Hư cấu về/và Sự thật- Đoàn Ánh Dương

Tôi muốn nói đến ở đây một điều cuối cùng, rằng văn chương và cuộc đời có thể chia sẻ với nhau về một sự thật nào đó, một điều rất dễ dàng để tạo ra mối gắn kết giữa chúng. Nhưng hơn thế nữa, văn chương cũng có khả năng sinh tạo sự thật cho mình,

 

Trong cuốn sách “Haroun và Biển Truyện”, mượn lời Haroun, Salman Rushdie nhấn mạnh vào một giả định rằng, “chuyện đã không có thật thì còn được tích sự gì?”. Nghi vấn thông thường ấy đã không chỉ là mấu chốt của câu chuyện mà còn đặt ra một trong những vấn đề mấu chốt của văn chương: mối quan hệ giữa hư cấu và sự thật, giữa tưởng tượng và nguyên mẫu.

Trong thời gian phải sống ẩn náu vì sự truy sát của các tín đồ Hồi giáo cực đoan do việc xuất bản tiểu thuyết lừng danh Những vần thơ của quỷ Satan, Salman Rushdie có viết tặng con trai ông, Rushdie Zafar, một cuốn sách hóm hỉnh và sâu sắc, một ẩn dụ thấu đáo về văn chương và cuộc đời: Haroun và Biển Truyện. Có lẽ, chính thời gian đó đã cho Rushdie những nếm trải thiết thân về hệ lụy của việc dấn thân vào con đường sáng tạo văn học. Bởi trong cuốn sách, mượn lời Haroun, Salman Rushdie nhấn mạnh vào một giả định: Chuyện đã không có thật thì còn được tích sự gì? Nghi vấn thông thường ấy đã không chỉ là mấu chốt của câu chuyện mà còn đặt ra một trong những vấn đề mấu chốt của văn chương: mối quan hệ giữa hư cấu và sự thật, giữa tưởng tượng và nguyên mẫu; theo đó, là quan niệm và thái độ của nhà văn khi hư cấu và hư cấu về sự thật. Điều tôi muốn nói đến ở đây là cách thế mà nhà văn ứng xử với văn chương và cuộc đời khi họ lựa chọn cho mình một lối viết khởi đi từ những sự kiện có thật trong cuộc sống hay hướng về những sự kiện ấy.

Chuyện đã không có thật thì còn được tích sự gì? Nghi vấn này hướng vào mục đích của việc sáng tạo. Không hành vi sáng tạo thiết thực nào không có mục đích, không hướng đến một độc giả tiềm ẩn hay một dự phóng nào đó vào cuộc đời. Nhà văn dấn thân bằng hành vi sáng tạo trước nhất là để hướng tới những mục đích như thế, hiện diện ở hiện tại tại thế này, nơi nhà văn là một tồn tại tại thế, sau đó có thể mới dẫn chiếu đến các chiều kích quá khứ và tương lai. Dễ hiểu vì sao ở khía cạnh này, tư cách nhà văn và tư cách công dân dễ có điểm tương đồng: sự đòi hỏi tự do trong sáng tạo cũng là sự đòi hỏi tự do như một quyền lợi và nghĩa vụ tất yếu của con người trong cuộc đời. Sáng tạo là con đường vươn tới tự do. Tự do suy tư. Tự do tưởng tượng. Tự do viết ra những suy tưởng ấy. Nhưng không phải ai ai cũng có thể làm được điều đó, cũng như không phải kiểu loại văn chương nào cũng có thể thoát khỏi những giàng buộc của thực tại. Những câu chuyện của văn chương, vì vậy, thường xuyên bị thoái triệt về mặt bằng của những câu chuyện đời thường, diễn ra hằng ngày, quanh ta, nơi mọi mục đích đều cần được nhận diện, được kiểm soát, tức có thật và có tích sự gì hay không. Tưởng tượng và suy tư tự thân thường bị nhốt vào tháp ngà văn chương, nơi chứng tỏ được sức mạnh của nó và chỉ nơi nó chứng tỏ được sức mạnh, ngoài ra thì không. Tôi không nhắc đến ở đây loại hư cấu khoa học giả tưởng, mà rất nhiều trong số đó, ban đầu chỉ là tưởng tượng, tức không có thật, nhưng về sau đã được khoa học xác nhận là sự thật.Tôi cũng muốn đặt ra ngoài sự luận bàn ở đây hai kiểu loại sáng tạo văn học rất đáng được quan tâm khi bàn thảo về chủ đề này: hư cấu lịch sửtự hư cấu, để dành cho một sự trở lại vào dịp khác. Điều tôi muốn nhấn mạnh là, ngay trong hiện tại, có những hư cấu từ những sự thật hay hướng về sự thật, hiểu theo nghĩa phổ thông nhất của khái niệm này, tức những sự kiện đã xảy ra, có thể kiểm chứng, có thật nhiều những giá trị văn chương và cuộc đời, qua cách nhà văn viết về nó như một ứng xử văn hóa.

Holocaust là một sự thật. Tiểu thuyết Người đọc của Bernhard Schlink và chuyển thể thành phim cùng tên của đạo diễn Stephen Daldry là những ứng xử từ/với sự thật ấy. Như đã nói, tôi không muốn nhắc đến ở đây trường hợp Primo Levi hay Kertész Imre, những người mà sáng tác của họ là sự trộn lẫn tuyệt vời giữa hư cấu lịch sử và tự hư cấu, như là hai phương thức ứng xử đã thành điểm phạm khi hồi cố về sự thật, về sự tham dự mang tính cá nhân vào sự thật ấy. Cả hai đều đã từng trải qua Auschwitz, và may mắn đều thoát khỏi Lò Thiêu, để sau này, cả cuộc đời họ phải đối diện với trải nghiệm kinh hoàng đó. Viết về Lò Thiêu là để giải tỏa nội tâm, để làm chứng, không phải về một thời đã qua, mà cho một tương lai đang tới, khởi đi từ chấn thương tâm lý dữ dội của những người đã trực tiếp trải qua nó và cả ở những người chỉ biết về nó, như một sự kiện lịch sử và như một huyền thoại đổ vỡ nhân tính. Holocaust không bao giờ là một sự kiện hoàn kết, đóng kín, nó chỉ có thể là một chứng tích nhắc nhở người ta không được phép ngừng suy tưởng về cuộc sống, như một ngôi sao sáu cánh nhân tạo được ném lên bầu trời đêm, soi rọi vào u minh cõi người.

Pha trộn một câu chuyện lịch sử với một câu chuyện tình yêu, mà cả hai đều đặc biệt giàu kịch tính, Bernhard Schlink đã không đem đến cho người đọc một tiểu thuyết giật gân mà là một niềm trầm mặc u hoài. Người đọc, ở phiên bản nào cũng thế, là một suy tưởng nghiêm túc từ/về sự thật. Cái khoảnh khắc mà đạo diễn Stephen Daldry để cho Hanna Schmitz, do diễn viên tài năng Kate Winslet đóng, thổn thức trong một thánh đường của chuyến dã ngoại đầu tiên với người tình nhỏ bé của mình, đã bộc lộ được một cách trực quan tuyệt diệu nỗi thống khổ của việc con người phải đối diện với chấn thương của chính mình. Một cảnh mà nhà đạo diễn đã sửa đổi, để tiếng nói của điện ảnh phát huy được tối đa thế mạnh của nó. Mà trong một cảnh khác, sự thay đổi lại làm mất đi chiều sâu trác tuyệt của năng lực ngôn từ. Tôi luôn ám ảnh về đoạn hội thoại của hai cha con Michael Berg ở chương 12 của phần 2 cuốn tiểu thuyết đã bị mất đi trong phim: một đối thoại triết học đạo đức về phẩm giá và tự do, về đạo lý và trách nhiệm. Vấn đề không phải ở chỗ Michael Berg có đứng ra làm chứng trước phiên tòa xét xử tội diệt chủng của Hanna Schmitz hay không, mà ở trong chính thái độ anh ta đối diện với quyết định làm chứng ấy. Ai có quyền được đứng ra định đoạt số phận của người khác? Thế hệ sau phải phán xét thế nào về những nỗi đau tàn khốc mà thế hệ trước gây ra, nhất là khi thế hệ sau chưa từng trực tiếp trải nghiệm sự kiện tàn khốc ấy? Có hay không cuộc đối thoại giữa những con người, những thế hệ, khi mà hố thẳm giữa họ không phải khoét sâu chỉ bởi những sự kiện đã xảy ra, có thật, mà còn bởi thái độ của mỗi phía trước sự kiện có thật ấy? Đối diện với sự thật, dẫu là sự thật ở số nhiều đi chăng nữa, sự thật được mỗi người nhìn nhận thông qua lăng kính chủ quan của mình, bao giờ cũng là một trải nghiệm đắng đót. Không có sáng tạo nghệ thuật từ/về sự thật nào mà không phải giải quyết các nan đề về mối quan hệ giữa đạo đức và thẩm mỹ bị quy chiếu bởi sự thật tiên khởi này.

Gần đây, với những chấn thương mà chiến tranh Việt Nam tạo ra, Nam Lê cũng có một cách đặt vấn đề rất thú vị về việc ứng xử với chấn thương. Cũng giống như những giới hạn Bernhard Schlink tham dự vào nạn diệt chủng của Đức Quốc xã khiến người ta phải do dự về nhận định khả năng hư cấu trên nền tảng tự truyện của tác giả, thật không dễ dàng khẳng định phẩm tính tự truyện trong hư cấu của Nam Lê, nếu xác nhận chấn thương tâm lý khởi đi từ nạn thuyền nhân. Có chăng, khoảng cách thế hệ đã tạo nên ở họ chiều sâu lý giải trong cảm quan nghệ thuật, dẫu vẫn biết, những chấn thương tâm lý, nhất là chấn thương ở tầm mức dân tộc và nhân loại không bao giờ thuộc về thì quá khứ, mà luôn tồn tại dai dẳng như một vết thương không lành? Dù đã từng tuyên ngôn không viết truyện dân tộc, nhưng Con thuyền của Nam Lê lại đã đọng trong tâm trí người đọc ở chính những hư cấu về dân tộc, trong những ứng xử về mối quan hệ giữa đạo đức và thẩm mỹ trước những biến cố lớn lao của dân tộc. Tập truyện bao quát một không gian xa rộng, nhưng có hai tự sự về dân tộc gần như thuộc về cùng một mạch cảm hứng: truyện ngắn Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hy sinh gần như là phần tiếp theo của truyện ngắn Con thuyền được chọn làm tên chung cho cả tập. Dẫu rằng, Con thuyền là một hư cấu về thuyền nhân, trong khi, sự thật mà Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hy sinh đề cập trực tiếp lại là vụ thảm sát Mỹ Lai.

Sự thật, sự thật thống khổ, đã là cái cớ để Nam Lê bày tỏ quan điểm của mình. Ở một mức độ nào đó, có thể cảm thấy cảm giác khá yên tâm của Nam Lê khi khắc họa nỗi đau thuyền nhân như một sự thật trong Con thuyền. Trong khi, ở Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hy sinh, Nam Lê không ngớt hoài nghi về sự thật, dù đó là một sự kiện đã xảy ra, được những người trực tiếp trải qua kể lại. Chính xác hơn, sự do dự của Nam Lê không xuất phát bởi sự xác tín về sự thật ấy mà xuất phát từ việc phải đối mặt thế nào với sự thật ấy. Ngọn lửa từ bàn tay người cha đã thiêu rụi bản thảo trả bài của cậu con trai, trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt lạnh lùng, và với một thái độ tuyệt thanh thản, là một cái kết nhiều gợi mở. Một tuyệt tác văn chương, nơi mà kinh nghiệm của người cha tỏ rõ được sức mạnh của nó, nơi mà nỗi thống khổ bộc lộ được tận cùng giá trị, khi được anh con trai làm cho sự thật ấy cất lên tiếng nói mới, tiếng nói của văn chương nghệ thuật, đã bị thiêu hủy, như chính cách những người trải qua chấn thương tự thiêu hủy cuộc đời mình để sống một cuộc đời khác trong hiện tại, song trùng với cuộc đời đã chết. Một lần nữa, băn khoăn của Bernhard Schlink tìm được lời hô ứng trong sáng tác của Nam Lê. Văn chương phải làm thế nào trước sự thật? Nhà văn phải tỏ thái độ thế nào trước sự thật ấy? Cuộc đối thoại bất tận giữa hư cấu và sự thật để làm gì, và đem lại điều gì? Không bao giờ có một câu trả lời dứt khoát, thỏa đáng nên những cuộc tìm kiếm mãi mãi là không cùng, trong khoảng không được giới hạn bởi biên độ của sự thật và hư cấu. Bởi xét đến cùng, vẻ đẹp thẩm mỹ, chuẩn định đạo lý, thuộc hai mặt phẳng giao nhau, mà đường ranh của sự gặp gỡ, khi được định danh là sự thật, chỉ có thể là khởi đầu hoặc chung cục của những tìm tòi, trong khi những gì mà hai mặt phẳng ấy mang chứa bao giờ cũng nhiều hơn một mối quan tâm về sự thật, dẫu rằng đó là một quan tâm quan thiết. Trong văn chương, không bao giờ có chuyện hai mặt phẳng ấy trùng lên nhau để trở nên trong suốt. Bởi khi ngôn từ trở nên trong suốt, văn chương mất đi hấp lực tự thân của nó, vẻ lấp lánh đa nghĩa do sự mờ đục của ngôn từ sinh thành, nhân bội. Cái đẹp là cái có ích nhưng không chỉ là cái có ích.

Tôi muốn nói đến ở đây một điều cuối cùng, rằng văn chương và cuộc đời có thể chia sẻ với nhau về một sự thật nào đó, một điều rất dễ dàng để tạo ra mối gắn kết giữa chúng. Nhưng hơn thế nữa, văn chương cũng có khả năng sinh tạo sự thật cho mình, những sự thật được cố kết bởi sức mạnh của ngôn từ. Và khi những sự thật ấy thành hình, nó có thể đánh đổ những sự thật ngang trái của cuộc đời, để kiến tạo một cuộc đời bác ái hơn, không phải cuộc đời trong văn chương mà chính là trong cuộc đời người ta hằng sống. Chuyện đã không có thật, do vậy, luôn luôn có tích sự, trong cái cách nó kiến tạo thế giới bằng trí tưởng. Nhà văn hư cấu hay hư cấu về sự thật, đều hiện diện trong cả tư cách văn nhân và tư cách công dân. Cố nhiên, nếu là sáng tạo với một thái độ, một ý thức can thiệp sâu sắc vào cuộc đời. Như một cam kết đã và sẽ xứng đáng được chờ đợi./.

Nguồn: Văn nghệ trẻ, số.7/2012

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder