu, mù quáng của ta trước đây.
Chàng đứng bật dậy, ngửa mặt lên trời, nghiến răng:
– Ta… ta sẽ trả thù…! Trả thù!
Qua bao ngày tìm kiếm, hôm nay Từ Lộ đến đất Quí Vũ. Trong tay chàng là cây gậy nhổ lên từ khóm trúc bên đầu hồi từ đường dòng họ. Cây gậy trúc mà giờ đây Từ Lộ mỗi lúc mỗi cảm thấy nặng chĩu anh linh, vong hồn của cha mẹ chàng. Lần tìm tung tích Đại Điên ở tất cả những nơi mà chàng nghe thấy đang mở hội. Và ở hội Chen này, chàng gặp pháp sư Đại Điên.
Đại Điên nhìn chàng trai trẻ. Nét mặt không hề thay đổi. Cái nhìn như ánh mắt một con mèo già uể oải thừa mứa vờn quanh một chú chuột nhỏ bé non nớt. Pháp sư cất cái giọng rè rề lười biếng giễu cợt:
– Chú mày cũng thích cái hội mở rừng với trò cướp kén bắt trạch này ư?
Từ Lộ hết nhìn Đại Điên đứng ngạo nghễ trước mặt chàng, lại nhìn xuống xác cô gái nằm dưới đất. Dòng máu vẫn rỉ chảy trên khoé mép. Chiếc yếm che ngực lúc nãy bị gió rừng thổi lật tung, cành trâm bạch cẩn minh châu ngời ánh ma trơi trên cỏ.
Không nói một lời, Từ sấn tới.
Đại Điên vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Thậm chí lão pháp sư không thèm đụng đến cây thiền trượng đang run rẩy trên thảm cỏ ngay bên chân lão. Chỉ đến khi Từ Lộ còn cách lão chừng hai bước chân, Đại Điên làm bộ uể oải giơ một bàn tay lên, xoè ra trước mặt quát: “Dừng!”
Cùng với tiếng quát của pháp sư, như có một sợi dây thừng dằng Từ Lộ sững lại. Cẳng chân nặng như đeo chì. Từ nhoai người cố bứt ra khỏi các sức vô hình mà khủng khiếp như ngàn cân mỗi lúc một đè nặng lên hai vai. Nhưng người chàng cứ muốn rũ lả xuống. Đại Điên cười khà khà, đưa tay rút cây thiền trượng lên khỏi mặt đất. Thong thả buộc mấy cái nút áo vừa cởi, Đại Điên quay người đủng đỉnh bước đi như không hề để ý đến chàng thanh niên đang đứng sững bất lực mặt mày xám xanh vì uất ức.
Cùng với bước chân quay di của Đại Điên, cái sức nặng vô hình mà khủng khiếp cũng như đột ngột cất khỏi hai vai, khỏi thân thể Từ Lộ. Từ rùng mình. Chàng mím miệng hít một hơi dài, nắm chặt lại cây gây trúc. Tay vung gậy lên cao, nhẩy ba bước dài, Từ đến sát sau lưng Đại Điên. Gậy trúc nhằm thẳng đỉnh đầu bóng loáng của Đại Điên bổ xuống.
Đại Điên vẫn đủng đỉnh bước một đi về phía những tảng thịt trâu nướng thơm phức trong miếu Sơn thần.
Gậy trúc trong tay Từ Lộ sắp bổ xuống thóp đầu trọc của pháp sư thì bỗng như có bàn tay người từ trên cao thò xuống giữ đầu gậy lại. Cũng từ trên thinh không, một giọng nói như ghé sát vào tai Từ thầm thì mà chàng nhận ngay ra đó là giọng nói của cha chàng: “Chớ…! Chớ…! Giết hổ phải cần hùng. Đại Điên có phép lục thông. Con ta chưa đủ sức”. Cây gậy trúc như tự quay đầu lại, và thoắt cái lại trở về nằm gọn trong tay Từ Lộ.
Khi đó Đại Điên mới đủng đỉnh quay nhìn lại. Đôi mắt của hắn rờn rờn ánh mắt thôi miên như mắt cọp trong đêm. Bắt gặp vẻ ngơ ngác thảng thốt của Từ Lộ, Đại Điên cười lớn:
– Ta có lời nguyền. Khi nào buộc phải giết người thì mỗi ngày chỉ giết một mạng. Ngày hôm nay đã đủ một đứa rồi – Pháp sư giơ đầu cây thiền trượng chỉ vào xác cô gái nằm trong vũng máu – Vậy ta tha cho mi… Con chách trấu bé nhỏ tội nghiệp!
Nói rồi, Đại Điên đặt thiền trượng lên vai, xốc lại áo chùng, ngửa cổ nhìn vọng lên trời đêm, cất một tràng cười buốt óc…
Trước cửa rừng Quí Vũ đêm hội Chen đến phần vui vẻ huyên náo nhất. Trò Cướp Kén. Trống vẫn thì thùng điểm nhịp. Chiêng vẫn dóng dả vang vang. Mõ vẫn trầm trầm chen tiếng. Những đôi trai gái đã ăn ý cùng nhau bây giờ tản ra, tay nắm tay tiến vào trong bóng tối âm u của rừng. Cánh rừng già thở hổn hển dưới trời sao và những dải sương trắng chăng ngang.
Năm ấy, nhiều đứa trẻ ra đời sau chín tháng mười ngày trên đất Quí Vũ sau đêm hội Chen không có vẻ gì là con cái của Sơn Thần. Những đứa trẻ từ lúc lọt lòng mẹ đã có vầng trán dô, đôi mày dài và cặp mắt đỏ nhìn lâu không chớp.
V.T.H