Hữu Loan, Đèo Cả – Đặng Tiến


Hữu Loan (1916 -2010) là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca Việt Nam đương đại từ non 70 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự.

Hữu Loan (1916 -2010) là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca Việt Nam đương đại từ non 70 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự.

 

Nhà thơ Hữu Loan

 

Màu tím hoa sim, làm trong thời chống Pháp, 1949, là bài thơ nổi tiếng nhất, nhưng nhiều người nhắc nhở, đôi khi không phải vì lý do văn học, thậm chí còn làm nhiễu lý luận văn chương.

Khắc họa chân dung văn học chân chính và phức tạp của Hữu Loan là việc khó nhưng trước sau cũng phải làm.

Ông tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2.4.1916, dường như đúng là 1914, tại làng quê, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, và qua đời cũng tại đây, ngày 18.3.2010. Qua non một trăm năm dâu biển, sinh và mất cùng một xóm quê, chỉ một việc ấy thôi, đã là nét đặc biệt, trong nhiều đặc biệt khác của Hữu Loan.

Ông thường kể lại là mình xuất thân từ một gia đình nông dân tá điền nghèo. Nhưng chắc là không nghèo lắm đâu, nên mới được học và đỗ tú tài năm 1938. Thời đó bằng tú tài là học hàm cao: với văn bằng này Xuân Diệu đã đi làm Tây Đoan, Vũ Hoàng Chương đi làm thanh tra hỏa xa, còn Hữu Loan thì không dính dáng gì đến quan trường. Thỉnh thoảng giận đời – dăm ba lần trong đời – ông đã bỏ bút mực về quê cầy ruộng, đánh cá, từ 1958 thì đi xe thồ chở đá nặng nhọc. Cũng lại là điều không giống ai.

Ông cưới vợ giàu và gia thế, dù cho bà ấy có mất sớm, thì nếu muốn nhờ cậy, ông vẫn có nơi nương tựa, nhất là nhờ vào “ba người anh đi bộ đội”, trước kia là học trò ông dạy kèm trong nhiều năm, về sau hai người là chức trọng quyền cao. Cũng là nét đặc thù. Lại nhiều chi tiết khác, tổng hợp lại, có thể vẽ lên chân dung Hữu Loan. Ông có chìm nổi, có gian lao thật, nhưng là cuộc đời ông chọn lựa làm một “khúc gỗ vuông chành chạnh”; lịch sử có eo ép thật, nhưng là lịch sử chung; hoàn cảnh riêng ông, có phần do ông tạo ra, không phải là quy luật hay định mệnh.

Điều thiệt thòi cho ông là: khi nhắc đến Hữu Loan, ít người quan tâm, bàn luận đến những đóng góp của ông vào nghệ thuật thi ca từ thời 1945 đến nay. Ít nhiều cũng do chính bản thân ông không mấy quan tâm, dù ông là một trong những người đi tiên phong trong việc cách tân thơ Việt Nam.

 

Hữu Loan ở Đà Lạt năm 1988

 

Bắt đầu là bài Đèo Cả, làm năm 1946:

 

Đèo cả! Đèo Cả

Núi cao ngút

Mây trời  Ai Lao

Sầu đại dương

Dặm về heo hút

Đá Bia mù sương

Bên quán “Hồng Quân” người ngựa mỏi

Nhìn dốc ngồi than,

Thương ai lên đường!

Chầy ngày lạc giữa núi

Sau chân lối vàng xanh tuôn

Dưới cây bên suối độc

Cheo leo chòi biên cương

(…) Rau khe, cơm vắt

Áo phai màu sa trường

Ngày thâu vượn hú

Đêm canh gặp hùm lang thang

 

Trên báo Văn nghệ, Việt Bắc, số 7, tháng 12-1948, trong mục Tiếng Thơ, Xuân Diệu đã giới thiệu trích đoạn này trong bài viết tại Vĩnh Yên, ngày 23.11.1948:

“Tôi yêu, tôi phục bài thơ hoang vu Đèo Cả. Một Đỗ Phủ của thời mới đã gọi cái đèo chênh vênh ấy, đứng trong đất nước ta, đứng giữa Phú Yên với Khánh Hòa, mà lại hóa thành heo hút quá. Vì bên này là ta, bên kia là giặc. Nhất là khi chiến tranh chưa lan toàn quốc, từ Bắc Bộ, đi suốt vào Đèo Cả, lên Đèo Cả thấy bên kia giặc rắc tai ương. Đèo Cả biên thùy, đứng trên đầu bể thẳm đụng tới mây cao, Đèo Cả treo giữa biên thùy, mà cái đẹp trầm hùng ngang với lòng chiến sĩ” (tr.35).

Xuân Diệu viết hào hứng, vì rung cảm trước bài thơ, chứng tỏ giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Ông không đề xuất tên tác giả, có lẽ vì bài thơ không ký tên, được đăng trên báo Chiến Sĩ, của Quân khu IV, in tại Vinh, số 8, năm1947 ; lý do không ký tên có lẽ vì chính tác giả Hữu Loan làm chủ biên. Lại là một nét đặc biệt.

(Khi in lại bài này trong cuốn Tiếng thơ, tr 23, nxb Văn Nghệ, 1954, Xuân Diệu nêu tên tác giả: Hữu, và thay “một Đỗ Phủ của thời mới”, bằng “một nhà thơ”. Vẫn không nêu rõ danh tính Hữu Loan).

Bài Đèo Cả,  làm trong chiến dịch Nam Tiến; không khí nhắc đến những bài thơ đồng thời, như Nhớ máu của Trần Mai Ninh, làm xong ngày 9.11.1946 tại Tuy Hòa, hay bài Ngoại ô mùa đông 46 của Văn Cao, cùng đăng trên báo Văn nghệ, năm 1948.

Cùng một mạch thơ, khoảng cuối 1950, đầu 1951, Hữu Loan có bài Tình Thủ đô được bè bạn ghi theo trí nhớ, và tác giả đã duyệt lại:

 

Trên những chuyến xe bò

đi về đường Trèm Vẽ

Việt Bắc âm u

Đường dài Thanh Nghệ

Người Thủ đô tản cư

Đoàn xe bò

Chở nặng tâm tư

Một góc nhà

Một hè phố

Mắt em biếc

Một chiều xưa

(…) Những người bắt sống Le Page và Charton

Những chiến sĩ Cao Bằng – Đông Khê

Những binh đoàn biên giới

Đang chuyển về Trung Du

Như đi từng dãy núi

Kẹp vòng quanh ngoại vi Thủ đô.

 

(trích theo Dương Tường, phụ lục “Chỉ tại con chích chòe”, nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2009)

Bài này đã phảng phất ít nhiều hơi hướm, tình cảm lãng mạn, như trong Màu tím hoa sim, viết về người thật và việc thật xảy ra trong đời Hữu Loan: người vợ trẻ mới cưới, tên là Lê Đỗ thị Ninh, chết vì tai nạn – té xuống sông Chuồn khi giặt giũ – ngày 25 tháng 5 âm lịch 1948 (theo lời kể của Hữu Loan).

 

Nàng có ba người anh đi bộ đội

(…) Tôi người Vệ quốc quân

xa gia đình

Yêu nàng như tình yêu em gái

Ngày hợp hôn

nàng không đòi may áo mới

(…) Tôi ở đơn vị về

cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa

nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến chinh

mấy người đi trở lại

(…) Nhưng không chết người trai khói lửa

mà chết người gái nhỏ hậu phương

Tôi về không gặp nàng

(…)

Sự việc, tự nó đã buồn. Nó còn bi thảm hơn nữa khi người đọc tưởng tượng ra cảnh người vợ chết vì bom đạn, và qua lời thơ bi thiết:

 

Những chiều hành quân

qua những đồi sim

Màu tím hoa sim

Tím cả chiều hoang biền biệt

Nhìn áo rách vai

Tôi hát trong màu hoa…

 

Cái chết ở đây là do tai nạn, thời nào, nơi nào, cũng có thể xảy ra: nhưng đã xảy ra trong thời chiến tranh; và tác giả lại khéo lồng vào khung cảnh khói lửa:

Ba người anh từ chiến trường Đông Bắc

Được tin em gái mất

trước tin em lấy chồng…

 

Do đó bài thơ có giá trị truyền cảm và biểu tượng mạnh mẽ, giới văn học ngày nay gọi là “liên văn bản”. Điều này không loại trừ chất nghệ thuật của tác phẩm và tài năng của Hữu Loan, nhưng thời đại cũng đã góp phần hậu thuẫn cho tác phẩm. Chứ trong một chừng mực nào đó, màu tím hoa sim ở đây là hồi quang của hai sắc hoa ti gôn, nổi danh một thời của TTKh.

Riêng cái màu tím ấy, nó đi vào văn học từ bao giờ, bằng con đường nào, vì lý do gì, thì cũng cần khảo sát, chưa chắc gì nó đã đến từ “những đồi sim” trong thực tế. Nguyễn Du, quê vùng ấy, tự xưng là “thợ săn” vùng ấy, trong truyện Kiều đã dùng nhiều màu, ngoại trừ màu tím. Lưu Trọng Lư, cũng là người địa phương, nhiều lần mô tả rừng sim, trái sim, mà không nói đến hoa sim. Bùi Giáng, trong nhiều năm, đã chăn dê, chăn bò trong rừng sim vùng cận sơn, cũng không gợi lên màu “tím chiều hoang biền biệt”. Đây là một đề tài văn học cần được khảo sát, trước khi lớn tiếng tuyên dương bài thơ này, bài thơ kia là… hay nhất thế kỷ (!!!).

Chưa kể là bài thơ Màu tím hoa sim, khi ra đời, đã bị ngăn chặn, vì tính cách bi quan, “phản chiến” của nó, trong giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Bài thơ miêu tả sự thật mà bị cấm đoán thì càng được truyền tụng, nhất là về phía “bên kia”. Ngay khi bài thơ ra đời, 1949 tại khu Bốn, Phạm Duy đã phổ nhạc, nhưng chỉ công bố tại Sài Gòn từ 1971; tại khu Năm, Phan Huỳnh Điểu cũng đã phổ nhạc, nhưng… dấu tiệt.

Bài thơ in lần đầu, theo trí nhớ của tôi, là 1955 tại Huế, trong “Tuyển tập thi ca tranh đấu hòa bình”, tôi có đọc, nhớ mang máng đâu là Nhà xuất bản Anh Minh, tại miền Nam thời đó. Đồng thời đã được nhiều người (Dzũng Chinh, Duy Khánh, Anh Bằng…) phổ nhạc ca hát tràn lan, và phái sinh một số sáng tác kiểu “Mùa hoa sim nở”, 1956, tập thơ của Đỗ Tấn (1927- 1984), mô tả tâm sự người vợ có chồng đi tập kết ra Bắc (ghi theo trí nhớ):

 

Lấy nhau vừa đúng mười hôm chẵn,

Và chỉ mười hôm, e thế thôi,

Độ rày sim nở,

Tím sim là tím làn môi,

Là tím cuộc đời trong giá,

Là tím tình ta đã lỡ rồi…

Ai người gây nên màu tím,

Tím sim trên núi trên đồi,

Tím sim cho lòng lạnh lắm,

Buồn vương hiu hắt mái gồi…

Anh có về không hở anh,

Chim không đậu nữa trên cành,

Bình hoa đổ nát,

Bên ngoài tiếng gió reo nhanh…

 

Hay bài thơ được phổ nhạc “hoa trắng thôi cài trên áo tím” của Kiên Giang, cũng được diễn xướng tùm lum. Tại miền Bắc, sau đó, dường như in trong một số báo Trăm Hoa, Hà Nội, 1956, do Nguyễn Bính làm tổng biên tập. Năm 1990 đã được  Nhà xuất bản Hội Nhà Văn in trong một tập thơ cùng tên “Mầu tím hoa sim” (Chữ Mầu có dấu mũ).

Trong nguồn thơ kháng chiến tiếp nối, tháng 12 năm 1956, Hữu Loan có bài mừng xuân “Ôm Tết vào lòng”, phấn khởi sau chiến thắng và hòa bình, nhưng vẫn còn bầm tím vết tích của chiến cuộc:

 

Tết và mùa xuân

Như mắt người ứa lệ

Những người đầu tang còn

Rối tóc rối khăn

Ôm Tết vào lòng

Băng bó lại mùa xuân

Cùng nói lên

nói lớn

một lần

Không được giẫm lên mùa xuân

Không được giẫm lên Tết nữa

Không được

giẫm chân lên

lòng người.

(Giai Phẩm Xuân 1957, nxb Văn Nghệ, Hà Nộị)

“không được giẫm lên lòng người” là một khuynh hướng trong tâm đạo Hữu Loan, thiết tha với tự do, thường xuyên phản kháng. Ông can dự vào phong trào Nhân văn giai phẩm, và trên Giai phẩm mùa thu, tập 2, ông có bài “Cũng những thằng nịnh hót”, làm tháng 9-1956:

 

Một điều đau xót

Trong chế độ chúng ta

Trong chế độ Dân chủ Cộng hòa

Những thằng nịnh còn thênh thang đất sống

(…) Chúng nó ngụy trang

Bằng tổ chức

bằng quan điểm nhân dân

bằng lập trường chính sách

Chúng nó còn thằng nào

Là chế độ chúng ta chưa sạch

Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết

mọi thằng.

Những người đã đánh bại xâm lăng

Đỏ bừng mặt vì những tên quốc xỉ

Ngay giữa thời nô lệ

Là người, chúng ta

không ai biết

cúi đầu.

Trên Giai phẩm mùa đông, tập 1, tháng 12.1956, ông còn có truyện ngắn “Lộn sòng” mô tả những khó khăn trong đời sống của giáo giới Thanh Hóa.

Thời điểm này, ông đi tham gia cải cách ruộng đất (…). Bà vợ sau của ông, tên Phạm thị Nhu, con nhà địa chủ (…), cùng ông kết hôn 1954.

Năm 1958, sau vụ án Nhân văn Giai phẩm, ông bỏ công việc biên tập viên của Nhà xuất bản Văn Nghệ, bỏ Hà Nội, về Thanh Hóa sống lao động lam lũ và vất vả: đốn củi, thồ củi, thồ đá bằng xe bò bánh gỗ… Ông vẫn dũng cảm và kiên quyết sống bất khuất, nuôi nấng mười người con.

(…)

* * *

Người xưa có câu “cái qua định luận”, đến lúc đậy nắp quan tài mới đánh giá được một đời người. Ngày nay sự việc càng có phần phức tạp hơn.

Nhưng với Hữu Loan qua cuộc đời dài non thế kỷ, sôi nổi, khói lửa, truân chuyên, đánh giá kiểu gì đi nữa thì chúng ta đều phải ghi lại hai điểm son: tài hoa và tiết tháo.

Làm nhớ đến một câu văn tế xa xưa:

Ngọc dầu tan,

vẻ trắng nào phai

Trúc dẫu cháy,

tiết ngay vẫn để./.

Nguồn: Đặng Tiến – VHNA

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder