Hành trình thế kỷ văn học Pháp với 14 giải Nobel – Đoàn Đức Thanh dịch

Văn hào Pháp Patrick Modiano vừa được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn học năm 2014…

Văn hào Pháp Patrick Modiano vừa được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn học năm 2014.

 

Patrick Modiano (sinh 1945), sinh ra tại Boulogne-Billancourt. Cha là Albert Modiano, một thương nhân Do Thái; mẹ là Louisa Colpijn, một nghệ sỹ hài kịch người Bỉ; họ quen nhau năm 1942 tại Paris, vì không muốn dòng họ Do Thái “Modiano” gây phiền phức cho các con, họ đưa con đi tu theo Thiên Chúa giáo.

 

Người cha thường xuyên đi buôn, mẹ đi diễn kịch, người anh duy nhất lại sớm qua đời, vì thế tuổi thơ của ông đi qua với những tháng ngày cô độc. Sau này lớn lên, phe tín đồ Thiên Chúa giáo xem ông là người Do Thái, người Do Thái lại xem ông là tín đồ Thiên Chúa giáo, vì thế thân phận ông trở thành như kẻ bơ vơ. Với cá tính mạnh mẽ, ông sớm lựa chọn theo đuổi con đường sáng tác văn chương, quyết tâm trở thành nhà văn Do Thái vĩ đại của Pháp, kế tục sự nghiệp của Montaigne, Proust và Celine.

 

 

 

Tiểu thuyết của Patrick Modiano đa số lấy đề tài từ thời kỳ Đức chiếm đóng Pháp trong Đệ nhị thế chiến, nhưng ông không viết trực tiếp về chiến tranh mà miêu tả thực tế xã hội qua bầu không khí ngột ngạt và u ám của chiến tranh.

 

Nhân vật chính trong “Quảng trường ngôi sao” (La place de L’Etoile, 1968) là một thanh niên Do Thái, anh ta từ Pháp chạy đến Israel, nhưng vẫn không thể thoát khỏi nỗi ám ảnh về chủ nghĩa phát xít, cuối cùng bị hành quyết tại quảng trường ngôi sao, trước Khải Hoàn Môn Paris. Vào thời Đức chiếm đóng, những người Do Thái bị buộc phải mang biểu tượng hình ngôi sao màu vàng ở trước ngực, vì thế tựa đề “Quảng trường ngôi sao” có ý nghĩa tượng trưng rất rõ. Tiểu thuyết đã giành được hai giải thưởng lớn, giúp Patrick Modiano thành danh ngay trong lần ra mắt đầu tiên.

 

 

 

Nhân vật chính trong “Tuần tra đêm” (La ronde de nuit, 1969) là một thanh niên làm việc hai mang, vừa như một Gestapo [*] vừa tham gia vận động kháng chiến, trong cảnh tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng đi vào con đường tự hủy hoại mình.

 

 

 

Nhân vật chính trong “Các đại lộ vành đai” (Les Boulevards de ceinture, 1972) vào năm 17 tuổi phát hiện thấy một bức ảnh của cha mình và lên đường đi tìm cha, do người cha có thân phận không rõ ràng nên phải sống cảnh lẩn trốn. Người con cũng không làm rõ được cha mình là kẻ buôn lậu hay là người Do Thái bị Gestapo truy bức. Cuối cùng trong lúc người cha bị bắt người con đã dũng cảm xuất hiện, và cả hai đều bị tống vào nhà lao.

 

“Biệt thự buồn” (Villa triste, 1975) viết về một thanh niên chạy trốn cuộc chiến đến Thụy Sĩ, thế rồi cùng với một đôi nam nữ hình thành mối quan hệ tay ba

 

 

 

Nhân vật chính trong “Sổ gia đình” (Livret de famille, 1977) chỉ 20 tuổi, nhưng lại hồi tưởng về cuộc sống vào thời kỳ chiếm đóng trước khi anh ta sinh ra.

 

“Phố các cửa tiệm tối tăm”(Rue des Boutiques obscures, 1978) là tác phẩm tiêu biểu của Patrick Modiano, nhân vật chính là một thanh niên bị mất trí nhớ, quên hết nửa cuộc đời trước của mình, sau đó làm việc được 8 năm cho một phòng thám tử tư, nhờ rất nhiều manh mối dần dần nhớ lại hoàn cảnh của mình trong thời kỳ chiếm đóng, tiểu thuyết hàm ý triết lý đi tìm lại chính mình, đã được giải Goncourt.

 

 

 

Từ năm 1980 đến nay Patrick Modiano thường xuyên cho ra đời những tiểu thuyết mới, tiêu biểu như “Một tuổi trẻ” (Une jeunesse, 1981), “Những chủ nhật tháng 8” (Dimanches d’Aout, 1986), và “Tủ áo tuổi thơ” (Vestiaire de l’enfance, 1989)… Nhân vật chính trong những tiểu thuyết vừa hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc sống vừa mang tâm trạng hoài cổ nhớ lại dĩ vãng. Như trong “Một tuổi trẻ” viết về một phụ nữ 35 tuổi đang sống trong cảnh hạnh phúc yên bình thì nhớ lại thời tuổi trẻ ảm đạm với cuộc sống khốn khó. Trong “Những chủ nhật tháng 8” nhân vật chính đi nghỉ mát cùng tình nhân của anh ta, nhưng viên kim cương quý hiếm mà cô gái mang theo làm người ta liên tưởng đến những thứ quý giá thường mang đến bất hạnh cho chủ nhân, câu chuyện mơ mơ hồ hồ để lại khoảng trống cho người đọc tùy ý tưởng tượng.

 

 

 

Sau thập niên 90 nhiều tác phẩm vẫn giữ phong cách hồi tưởng được ông tiếp tục cho ra mắt như: “Tuần trăng mật” (Voyage de Noce, 1990), “Gánh xiếc đi qua” (Un cirque passe, 1992), “Bên kia bờ lãng quên” (Du plus loin de l’oublie, 1996), “Những kẻ vô danh” (Des inconnus, 1999), “Món nữ trang nhỏ” (La Petite Bijou, 2001) … Ví dụ trong tác phẩm “Bên kia bờ lãng quên” nhân vật chính 50 tuổi khi gặp lại người tình 30 năm về trước đã nhớ lại chuyện xưa: ông giành được cô ấy từ một người đàn ông khác, nhưng rồi cô ấy lại kết hôn với một người giàu có. Giờ tất cả ký ức chỉ là kỷ niệm cay đắng, tốt nhất nên quên hết đi.

 

 

 

Patrick Modiano không tham gia hoạt động chính trị, ông chỉ quan tâm đến tranh luận về triết học và nghệ thuật. Ông miệt mài sáng tác tiểu thuyết lấy đề tài từ trong Đệ nhị thế chiến. Ông cũng học theo một số thủ pháp của tiểu thuyết hiện đại với phong cách viết văn ngắn gọn, dễ hiểu, kết hợp đan xen giữa hư và thực, đọc rất lôi cuốn, thành hiện tượng trên văn đàn vào thập niên 70, trong lúc thể loại tiểu thuyết mới đang đi xuống.

 

 

 

Nhiều nhà văn Pháp không phải người Pháp

 

 

 

Những người được giải Nobel Văn học thường đều là văn hào lớn, nổi tiếng thế giới, nhưng cho đến thập niên 90 thế kỷ XX, những nhà văn nổi bật dường như đều lần lượt qua đời, dần dần người được giải tên tuổi không thực sự quá nổi, nhiều người còn không rõ họ là ai. Tác phẩm sớm nhất của nhà văn Jean-Marie Gustave Le Clézio (1940- ) xuất bản năm 1963 và ông trở thành văn hào nổi tiếng vào thập niên 70, đến nay ông vẫn viết lách kiếm sống, trải qua hơn 40 năm nhưng danh tiếng vẫn còn nguyên vẹn, vì thế việc ông được giải không làm ai bất ngờ, không tạo ra nhiều dư luận trái chiều. Năm 2006 ông xuất bản tiểu thuyết Urania, một tiểu thuyết giả tưởng viết về xã hội lý tưởng Utopia. “Ban bình chọn tiểu thuyết thế kỷ 21 nước ngoài xuất sắc nhất hàng năm” do Nhà xuất bản Văn học Nhân dân và Viện Văn học nước ngoài tổ chức đã bình chọn Urania là tiểu thuyết Pháp xuất sắc nhất năm 2006, đến năm 2007 đã có bản dịch tiếng Trung xuất bản. Năm nay ông đã 68 tuổi, tôi khen ông vẫn còn rất khỏe và hỏi ông khi nào nghỉ hưu. Ông nói nhà văn không có nghỉ hưu, ông sẽ viết cho đến hơi thở cuối cùng. Ông so sánh mình với người nông dân cày ruộng, ấn tượng về ông là một người rất khiêm tốn, giản dị. Ông không thích không khí náo nhiệt ở những thành phố lớn và thường xuyên rời nước Pháp đến sống và viết ở các nơi khác như Mexico, Panama, Ấn Độ… Những nơi ông thích đến đương nhiên liên quan đến tổ tiên của ông, vì tổ tiên của ông là người Pháp di dân từ đảo Mauritius, châu Phi, ông nội của ông làm thẩm phán trên đảo. Cha ông là người Anh, sau này gặp mẹ ông đến từ Paris, họ kết hôn tại Kniss, Pháp và sinh ông ở đó.

 

 

 

Về phương diện văn hóa, Paris là nơi dễ dung nạp văn hóa khác. Từ thời Rousseau (1712 – 1778), Paris trở thành tâm điểm chú ý của văn giới khắp nơi. Nhiều người tưởng Rousseau là người Pháp, thực tế ông sinh ở nước cộng hòa dân chủ Geneva, bản thân ông là công dân Geneva. Thời ông sống chưa có Thụy Sĩ, ban đầu Geneva nhập vào Pháp, sau đó mới tách khỏi Pháp rồi nhập vào Liên bang Thụy Sĩ.

 

 

 

Rousseau đến Pháp năm 29 tuổi, là người nổi tiếng của Pháp đầu tiên đến từ nước ngoài. Vào thập niên 50 của thế kỷ XX, nhà văn trường phái kịch phi lý đều là người nước ngoài: Ionesco (1909 – 1994) đến từ Romania, Adamov (1908 – 1970) đến từ Armenia, Samuel Beckett (1906 – 1989)từ Ireland, người đạt giải Nobel Văn học năm 1969. Đến nay, tác giả di dân mà mọi người rất quen thuộc có Milan Kundera (1929- ) gốc Czech, Francois Cheng (1929- ) gốc Trung Quốc…

 

 

 

Văn học khác với chính trị, về chính trị thì các quốc gia lớn nhỏ đều cần bình đẳng, nhưng về văn chương các nước nhỏ quá sẽ gặp bất lợi trong phát triển. Ví dụ Ireland có rất nhiều nhà văn, nhưng muốn phát triển phải đến London, như nhà văn William Butler Yeats (1865-1939) nổi tiếng của Anh cũng là người Ireland. Tương tự, nhiều nhà văn di dân từ Phi châu, sau khi đến Pháp sự nghiệp của họ mới nở rộ. Nhà văn di dân là nhà văn lưu vong, số phận của họ khó khăn hơn rất nhiều những nhà văn Pháp bản địa, vì vậy để thành công họ đều phải là những con người kiệt xuất, những sáng tác của họ thường lột tả hiện thực một cách sâu sắc, nhiều khi trở thành tấm gương cho người Pháp.

 

Tóm lại, nhiều nhà văn di dân cần đến Pháp để phát triển tài năng, còn Pháp cũng cần sự bổ trợ từ văn hóa bên ngoài, và những nhà văn di dân đã giúp văn học Pháp tăng thêm sức sống. Sau khi Jean-Marie Gustave Le Clézio (1940- ) được giải Nobel, có một số người Pháp nói ông không phải dòng máu Pháp, thực sự điều này không đáng để bị chỉ trích, hơn nữa dù sao ông cũng đã là người Pháp.

 

 

 

Pháp là khởi nguồn của các trường phái và trào lưu tư tưởng

 

 

 

Chúng ta không thể nói văn học nước nào ưu việt nhất, nhưng cũng khó phản bác về vai trò nổi trội của văn học Pháp, ưu thế của nó được duy trì từ thế kỷ XVII đến nay. Diện tích nước Pháp không lớn, không thể so với Trung Quốc và Nga, lịch sử cũng không lâu đời bằng, vậy tại sao văn học Pháp lại xuất chúng như vậy? Điều này có liên quan đến lịch sử thế giới cận đại.

 

 

 

Trung Quốc có thời kỳ thịnh Đường vô cùng rực rỡ, vào lúc đó nước Pháp còn chưa xuất hiện, nhưng sau thời cận đại thì phương Đông rơi vào trì trệ lạc hậu, lúc đó chưa có nước Mỹ, chỉ có châu Âu phát triển nhất, trong đó mạnh nhất là Pháp, văn hóa sáng lạng nhất cũng là Pháp. Chủ nghĩa cổ điển ở Pháp đã thống trị Âu châu suốt hai thế kỷ, giới thượng lưu ở các nước khác đều xem việc nói được tiếng Pháp là niềm tự hào.

 

 

 

Đến thế kỷ XIX, chủ nghĩa lãng mạn của Hugo, chủ nghĩa hiện thực phê phán của Balzac, chủ nghĩa tự nhiên của Zola, đều ảnh hưởng sâu sắc đến văn học toàn thế giới, tuy Zola qua đời sớm nhưng văn học theo chủ nghĩa tự nhiên mà ông khởi xướng không ngừng được truyền bá đến châu Mỹ La Tinh, Nhật Bản và Trung Quốc. Trường phái thơ ca theo chủ nghĩa tượng trưng cũng như vậy.

 

 

 

Vào thế kỷ XIX và XX, nước Pháp đã xuất hiện rất nhiều nhà văn có tầm vóc thế giới. Vào nửa đầu thế kỷ XX, những nhà văn giành giải Nobel có Romain Rolland (1866 – 1944), Anatole France (1844 – 1924), André Gide (1869 – 1951) và François Mauriac (1885 – 1970)… Họ đều là nhà văn theo chủ nghĩa hiện thực, đã có những ảnh hưởng lớn. Những nhà văn được giải vào nửa sau thế kỷ XX đều là nhà văn của chủ nghĩa hiện đại, như Albert  Camus (1913 – 1960) được giải năm 1957, Jean-Paul  Sartre (1905 – 1980) năm 1964, Samuel Beckett (1906 – 1989) năm 1969, nhà văn theo phái tiểu thuyết mới Claude Simon (1913 – 2005) năm 1985…

 

 

 

Dường như số người được giải Nobel văn chương của Pháp là nhiều nhất, cho thấy văn học Pháp thế kỷ XX ảnh hưởng rất lớn trên thế giới. Tóm lại, Pháp chính là cái nôi của những trường phái và trào lưu tư tưởng mới. Người Pháp thích cái mới, một trào lưu tư tưởng mới ra đời chẳng bao lâu sẽ lại bị thay thế bởi một trào lưu khác, nhưng những trường phái và trào lưu tư tưởng được khai sinh ở Pháp thì vẫn tiếp tục có chỗ đứng và phát triển ở nhiều nước khác. Ví như phái văn chương theo chủ nghĩa tự nhiên của Zola chỉ tồn tại ở Pháp vài năm nhưng sau đó lại được kế thừa và phát triển ở quốc gia khác.

 

 

 

Parislà kinh đô của những cái mới, là trung tâm để từ đó lan tỏa ra nhiều thành phố khác. Người khai sinh tiểu thuyết mới Robbe Grillet (1922 – 2008) có bộ râu xum xuê, có lẽ người Pháp ai cũng nhận ra ông nhưng thường thì ít ai đọc sách của ông. Trung Quốc đã dịch sách của ông, nhưng có lẽ ngoài người dịch và người nghiên cứu ra, đa số công chúng không đọc đến. Bản thân Robbe Grillet cũng biết ở Trung Quốc người ta biết đến ông nhiều hơn ở Pháp, vì như nước hoa và rượu nho của Pháp, người Trung Quốc xem ông là thương hiệu của một trường phái. Pháp chính là nơi khai sinh ra trường phái này.

 

Với nước Pháp, trường phái tiểu thuyết mới và kịch phi lý thịnh hành vào thập niên 50 đã đạt đến thời đỉnh cao của văn chương hiện đại, sau đó dường như đã thoái trào, đi vào thời kỳ không có trường phái, trung tâm, học thuyết chủ lưu, đây gọi là thời kỳ hậu hiện đại. Khởi đầu từ năm 1984 với “Người tình” (L’Amant, 1984) của văn hào Marguerite Duras (1914 – 1996), văn học Pháp nói chung, đặc biệt là tiểu thuyết nói riêng rơi vào thời kỳ thông tục hóa (đại chúng hóa), hàng năm đều có những tiểu thuyết dành cho đại chúng bán rất chạy. Trào lưu cũ qua đi trong khi trào lưu mới chưa hình thành. Những nhà văn lớn của thế hệ cũ đều lần lượt qua đời, nhà văn lớn của thế hệ mới có lẽ còn lẩn khuất đâu đó, chúng ta đành phải mỏi mắt ngóng chờ vậy.

 

 

 

Người Pháp cần giải thưởng để có thêm tự tin

 

 

 

Người Pháp rất kiêu ngạo, được nhiều giải thưởng nhưng họ không bao giờ thỏa mãn. Họ luôn cảm thấy văn học Pháp là ưu việt nhất, cứ vài năm là phải có giải. Sartre được giải năm 1964, sau đó liền 20 năm không được giải khiến họ vô cùng sốt ruột, cảm thấy văn hóa Pháp không còn đủ hấp dẫn thế giới. Nhưng nói lại, dù văn học Pháp hiện không còn là trung tâm độc nhất của thế giới, nhưng vẫn là một trung tâm quan trọng.

 

Trước đây, ở châu Âu, Pháp là trung tâm tuyệt đối, không thể nghi ngờ về địa vị thống trị của văn hóa Pháp. Sau này Mỹ lớn mạnh, văn hóa Anh bắt đầu đi vào Pháp. Sau khi văn học Âu Mỹ đi vào châu Mỹ La Tinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo khai sinh tại châu Mỹ La Tinh. Văn học Nhật bản với sự pha tạp của các trường phái cũng có ảnh hưởng nhất định.

 

 

 

Học thuyết Lão Trang và Kinh Dịch của Trung Quốc cổ đại có ảnh hưởng lớn với thế giới, nhưng những tác phẩm văn chương đương đại không có tiếng tăm gì mấy, nguyên nhân là trong một thời gian dài Trung Quốc đóng cửa với thế giới, tác phẩm của Trung Quốc không được dịch kịp thời và đầy đủ để truyền bá ra ngoài, vì thế mà người ta cũng không biết đến.

 

 

 

Một trong những nguyên nhân giúp Cao Hành Kiện (1940- ) được giải Nobel là vì ông ấy là bạn của Mayueran, thành viên ban giám khảo giải Nobel văn học Thụy Điển. Khi ông viết “Linh sơn”(Ling Shan, 1990) Mayueran đã dịch nó sang tiếng Thụy Điển, nhờ vậy các thành viên ban giám khảo đều đọc được. Vì ban giám khảo giải không ai đọc được tiếng Trung, họ không biết đến những tiểu thuyết khác của Trung Quốc, có lẽ vì vậy mà cho rằng đây là tác phẩm hay nhất của Trung Quốc.

 

Pháp được nhiều giải Nobel Văn học nhất

 

Prudhomme là người được giải Nobel Văn học đầu tiên vào năm 1901, ông là một nhà thơ theo chủ nghĩa tự nhiên, đây là thời kỳ chủ nghĩa tự nhiên chiếm vai trò chủ lưu, vì thế giải thưởng dành cho ông không có gì lạ. Năm 1904, nhà thơ Pháp Fredéric Mistral (1830-1914) được giải. Khi mới có giải Nobel, các thành viên hội đồng không hiểu lắm về văn chương thế giới, hoặc cũng có sự thiên vị, vì thế họ quan tâm nhiều đến Pháp cùng các nước Tây Âu, ngay cả đại văn hào Nga là Tolstoy cũng không được giải.

 

Năm 1915 Romain Rolland được giải, đương nhiên là nhờ ảnh hưởng lớn từ trường thiên tiểu thuyết John Christopher của ông, tuy nhiên lập trường phản chiến của ông cũng không thật rõ ràng. Chiến tranh thế giới thứ nhất là cuộc chiến phi nghĩa, nhiều quốc gia bị cuốn vào, ngay Đảng Xã hội cũng ủng hộ cuộc chiến. Romain Rolland dũng cảm đứng lên kêu gọi thanh niên các nước phản đối cuộc chiến. Ông bất chấp những hiểu lầm của nhân dân Pháp, đơn độc đấu tranh giữa lúc chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Sô vanh đang thịnh hành, nhờ vậy mà được giải Nobel năm đó.

 

 

 

Năm 1921 Anatole France được giải cũng có những lý do về chính trị. Tháng 12 năm 1920 Đảng Xã hội Pháp bị chia rẽ, Anatole France  tham gia vào Đảng Cộng sản Pháp khi vừa mới thành lập. Ông góp tiền cho Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Pháp cho rằng đây là hành động cụ thể của người muốn gia nhập Đảng, và Anatole France cũng không phủ nhận. Đương nhiên việc được giải là do ông đã kế thừa truyền thống từ Rabelais và Voltaire, viết nhiều tiểu thuyết với lối hành văn hài hước mà cảm động, trở thành ngôi sao sáng trên văn đàn Pháp. Năm 1927 triết gia Henri Bergson (1859-1941) được giải nhờ văn của ông vừa độc đáo, thêm nữa là thứ triết học luận về tiến hóa hiển lộ khi đó có ảnh hưởng rất lớn.

 

 

 

Năm 1937 Roger Martin Dugard (1881-1958) được giải nhờ tác phẩm đồ sộ “Les Thibault” (Gia đình Thibault), ông đã bỏ ra 20 năm (1920-1940) để hoàn thành. Tác phẩm không được đánh giá cao về tính nghệ thuật, nhưng thông qua quá trình suy vong của hai gia đình thuộc giai cấp tư sản, tác phẩm phản ánh về những bất an và rối loạn xã hội trước và sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ca ngợi tinh thần phản kháng của thanh niên thời đại, vì vậy vào thời điểm trước chiến tranh thế giới thứ hai nó được chú ý nhờ ý nghĩa phản chiến.

 

 

 

André Gide là nhà văn đồng tính, nổi tiếng thế giới với tác phẩm đầy chất hàm hỗn dị thường. Năm 1936 Liên Xô mời ông đến thăm, khi về ông quay lại phản đối Liên Xô. Trong tác phẩm “Những kẻ làm bạc giả” (Les Faux-monnayeurs,1926), ông đã dựng nên thủ pháp tiểu thuyết trong tiểu thuyết, mở ra con đường cho tiểu thuyết hiện đại, nhìn chung ông xuất chúng cả về chính trị lẫn văn chương. Năm 1947 người đáng nhận giải là Valery đã qua đời, khi đó Gide đã lớn tuổi, các thành viên ban giám khảo nhìn vào đó xem như bài học, thế là lập tức trao giải cho Gide. Mauriac được giải năm 1952, tác phẩm của ông chủ yếu phản ánh về đời sống gia đình tầng lớp tư sản, ông sớm nổi danh từ thập niên 20.

 

 

 

Năm 1957, nhờ thân vương Gustav là em trai quốc vương Thụy Điển, tiến cử Albert Camus, và Camus đã được giải Nobel khi mới 44 tuổi. Năm 1951 Camus đã xuất bản “Người nổi loạn” (L’Homme révolté) nhằm công kích Liên Xô, đồng thời có một cuộc luận chiến với phe cánh tả mà tiêu biểu là Jean-Paul Sartre, vì thế sau khi được giải ông sống cô độc rồi về ẩn cư ở thôn quê, sau đó chết trong tai nạn giao thông. Sartre cũng giống Camus, là triết gia hiện sinh, nhà văn, nhà hoạt động xã hội, có ảnh hưởng lớn nhất của Pháp khi đó, kể từ cuối thập niên 50 ông rất ít sáng tác, nhưng đến năm 1964 lại xuất bản cuốn hồi ký “Lời nói” (Les Mots) được nhiều lời khen ngợi, cũng năm đó ông được giải Nobel, nhưng đã từ chối.

 

 

 

Người khai sinh thể loại tiểu thuyết mới Robbe Grillet sau thời thoái trào của tiểu thuyết mới đã ngừng viết tiểu thuyết, chuyển qua làm phim, từng được giải tại Liên hoan phim Cannes. Nghe đâu nguyên nhân khiến ông không được giải Nobel năm 1985 có liên quan đến việc làm phim của ông, do phim chứa quá nhiều cảnh về tình dục khiến người Thụy Điển thấy phản cảm, kết quả giải Nobel được chuyển cho Claude Simon (1913 – 2005), cũng là một nhà văn phái tiểu thuyết mới.

 

 

 

Nhà văn Pháp gốc Hoa, Cao Hành Kiện được giải Nobel năm 2000. Theo tôi biết, người có ảnh hưởng tương đối nhiều ở Pháp là Francois Cheng, ông dùng lý luận chủ nghĩa cấu trúc và phân tích ký hiệu học giới thiệu thơ ca và hội họa Trung Quốc tại Pháp, được nhiều người Pháp quan tâm, đóng góp nhiều công sức trong giao lưu văn hóa Trung – Pháp, nhờ đó được bầu làm Viện sĩ Viện Văn học Pháp, cũng là Viện sĩ người gốc Hoa đầu tiên kể từ khi viện thành lập từ năm 1635.

 

 

 

Giải Nobel Văn học mỗi năm chỉ trao một lần, vì thế đương nhiên có nhiều nhà văn lớn chưa nhận được giải, trong đó đáng tiếc nhất có lẽ là nhà văn huyền thoại André Malraux (1901-1976). Khi vừa được giải thì ông qua đời. Ví như năm 1947, vì chiếu cố cho văn hào Gide do đã quá lớn tuổi, vậy là đành để ông chờ đợi thêm. Đến năm 1958, khi đó ông làm Bộ trưởng Văn hóa trong chính phủ của Charles de Gaulle, nhưng vì trước đó hội đồng trao giải từng một lần trao giải cho Churchill khiến dư luận bất bình, vì vậy họ rút kinh nghiệm không tiếp tục trao giải cho quan chức nữa, vậy là Malraux lại bị lỡ cơ hội nhận giải. Về sau có lẽ để bù đắp cho ông, di hài ông được đưa vào điện Pantheon, là nhà văn duy nhất của thế kỷ XX có được vinh dự đặc biệt này.

 

 

 

Nhìn lại những nhà văn được giải Nobel trong một thế kỷ đã qua có thể thấy đã phản ánh được những đổi thay của các trào lưu tư tưởng trong 100 năm của văn học Pháp, hiểu được quỹ đạo của những thay đổi này. Sự kiện trọng đại nhất của nửa đầu thế kỷ XX là hai cuộc đại chiến thế giới, vì thế những tác phẩm được chú ý đương nhiên là tác phẩm theo chủ nghĩa hiện thực phản ánh về hai cuộc đại chiến. Đến nửa sau thế kỷ XX, văn học theo chủ nghĩa hiện đại chiếm ưu thế, được giải là những Camus, Sartre… Sau đó lại đến những nhà văn di dân được giải, như Le Clézio, Cao Hành Kiện, cho thấy những nhà văn đến từ ngoài nước Pháp ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong văn chương Pháp.

 

 

Chú thích:

 

* Tên gọi tắt của Geheime Staatspolizei, là lực lượng cảnh sát bí mật (hoặc Mật vụ) của tổ chức SS do Đức Quốc xã lập ra.
(nguồn Van.VN)

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder