
Đã rất lâu rồi, tôi mới có dịp trở lại nơi đây: một vùng trung du trập trùng mây, núi. Nhìn trên bản đồ, Hòa Bình là một địa danh thuộc cửa ngõ của vùng cao Tây Bắc nước ta. Địa danh này còn được nhắc đến bằng cái tên thân thiện: Xứ Mường. Từ xa xưa, vùng đất sơn thủy hữu tình, núi rừng trù phú có suối khoáng Kim Bôi, có hồ nước sông Đà và rất nhiều cảnh đẹp được thiên nhiên ưu ái ban tặng này đã được nhiều bộ tộc du canh, du cư lựa chọn làm nơi dừng chân. Họ dựng nơi ở, phát nương, trồng rẫy, dần dần phát triển thành làng, bản. Tính đến nay, Xứ Mường đã có lịch sử phát triển gần 140 năm. Mảnh đất này cũng là nơi có nhiều dân tộc thiểu số như: Mường, Thái, Dao, Tày, Hoa, H’ Mông… sinh sống. Một bộ phận người Kinh từ Thái Bình, Nam Định theo chính sách xây dựng vùng kinh tế mới cũng đến đây lập nghiệp đã hơn nửa thế kỷ. Trong số các dân tộc kể trên, người Mường chiếm tới hơn 63%. Cũng vì thế mà cái tên xứ Mường được nhiều người thân thiện gọi như một cách thể hiện sự am tường về đặc điểm nổi bật của vùng đất Hòa Bình.
Tôi đã từng có một khoảng thời gian vài năm gắn bó, rong ruổi rất nhiều nơi thuộc vùng núi rừng Tây Bắc. Vì thế, mỗi lần có dịp thăm lại đều thấy long bồi hồi như thể được quay về một nơi thân thuộc. Trong ký ức của tôi, hơn ba mươi năm trước, cả một vùng đất Tây Bắc ngút ngàn rừng tự nhiên. Đường sá chật hẹp, gập ghềnh những ổ hố to và sâu, di chuyển vô cùng khó khăn. Những cây gỗ đại thụ, cây dây leo chằng chịt rợp cả đường đi. Người ngồi trên thùng xe, có lúc còn xòe tay hái quả. Những ai lần đầu tiên đến với núi rừng khi đó, cũng mê mẩn trước vẻ đẹp của thiên nhiên hoang dã. Tiếng chim hót líu lo, tiếng suối chảy róc rách cùng những âm thanh vọng về từ rừng núi tạo nên một bản nhạc êm ái. Những bông hoa chuối rừng đỏ rực rỡ như ngọn lửa nổi bật lên giữa thảm rừng xanh… Bức tranh núi rừng Tây Bắc trong ký ức tôi luôn đẹp tuyệt vời. Mấy chục năm qua đi, diện mạo đất nước đã đổi thay nhiều, đường sá đẹp hơn, phương tiện giao thông hiện đại hơn. Tây Bắc cũng trở nên gần hơn với Hà Nội, Hải Phòng.
Suốt chặng đường, nghe những câu chuyện về vợ chồng cậu hoạ sĩ từ thủ đô lên đây tạo dựng một khu vườn thơ mộng, một không gian đẹp cho bạn bè đến thăm quan, thư giãn và phát triển mô hình “du lịch bản” khiến tôi rất tò mò. Họ cứ đi đi, về về mỗi ngày, có khi thì ở lại suốt cả thời gian dài đến vài tháng. Con đường hàng trăm cây số đã trở thành con đường quen thuộc với họ như đường đi chợ.
Ngoài vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng ra, không biết mảnh đất xa xôi hẻo lánh kia còn có gì hấp dẫn họ đến thế? Tôi tò mò tự hỏi mình.
…Rồi buổi sáng cũng qua đi cùngvới hành trình hơn 200 km. Trưa, anh em văn nghệ sĩ Hải Phòng tới khu Homestay của họ và điều tôi thắc mắc dần tìm được câu trả lời. Khỏi phải nói, hai vợ chồng chủ nhân ở đây và chúng tôi, những người bạn cũ, gặp gỡ nhau vui vẻ đến thế nào.
Một không gian đầy ắp cây và hoa, đây đó, mỗi khoảng trống trong khu vườn đều được chủ nhân khéo léo tạo cảnh – tất cả đều rất gần gũi với thiên nhiên. Ngôi nhà sàn ấm áp, được bài trí đơn sơ mà tinh tế, hàng rào đầy hoa đậu biếc tím ngắt, bể bơi nước xanh như ngọc, ao nước nhỏ với những chú cá Koi vàng nhởn nhơ uốn lượn làm rung rinh những bông súng đỏ hồng… Toàn cảnh ở đây giống như một bức tranh đa sắc màu và mỗi tiểu cảnh là một nét vẽ điệu nghệ. Khu Homestay trước mắt tôi là tác phẩm hoàn hảo của hai vợ chồng người hoạ sĩ này. Một không gian, một khu xóm, một ngôi làng ở đây chính là một góc Hòa Bình thu nhỏ. Những thổ dân gặp gỡ chúng tôi đều hồ hởi, chào hỏi, nụ cười, ánh mắt họ thật thân thiện. Không biết từ khi nào, ngôi làng nhỏ này được mang cái tên: Bích Hoạ. Một cái tên có vẻ như chỉ để giải thích về việc hầu như trên tường nhà nào cũng được vẽ những bức tranh.
Buổi chiều, cô chủ Homestay đưa chúng tôi ra cánh đồng rau sau nhà. Tuy không bao la như ở đồng bằng nhưng khu vực này cũng khá rộng. Cả một thung lũng xanh tươi nào rau cải, su hào, cà chua, ngô, sắn.. mướt một màu, không những cung cấp đủ rau xanh, sạch cho làng bản mà còn bán cho những người thu mua đến từ thành phố. Những người nông dân chăm chỉ đang mải mê chăm sóc thửa ruộng của mình. Thấy chúng tôi qua, họ dừng tay chào mời vui vẻ như quen biết từ lâu. Xa xa, cuối tầm nhìn của tôi là những dãy núi xanh ngăn ngắt, um tùm cây cối. Nghe dân ở đây nói, trên núi là những rừng cây rậm rạp, có chỗ được phân chia cho các hộ gia đình trồng và có chỗ còn nguyên bản hoang sơ, rất nhiều loại cây thuốc quý như ba kích, hà thủ ô, cát sâm, khúc khắc… mọc lên ở đó. Người dân ở đây mỗi ngày đi vào rừng tìm cây thuốc nam, bắt rắn, bắt ong lấy mật. Xưa nay, rừng vốn là nguồn sống của bà con vùng cao. Việc vào rừng của họ cũng giống như việc đi vào những nhà máy, xí nghiệp ở miền xuôi – là công việc thường ngày!
Hoàng hôn ở miền núi cao đến chầm chậm và mang theo vẻ bình yên. Rất lâu rồi, tôi mới lại nhìn thấy cảnh đốt lửa trên cánh đồng. Nhìn những cụm khói bốc lên cao, bỗng dưng thấy nhớ cánh đồng quê xưa, nhớ cảnh tụi trẻ trâu đốt lửa hun chuột trên những thửa ruộng vừa qua vụ gặt.
Ở nơi đây, như chưa hề có sự ồn ã, khói bụi ô nhiễm – hệ lụy của cái gọi là công nghiệp hóa. Môi trường sống trong lành, yên ả, hơi thở dường như cũng dễ chịu hơn nơi thị thành đông đúc.
Từ vài chục năm trước, ở đây đã có những máng nước nhỏ được xây bằng đá đem theo dòng nước trong vắt chạy quanh khắp cánh đồng. Ở địa hình rừng núi gập ghềnh này, việc đầu tư cho tưới tiêu cũng là cả một vấn đề ưu ái, quan tâm của chính phủ đến cuộc sống lao động sản xuất cho bà con nông dân các dân tộc miền núi.
Phía đông khu Homestay, qua cây cầu Ngoã treo ngang suối sang bên kia là làng Ngoã của người Thái. Dòng nước dưới chân cầu bắt nguồn từ đâu không rõ, mùa đông, nước lững lờ như không chảy. Nhưng mùa lũ, theo lời kể của người dân ở đây, có khi nước dâng lên ngập cầu (ước chừng tới năm, sáu mét), rất nguy hiểm. Cũng may, hai bên bờ suối có những khóm tre già đan vào nhau, kết thành lũy vững chắc. Nhờ chúng mà trải qua nhiều năm tháng, đất đôi bờ hạn chế được sói mòn. Những nhà dân quanh đó cũng an tâm hơn về mùa lũ.
Mải mê ngắm rặng tre soi bóng xuống dòng nước, nhớ lại những câu văn, câu thơ thầy cô giảng mà thêm yêu những lũy tre xanh Việt Nam biết bao.Làng Ngoã cũng như hầu hết những làng bản vùng cao nước ta, giờ còn lại rất ít những ngôi nhà sàn, cũng hiếm có nhà cao tầng. Trong làng chủ yếu là những ngôi nhà cấp bốn được xây dựng rất đơn giản, nhà cách nhà bằng những nếp phên đan bằng tre nứa, chủ yếu để ngăn không cho gà vào vườn.
Những phong tục tập quán lâu đời của họ, vì những lý do lịch sử đã thay đổi rất nhiều. Tuy nhiên, một số lễ hội như “Xên Mường”, mỗi năm, nếu không có dịch bệnh, người dân vẫn tổ chức để cầu cho một năm mưa gió thuận hòa, mùa màng bội thu. Lễ hội “mừng cơm mới” cũng vẫn được duy trì như một lời nhắc nhở mọi người về lòng biết ơn đối với tổ tiên cũng như sự thành kính, cảm tạ đất trời sau mỗi vụ thu hoạch.
Đang giữa mùa đông, thời tiết vùng cao khá lạnh, nhất là khi đêm xuống. Đêm yên tĩnh, nghe rất rõ tiếng dế, tiếng côn trùng rỉ rả, một cảm giác rất đỗi thân thuộc chẳng khác gì như đang ở làng quê của mình. Có lẽ độ cao, thời tiết và thổ nhưỡng ở đây là điều kiện thuận lợi cho nhiều loài thực vật hấp thụ tinh túy đất trời và trở thành những cây thuốc nam quý có tác dụng chữa bệnh. Người dân tộc Thái Hòa Bình thường rất rành về các loại cây thuốc. Mỗi lần đi rừng kiếm được, họ lại đem về bán cho thương lái hoặc những nhà thuốc ở miền xuôi. Ở đây, cũng có một cơ sở thu mua và sơ chế cây thuốc để cung cấp cho cả công ty dược trung ương với số lượng mỗi lần tới vài tấn.
Sáng hôm sau, chờ mặt trời lên, sương tan cho đỡ giá buốt, tôi đi vào xóm cùng cô hoạ sĩ – chủ khu Homestay với ý định tìm hiểu thêm về một số sản vật của núi rừng Tây Bắc. Một cô gái Thái còn rất trẻ nhưng am hiểu về nghề thuốc đã nhiệt tình chỉ dẫn cho tôi những điều muốn biết. Nghe nói ông bà nội của cô là những thầy lang nổi tiếng. Tất cả những bài thuốc chữa bệnh hiện nay mà cô giữđược đều do họ truyền lại. Cũng theo cô, làm nghề thuốc, phải có duyên mới nắm bắt được những bí truyền của ông cha. Đồng thời, người làm nghề thuốc phải có tâm, đam mê, chịu khó tìm tòi, học hỏi. Nhìn kho chứa là cả một sàn nhà rộng trên năm mươi mét vuông, đầy ắp đến hàng trăm loại cây lá, củ quả mới thấy được sự trù phú của tài nguyên rừng quanh đây thế nào. Người Thái Mai Châu thường xuyên sử dụng những bài thuốc gia truyền từ những loài cây thuốc nam. Những cô gái Thái nhỏ nhắn, da dẻ hồng hào, sức khỏe dẻo dai. Có người vừa sinh con xong hôm trước, hôm sau đã có thể ra nương, lên rẫy làm việc bình thường. Nghe khó tin nhưng chuyện đó không có gì đáng ngạc nhiên với họ.
Suốt cả vùng đất rộng tới 4 600 km2 của tỉnh Hòa Bình; từ Tân Lạc, Cao Phong, Mai Châu đến hồ nước sông Đà…nhiều nơi phong cảnh hữu tình, kì vĩ được ví như Vịnh Hạ Long trên núi. Những thung lũng huyền bí, mang vẻ đẹp diệu kỳ! Nhà máy thủy điện Hòa Bình cũng là niềm tự hào về một công trình thế kỷ của những người dân nơi đây.
Hiện nay, không chỉ có vợ chồng người hoạ sĩ này mà còn rất nhiều nhà đầu tư thông thái muốn chọn mảnh đất Hòa Bình để xây dựng mô hình khu du lịch sinh thái cộng đồng, làng bản.
…Tạm biệt một nơi thanh bình, thơ mộng đầy ắp tình nghĩa bản làng, hẹn ngày gặplại. Tôi cảm thấy có đủ niềm tin để chắc chắn lần sau, khi tôi trở lại, rất nhanh thôi, không chỉ riêng thôn Mai Hịch mà cả xứ Mường này cũng sẽ trở thành bức tranh đẹp, sinh động và hoàn mỹ hơn hôm nay.
Hải Phòng tháng 12/2021! Q