Hang Ma – Truyện dài của Ngọc Châu (kì 2)

Cha nó vẫn mải tìm cây cỏ nhưng Pàng dậm chân kêu lên:

– Không đi nữa! Ho không đến gần hang Ma đâu. Ho về mách mẹ cho! – Thằng bé co người đứng lại, dù rằng ở truờng thày giáo dậy không được xưng ho (có nghĩa là tôi, tao…) với cha mẹ và người nhớn như vậy…

Cha nó vẫn mải tìm cây cỏ nhưng Pàng dậm chân kêu lên:

– Không đi nữa! Ho không đến gần hang Ma đâu. Ho về mách mẹ cho! – Thằng bé co người đứng lại, dù rằng ở truờng thày giáo dậy không được xưng ho (có nghĩa là tôi, tao…) với cha mẹ và người nhớn như vậy.

2- CHUYỆN KỂ CỦA MẾ TẰNG

Rồi bà cụ kể câu chuyện về hang Ma.

– Cụ ơi, ngày xưa đã lần nào cụ vào trong hang Ma chưa ạ? – Chị cán bộ Văn Hóa vừa chụp mế Tằng hai kiểu ảnh, đang quàng lại sợi dây đeo máy ảnh qua lưng để tránh hai thằng thò lò mũi xanh nghịch ngợm, lên tiếng hỏi khi nghe nói đến tên chiếc hang bí ẩn, nổi tiếng cả miền sơn cước này.

– Chẳng ai dám vào cái hang Âm Ti ấy đâu. Có vào là không có ra đâu vớ – mế Tằng bảo thế.

– Sao lại thế hở cụ – Anh Văn Hóa cũng xen vào – hễ người nào vào thì đều chết ở trong ấy, không ra được ngoài hang nữa à cụ?

– Đúng thế đấy, chẳng ai vào trong mà ra được ngoài nữa đâu. Để im mế  kể cho mà nghe.

Lâu lắm rồi, từ thời ông Bành Tổ dạy người ta trồng khẩu lùm phua, dạy cách nướng khẩu lam trên nương với làm các thứ đồ đạc trong nhà, thì hang đá ấy đã có rồi vớ – bà lão hơi nhỏm người ngồi dậy – nhưng người ở đây không ai biết là có cái hang ấy đâu…

– Cụ ơi, khẩu lùm phua là thứ cây gì ạ – Anh Văn Hoá lại buột mồm hỏi trong khi chị Văn Hóa lườm anh ta và bảo “để im cho cụ kể đi nào”.

– Alố, đó là thứ lúa nương thơm nức, đem làm khẩu lam tức là nấu cơm lam trong ống nứa thì ngon lắm vớ, người ta gọi là khẩu lùm phua nghĩa là ngon đến mức vợ ăn hết, quên cả để phần chồng – bà lão cười móm mém khiến mọi người nghe chuyện cũng cười theo.

– Ngày xưa hang đó nằm giữa khu rừng già nhiều hổ báo, rắn rết, mây gai chằng chịt – bà lão kể tiếp câu chuyện hang Ma – chẳng có đường nào vào hang nên cả người Tày, người Mường, người Dao…không có ai bén mảng đến.

Một hôm Giàng (người dưới xuôi gọi là ông Giời) xuống hạ giới gọi các Phi Phạ, Phi Đông về họp mặt, gọi cả các Phi Pấu Pủ là hồn tổ tiên những dòng họ Hoàng, họ Bạch, họ Vừ và các họ khác nữa của người Tày, Mường, Mán…  cùng đến.

Cuộc họp ấy ở trên đỉnh một dãy núi đá, bên dưới có rất nhiều hang động. Vốn ở trên giời rất ít núi non cây cối, cây gì cũng bằng vàng bằng ngọc nên Giàng nhìn muôn vật dưới trần gian đều lạ mắt, vậy nên khi tan họp Giàng liền bảo các Phi dẫn Giàng đi thăm thú khu hang đá dưới chân dãy núi.

Núi non giữa rừng già um tùm này có nhiều hang lắm vớ, cái ngầm ở bên trong, cái lộ ra ngoài. Phi Đông gồm những Thần với Ma ở trong rừng hay giành nhau nhận phần hang làm nơi thờ phụng hoặc trú ngụ khi mưa bão, ai cũng muốn được Giàng chứng giám sự phân chia để sau này khỏi có chuyện tranh tụng, nên đều hăm hăm hở hở đưa Giàng đến thăm hang của mình.

Những hang đá lộ ra phía ngoài đều đã có Thành Hoàng, Thổ Địa với Bụt Luông, mẹ Bjoóc, thần Bếp, thần Bản nhận phần, người Kinh với dân Tày –  Mường ta kéo đến cúng lễ từ lâu rồi lố. Mấy hang ở sâu hơn hôm ấy cũng được Giàng chứng kiến việc nhận phần của ma Đông (ma Rừng), Gió Lùa và Yêu Tinh mình Chằn.

Còn lại một hang to nhất, hóc hiểm nhất mà dân cư ở đây đã bao đời cũng không biết vì bị rừng già che phủ, không có lối vào. Gió Độc với Thuồng Luồng tranh giành nhau hang này nên cả hai vội vàng chạy về trước, chúng đánh nhau ở ngoài cửa hang khiến cho đá bay, núi lở. Hai con quỷ quần nhau dữ dội đến mức có những ngách hang bị thủng trần, trở thành hang lộ thiên, có những khối đá bị quăng quật xếp lại cạnh nhau thành giếng đá, ai hoặc thú vật nào tụt xuống đấy thì không sao lên đuợc, chết đói chết khát rồi trở thành xương khô dưới giếng.

Khi Giàng với các Phi khác đến nơi thì chúng đang đánh nhau trong hang. Giàng lên tiếng gọi nhưng cả Gió Độc với Thuồng Luồng đều không chịu chui ra, quỷ nào cũng sợ con kia chiếm mất hang nên mỗi đứa giành một ngách, tiếp tục phun gió, thổi nuớc đánh nhau. Giàng đứng đợi bên ngoài một lúc tức quá liền quát lên, tiếng quát của Giàng to đến mức làm trời long đất lở:

– Truyền cho Thần Sét từ nay canh giữ, hễ thấy đứa nào trong hang ló ra ngoài thì lập tức đánh chết ngay tại chỗ!

Gió Độc và Thuồng Luồng ở trong hang nghe Giàng ra lệnh như thế sợ quá, không dám đánh nhau nữa, nhưng từ đấy không con nào có thể rời hang ra ngoài. Khốn khổ và tức tối vì bị nhốt trong hang nên hai con quỷ cũng ra lời nguyền, là bất cứ kẻ nào chui vào hang sẽ bị chúng quật chết ngay tại chỗ.

Mãi về sau này do các co mậy đông (cây gỗ rừng) bị chặt mãi, chặt mãi, rừng co lại ngày càng nhanh như tấm da thú bị ném vào lửa, nên người ta mới biết là có cái hang đó vớ. Ngày già còn bé đã có người nói tới hang Ma. Gọi là hang Ma vì người thợ săn hay tiều phu nào dám liều mạng bước vào thì đều thành ma cả, ma nhiều đến nỗi xuơng người đầy trong hang, người ta bảo đứng ở cửa nhìn vào cũng thấy sọ người lăn long lóc.

– Thôi mế ạ, hôm nay kể thế thôi kẻo mế mệt quá – chị Văn Hoá nói rồi nhấn vào mấy cái nút để các vòng tròn không xoay nữa.

Tuy vậy lão bà móm mém còn nói thêm khi thấy bọn trẻ vẫn há mồm chờ nghe chuyện về hang Ma:

– Lũ tí nhau kia nhớ nhá. Sau này đừng có đứa nào dại dột bén mảng đến gần cái hang ấy. Quỷ Gió Độc với Thuồng Luồng còn ở nguyên trong hang, thỉnh thoảng chúng vẫn đánh nhau đấy. Mỗi lần chúng đánh nhau, gió độc với nuớc độc bay văng cả ra ngoài, làm chết lũ muông thú dại dột kiếm ăn quanh đấy. Người ta bảo là lâu lâu chúng lại dọn hang, quăng xương chân xương cẳng người chết trong hang ra ngoài nữa cơ.

Pàng nghe chuyện về hang Ma từ lúc nó mới bé tí như thế cơ mà. Sợ cái hang ấy là phải. Có điều sau này, khi có thằng Bình nghe cùng thì thằng ấy bảo:

– Mế Tằng kể chuyện cổ tích đấy mày ạ. Tao cóc sợ. Cái hang ấy ở xa quá, giá ở gần thì tao sẽ đến xem ngay. Mày có dám đi cùng tao không?

Pàng ngần ngừ rồi nói: – Nếu có nhiều nguời đi thì tao cóc sợ.

“Nó còn chưa biết việc xảy ra với nhà mình khi dám bén mảng đến gần cái hang ấy nên nó mới không sợ” – Pàng nghĩ trong bụng – Nhưng Pàng không muốn kể ra chuyện ấy, buồn lắm.  Mẹ của Pàng oặt ọeo suốt từ ngày ấy đến nay, họ hàng ai cũng tránh gợi lại câu chuyện thương tâm đó.

*

*    *

Cha mẹ Pàng xưa nay làm nương, còn làm cả thày lang chữa bệnh, đặc biệt là thuốc chữa rắn cắn gia truyền đã nhiều đời nhưng nhà vẫn nghèo lắm. Để Pàng có thể đến truờng học, thỉnh thoảng cha phải đi làm cửu vạn cho người ta.

Một thời gian mẹ và Pàng thấy cha có vẻ vui, chắc được người ta trả tiền công cao khi chuyển mối hàng gì đó. Nhà bắt đầu có đồng ra đồng vào nhưng ít lâu sau đó cha nó lại buồn, rất buồn ấy. Không đi chuyển hàng thuê nữa mà cứ hì hụi sao sấy với sắc những loại lá lẩu, củ rễ gì đấy, rồi đem chúng đi bán hay cho ai ở đâu mà không kể chuyện với mẹ Pàng.

Lần ấy sắp tết rồi, cha nó muốn đi hái thuốc đợt cuối năm. Pàng đã được nghe cha bảo rằng, hái thuốc phải chọn đúng tiết, đúng kì, không phải cứ thấy cây ấy tốt tươi mà hái về làm thuốc đuợc đâu. Thấy Pàng được nghỉ học rồi, cha nói với mẹ:

– Hôm nay cho thằng Pàng đi theo tôi.

Mẹ bảo:

– Nó mới sáu bảy tuổi đầu, biết làm cái gì!

– Có việc nó giúp được mà, để nó đi với tôi cho quen cây cỏ.

Cha rất muốn Pàng theo nghề của cha – cậu bé biết thế – Tuy không thích làm thày lang nhưng được vào rừng hái thuốc Pàng thấy khoái hơn ở nhà với mẹ.

Khi hai cha con đã ra khỏi sân nhà, mẹ nó gọi với theo:

– Hái cây hái củ ở đâu thì hái, cấm hai cha con bén mảng đến gần khu hang Ma. Thằng Pàng mà làm sao, ông liệu với tôi đấy!

Mẹ đe thế rồi chạy theo sờ hông thằng bé, xem gói thuốc chữa rắn độc cắn có còn nguyên vẹn trong cái túi nhỏ khâu sẵn ở trong quần nó không. Còn bắt Pàng đeo một chiếc khẩu trang người nhớn.

– Sáng sớm với chiều sương lạnh, phải đeo cho khỏi cảm con ạ. Đi trên đường cái bụi lắm, cũng phải đeo vào đấy Pàng nhá! – mẹ dặn thế.

Đây là lần đầu tiên Pàng theo cha đi hái thuốc trong rừng sâu. Thuốc thì khối cây nó đã biết, vì mẹ vẫn thường thái rồi đem phơi hoặc sấy sau khi cha vào rừng hái về. Nói là biết nhưng cái gì cu cậu cũng chỉ nghe nhìn láo quáo lào quào, không như thằng Bình.

Nhà thằng Bình truớc nay vẫn có nhiều sách nên nó chăm đọc sánh hơn Pàng, cái gì đã để tâm thì nó nhớ vanh vách. Tuy chẳng phải con nhà thầy lang thế mà nó cũng biết khối loại cây có thể chữa rắn cắn như thài lài, rau răm, lá dong…

Chả biết nó đọc ở đâu ra mà bảo Pàng rằng cây bèo lục bình vốn là một nàng Tiên kiêu căng, bị bà Tây Vương Mẫu đày xuống trần, nhốt trong chiếc ao tù chật hẹp cho giảm bớt thói khinh người. Cô Tiên ấy ân hận và luôn khát khao tìm ra biển rộng, nên mỗi khi mưa lụt bờ lại cố ngoi ra các dòng sông, hy vọng khi trôi ra biển sẽ không bị các loài cây hay cỏ dại che lấp nữa. Biết đâu Tây Vương Mẫu trông thấy, thương tình cho phép trở về Trời thì may biết mấy – cô Tiên bèo lục bình nghĩ vậy!

Còn cái cây bạc hà lạc loài từ miền Trung Âu sang ta cũng rắc rối ra phết. Bạc hà vốn là một phụ nữ nhẹ dạ, yêu đuơng và tạp giao nhăng nhít nên Thượng Đế – bên Tây người ta gọi là Jupite, thằng Bình nói thế không cho phép đẻ con, sợ rằng lũ trẻ sẽ bị thiệt thòi khi không biết cha chúng là ai. Tuy vậy cô nàng bạc hà cũng giúp cho người ta ăn uống dễ tiêu hoặc chữa cảm sốt, nhức đầu, có điều không có hạt giống để nẩy lên cây con, mà chỉ mọc lan ra bằng rễ mà thôi!

Pàng đi theo cha, vừa đi vừa nhặt cây hái quả, vừa hái cha nó vừa giảng giải nhưng cu cậu nghe vào tai nọ lại lọt ra theo tai kia. Gần đến khu rừng rậm, ở phía truớc dãy núi đá cao thì bao tải đựng củ và lá của cha cùng với chiếc túi dết dẹt (Pàng vẫn dùng để đựng sách vở đeo đến truờng) đựng các thứ hạt đã gần đầy.

Tưởng là sẽ quay về nhưng cha nó băn khoăn như thể chưa tìm ra thứ cỏ cây gì đó. Thỉnh thoảng lại lẩm bẩm trong mồm:

– Chẳng thấy cây mạch môn nào, thiên môn động cũng không, có lẽ phải vào khu rừng kia…

Vào trong rừng ấy một quãng thì cha có vẻ vui vì hái bẻ được mấy thứ cây cỏ lạ. Pàng quan tâm đến dãy núi đá hơn là cây cỏ nên hỏi:

– Núi kia là núi gì cha ơi? Có phải núi ấy có hang Ma không?

– Ờ, ừ. Nhưng còn xa, không sợ đâu – cha nó nói thế.

Đi thêm một lúc nữa thì lộ ra một bãi đá ngổn ngang. Pàng thấy phần cuối bãi đá dốc lên rồi hẹp lại, trông như một con đường mòn dẫn lên cao, chênh vênh giữa hai bờ vực sâu hun hút thẳng tới dãy núi đá. Đỉnh núi ở giữa cao tưởng như chạm tới chỗ ở của Giàng, chắc con đường này dẫn vào hang Ma.

Cha nó vẫn mải tìm cây cỏ nhưng Pàng dậm chân kêu lên:

– Không đi nữa! Ho không đến gần hang Ma đâu. Ho về mách mẹ cho! – Thằng bé co người đứng lại, dù rằng ở truờng thày giáo dậy không được xưng ho (có nghĩa là tôi, tao…) với cha mẹ và người nhớn như vậy.

Cha đành dẫn nó quay về. Xa khu rừng có hang Ma rồi, xa đến mức không nhìn thấy cả đỉnh núi chạm tới chỗ ở của Giàng, quanh năm phủ mây và sấm sét nổ ầm ầm những ngày mưa gió. Cha chợt bảo:

– Dừng ở đây, chặt nứa nấu cơm lam ăn đã.

Pàng tháo dây đeo vai, đặt túi dết của nó lên trên chiếc bao to chứa gần đầy các loại dược thảo thu hái được của cha mình. Hai cha con mỗi người một việc, cái gì chứ việc múc nuớc với nhặt củi đốt than nướng khẩu lam thì nó biết làm từ lâu rồi, còn dễ hơn việc lay rồi nhổ lên cả cụm một bụi sắn, trồng ở nương đất  cát.

N.C

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder