Trước khi có được công trình nghiên cứu đề cập toàn diện như nêu trên để thoả mãn một phần nhỏ tâm nguyện của bạn đọc; vanhaiphong trân trọng giới thiệu một công trình nhỏ của các chuyên gia văn học ngành GD&ĐT “Khái quát về văn học Hải Phòng giai đoạn từ năm 1975 đến nay”.
Có thể nói đến thời điểm hiện tại, công việc sưu tầm biên soạn bộ tài liệu chính thống có giá trị như một giáo trình văn học cấp thành phố về văn học Hải Phòng qua các giai đoạn lịch sử vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo và xuất bản. Theo chúng tôi được biết, các dạng tồn tại của tư liệu này thường là các nghiên cứu về cá nhân tác giả. Đây cũng là nhiệm vụ nghiêm túc và nặng nề đặt ra cho các nhà văn nhà thơ, lãnh đạo Hội Nhà văn nói riêng và thành phố nói chung, vì Hải Phòng là mảnh đất của ba trạng nguyên đầu triều, rất nhiều tiến sỹ thời trung đại, trong đó còn lưu danh tại Quốc tử Giám (Hà Nội và Huế), rải rác trên địa bàn thành phố có vài chục Lăng nghè hoặc những Đền nghè hiện hữu với tư cách di sản vật thể.
Thời kỳ 30-45, rồi Văn học 45-75 hay sau 1975, Hải Phòng đều có những tác giả lớn có người là hội viên sáng lập Hội NVVN như Nguyên Hồng và mảnh đất đầu sóng cũng có nhiều áng văn chương nổi tiếng góp phần tạo dựng văn đàn Việt…
Trước khi có được công trình nghiên cứu đề cập toàn diện như nêu trên để thoả mãn một phần nhỏ tâm nguyện của bạn đọc; vanhaiphong trân trọng giới thiệu một công trình nghiên cứu của các chuyên gia văn học ngành GD&ĐT “Khái quát về văn học Hải Phòng giai đoạn từ năm 1975 đến nay”. Đây là nội dung “Phần Văn học” trong chương trình Ngữ văn lớp 9 sách giáo khoa Ngữ văn 8-9 (tài liệu giáo dục địa phương Hải Phòng) – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam – 2011. Mặc dù còn những hạn chế, đặc biệt là sơ giản về nội dung, cách đánh giá… nhưng với những nỗ lực của mình, nhóm nghiên cứu đã làm được nhiệm vụ “khái quát” gương mặt văn chương Hải Phòng ở một giai đoạn đầy biến cố.
Vanhaiphong.com
Sau 30 năm chiến tranh, đất nước đứng trước nguy cơ bị tụt hậu, không thể hội nhập với thế giới. Vì thế, yêu cầu đổi mới được đặt ra cấp thiết trên mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội, trong đó có cả văn học. Đổi mới văn học bắt đầu từ việc đởi mới cách nghĩ, cách viết của mỗi nhà văn, sau nữa là sự chuyển mình của cả nền văn học, trong đó có văn học Hải Phòng.
Trước hết nói về sự thay đổi vè đội ngũ. Vào thời điểm này, đội ngũ nhà văn Hải Phòng có sự lưu chuyển lớn trên nhiều bình diện. Sau ngày đất nước thông nhát, có sự chuyển vùng ồ ạt của các nhà văn, nhà thơ. Vân Long, Hoàng Hưng, Trúc Chi, Nguyễn Tùng Linh, Thanh Tùng,… khoảng chục năm sau đến lượt Nguyễn Quang Thân, Chu Văn Mười chuyển đi. Vũ Hoàng Lâm, Cao Năm, Phạm Ngà, Lưu Văn Khuê, Đình Kính, Nguyễn Dậu, Đoàn Lê, Mai Vui, Duy Khán và gần đây nhất là Vũ Thành Chung, Kim Chuông trở về. Đây cũng là thời điểm xuất hiện các tác giả mới. Có những người cầm bút từ những năm 1960 hoặc thuộc “lứa chống Mĩ” đến nay thực sự thành công như Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Hồng Quang, Hoài Minh, Nguyễn Hồng Văn, Trần Tự. Có những người mới bước vào sự nghiệp nhưng sớm được khẳng định như Dư Thị Hoàn, Mai Văn Phấn, Nguyễn Minh Dậu, Bão Vũ, Trần Thị Hằng, Vũ Thị Huyền, Đồng Đức Bốn, Hoài Khánh, Tô Ngọc Thạch, Phạm Vân Anh, Nguyễn Quốc Hùng,… Sự lưu chuyển và bổ sung mạnh mẽ về đội ngũ các nhà văn có tác động to lớn đến sự phát triển của văn học: một mặt, đem đến sự giao thoa giữa văn học Hải Phòng với văn học các miền khác; mặt khác, đem đến sự giao thoa về phong cách giữa các thế hệ nhà văn. Tựu trung, sự thay đổi mạnh mẽ về đội ngũ báo hiệu một sự đa dạng, tươi trẻ của văn học ở một thành phố cửa biển.
Thứ hai, cũng như toàn bộ nền văn học Việt Nam trong thời kì đổi mới, nói đến văn học Hải Phòng sau năm 1975 là phải nói đến sự đổi mới trong quan niệm về văn học, quan niệm về con người và sự tìm tòi, đổi mới trong cách viết của đội ngũ nhà văn.
Một điều cũng đáng nói là về thể loại. Nếu như những năm 1955 – 1975 chủ yếu là truyện ngắn, các thể kí và thơ ngắn thì từ sau năm 1975 xuất hiện khá nhiều tiểu thuyết và trường ca.
1.Văn xuôi Hải Phòng trước yêu cầu đổi mới
Thành tựu đổi mới của văn học Hải Phòng từ năm 1975 trở lại đây tước hết phải ghi nhận ở văn xuôi. Các cây bút văn xuôi vốn có lợi thế xông xáo, bám sát hiện thực cuộc sống bộn bề thì giờ đây, người ta dễ dàng nhận thấy sự đổi mới trong cách các nhà văn hướng về các vấn đề của hiện thực, mở rông đề tài và tiếp cận hiện thực với cái nhìn nhiều chiều. Nếu như văn xuôi Hải Phòng trước năm 1975 tập trung vào đề tài lao động sản xuất và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thì ngòi bút của các nhà văn Hải Phòng giờ đây đã hướng tới nhiều vấn đề khác của cuộc sống và con người, với những điểm nhìn đa dạng, rộng rãi hơn. Nếu như nói đến văn học Việt Nam thời kì đổi mới, người ta không thể không nhắc tới Thời xa vắng của Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp thì quá trình chuyển mình của văn xuôi Hải Phòng từ sau năm 1975 không thể không nhắc đến những sáng tác của Nguyễn Quang Thân, Đoàn Lê, Trần Tự, Bùi Ngọc Tấn, Đình Kính, Bão Vũ, Trung Trung Đỉnh,…
Nguyễn Quang Thân thể hiện sự đổi mới trong việc khai thác mảng đề tài về đời sống thành thị sau chiến tranh. Cho đến nay, nhà văn Nguyễn Quang Thân đã là tác giả của trên mười tập truyện ngắn, truyện viết cho thiều nhi và bốn tiểu thuyết. Trên phạm vi cả nước, khi nói về tiểu thuyết Việt Nam thời kì này, người ta thường dẫn ra một số tác phẩm quen thuộc như Thời xa vắng của Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh; Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường;… Một thời hoa mẫu đơn và Ngoài khơi miền đất hứa là hai tiểu thuyết ngắn nằm gọn trong khoảng thời gian vẫ được coi là cao trào của văn học Việt Nam thời kì đổi mới (1986 – 1992) của nhà văn Nguyễn Quang Thân. Nếu như tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này tập trung vào hai đề tài chiến tranh và nông thôn thì Một thời hoa mẫu đơn và Ngoài khơi miền đất hứa của Nguyễn Quang Thân là hai trong số ít những tiểu thuyết thời đó đã trực diện khai phá mảng đề tài cuộc sống thành thị sau khi đất nước đã trải qua hơn mười năm hậu chiến. Cụ thể hơn, chúng đặt vấn đề về hạnh phúc và giá trị con người trong một đời sống đầy biến động bởi quá trình chuyển đổi cơ chế quản lí xã hội đang còn dang dở. Thêm nữa, cách khai thác và thể hiện vấn đề của tác giả trong hai tiểu thuyết này thấm nhuần tư tưởng nhân văn mới mẻ. Các nhận vật của Nguyễn Quang Thân mặc dù phải sống trong bối cảnh môi trường được vẽ ra với rất nhiều gam màu u ám song con người ở đây vẫn tràn đầy ý chí, sự lạc quan và niềm tin vào sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện trước cái xấu, cái ác; của công lí trước những ngang trái. Và cuối cùng thì con người ở đây vẫn luôn nhìn thấy sức sống và vẻ đẹp của đóa hoa mẫu đơn trên mặt đất còn nhiều lấm láp ở Một thời hoa mẫu đơn và chấp nhận thách thức của những mắt bão để dấn thân và sống ở Ngoài khơi miền đất hứa! Nguyễn Quang Thân đã làm được điều đó, với tất cả ý thức công dân của một nhà văn. Đối chiếu hiện thực trong hai mươi năm nay, có thể nói rằng, nhà văn đã thực hiện được cái mà các nhà lí luận vẫn gọi là chức năng dự báo của văn chương! Về ngôn ngữ, ông cũng có những đổi mới mạnh mẽ, đưa vào trang văn cái giọng của đời sống. Có thể nói, Một thời hoa mẫu đơn và Ngoài khơi miền đất hứa đã cho thấy sự dấn thân của Nguyễn Quang Thân vào đời sống ở thì hiện tại tiếp diễn, ở chính “mắt bão” của đời sống ấy. Một thời hoa mẫu đơn và Ngoài khơi miền đất hứa ra đời trong xu thế đổi mới của đất nước, còn bao nhiêu khó khăn, bộn bề, lạ lẫm. Sự dấn thân quyết liệt của nhà văn đã sản sinh ra những bức ảnh hiện thực trần trụi đến tàn nhẫn về đời sống xã hội. Không phải ai cũng thích thú và vui vẻ chấp nhân điều này. Có lẽ vì thế mà hai tiểu thuyết của Nguyễn Quang Thân có thể gọi là nốt trầm trong bản hòa ca của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới.
Nhà văn Đoàn Lê vốn có sở trường về truyện ngắn và có thiên hướng quan tâm tới số phận con người với những đa đoan, cho nên bước vào thời kì đổi mới, nhà vẵn đã nhanh chóng tìm thấy nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào. Trong tác phẩn Đoàn Lê, những phát hiện về cuộc sống được thể hiện qua một hệ thống những hình ảnh biểu tượng, ngôn ngữ được gọt giũa công phu. Niết Bàn rực cháy là truyện ngắn tiêu biểu mà ở đó nhà văn gửi đi một thông điệp: con người hãy trở về với chính mình. Nhưng phải đến tiểu thuyết Cuấn gia phả để lại, ngòi bút Đoàn Lê mới thực có những đổi mới sâu sắc. Cuốn gia phả để lại trước hết mới ở vấn đề mà nó đặt ra. Đó là những xung đột trong dòng họ. Sự đổi mới lớn nhất trong phương thức thể hiện của Đoàn Lê là cách lựa chọn và nghệ thuật khắc họa nhân vật. Nhân vật của Đoàn Lê dường như không phải là một con người cụ thể mà là một đám đông. Nhân vật bị nhấn chìm trong các sự kiện. Nó trở nên bé nhỏ, đáng thương khi bị chi phối bởi một ai đó, một cái gì đố không cụ thể nhưng đầy sức mạnh. Cách chọn nhân vật, cách tổ chức nhân vật như thế khiến cho những độc giả chưa tiếp cận kịp với thi pháp văn học đương đại có cảm giác cách viết của Đoàn Lê lỏng lẻo, mờ nhạt. Nhưng đó chính là biểu hiện của những nỗ lực, tìm tòi ở nhà văn này trong việc cách tân, đổi mới.
Những năm đầu thời kì đổi mới, Giải thưởng văn học về đề tài công nhân là một giải thưởng khá uy tín. Chu Văn Mười với tiểu thuyết Biển xanh (1978) và Nguyên Bình với tiểu thuyết Những ngày đã qua (1980) đã được nhận giải thưởng này.
Xuất hiện vào thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX, tương đối muộn so với tuổi đời của mình nhưng Bão Vũ đã ngay lập tức chiếm được cảm tình của bạn viết và bạn đọc cả nước với những truyện ngắn liên tiếp được giới thiệu trên báo Văn nghệ, liên tiếp giành được giải cao nhất trong các cuộc thi về thể loại này, liên tiếp được xếp vào topten truyện ngắn hay trong năm của báo Văn nghệ và các tuyển tập của các nhà xuất bản. Và trong mươi, mười lăm năm trở lại đây, Bão Vũ tiếp tục cho xuất bản gần 10 đầu sách, trong đó có tập Mây núi Thái Hàng giành Giải thưởng của Hội Nhà văn năm 2000 và được đề cử giải thưởng văn học ASEAN. Một số truyện của Bão Vũ đã được dịch ra tiếng Anh như Vết thương trong không gian; Cô gái không biết khóc; Đào nương;… và có đến gần chục truyện được dựng thành phim khiến tên tuổi Bão Vũ vượt ra khỏi phạm vi văn học Hải Phòng, trở thành một hiện tượng văn học thời mở cửa.
Sự mở cửa, hội nhập của xã hội đã khiến trong văn học xuất hiện nhiều khuynh hướng sáng tác, nhiều các tính sáng tác và sự xuất hiện của Bão Vũ vào lúc này là rất hợp thời. Bão Vũ (tên khai sinh là Vũ Bão) vốn là kiến trúc sư giỏi ở thành phố Cảng, từng được đi nhiều nước châu Âu, châu Á. Đi nhiều, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, lại có tài năng nhiều mặt nên Bão Vũ đã đưa vào trang viết của mình những hiểu biết phong phú, sự lịch lãm và từng trải. Nhà văn Bão Vũ quan niệm: nhà văn đích thực là người luôn ý thức về sự sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị lâu bền. Một mình một hướng bay, một tầm bay, ngay từ đầu Bão Vũ đã tự xác định cho mình một lối đi riêng để không bị sa vào cái dòng chủ lưu tưởng chừng không ai cưỡng nổi của thứ văn chương thời vụ. Nhà văn tập trung sức sáng tạo để đi tìm giá trị bền lâu của tác phẩm. Tác phẩm của Bão Vũ vì vậy mà trụ được với thời gian, một mặt vẫn phản ánh hiện thực một cách rõ nét, mặt khác vẫn mang tính phổ quát, gợi mở cho người đọc suy ngẫm về những vấn đề thuộc về muôn thuở, đúng như nhận xết trên website của Hội Nhà văn khi giới thiệu về Bão Vũ: “Tác phẩm của Bão Vũ có cái biến hóa của một người trải qua lắm cung bậc đời thường mà tâm hồn có khát vọng thẩm mĩ; có cái lịch lãm của người sống nhiều, sống kĩ và trân trọng cuộc sống vì ông chỉ chia sẻ với bạn đọc những điều thú vị với giọng văn anh ánh lên niềm sang trong ngay cả khi tác giả kể về những kẻ bụi đời hay những cảnh huống dưới đáy…”. Có thể thấy rõ điều này trong các truyện ngắn Trầu têm cánh phượng, Thung lũng ngàn sương, Hậu thân của Đêgavati, Lãng tử, Người đi chuyến taxi cuối ngày, Vết thương trong không gian, Ván bài tỉ điểm tử,… và đặc biệt là cuốn tiểu thuyết Vĩnh biệt vườn địa đàng hơn 500 trang viết về thân phận của những người Việt trong cuôc mưu sinh nơi đất khách quê người thời hội nhập.
Sáng tác của Bão Vũ, từ truyện ngắn tới tiểu thuyết đều có phong cách riêng. Cốt truyện lôi cuốn, vấn đề giàu chất văn hóa, văn phong sang trọng, chậm rãi. Văn xuôi Bão Vũ gợi cho người đọc liên tưởng đến những trang viết của các nhà văn lãng mạn Pháp, những trang viết của Nguyễn Đình Thi về Hà Nội xưa trong Vỡ bờ, những trang viết của Nguyễn Huy Tưởng trong Sống mãi với thủ đô. Ngày nay, khi mà cá nhà văn thường viết về đề tài thành thị với giọng điệu dữ dội, lạnh lùng và nghiệt ngã thì cách viết của Bão Vũ là độc đáo.
Nói đến văn xuôi giai đoạn này, không thể không nói đến một nhà văn đến với Hải Phòng, có duyên với biển, đó là nhà văn Đình Kính. Xuất thân là bộ đội thông tin hải quân nên hày hết các tác phẩm của nhà văn Đình Kính đều gắn với biển. Từ tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam viêt về đoàn tàu không số và đường mòn Hồ Chí Minh trên biển – Người của biển – đến biển có gai viết về công việc rà phá thủy lôi phong tỏa luồng vào cảng Hải Phòng rồi Đảo mùa gió, Lính thủy,… Đình Kính đều quan niệm: văn chương muốn sống lâu phải “văng nhanh” ra khỏi vòng quay minh họa các sự kiệm nhằm phục vụ cho một quan điểm nhất thời, phải có tính nghệ thuật cao từ tài năng văn chương trời phú. Người cầm bút tự trọng và có nhân cách phải gắng lao động hết mình trên cơ sở thứ mà trời đã cho ấy. làm được vậy tức là vừa biểu thị sự tôn trong những trang viết của mình, tôn trọng văn chương, vừa tôn trọng người đọc. Với quan niệm đó, Đình Kính đã tìm đến những đề tài dường như đã cũ nhưng để phát hiện chiều sâu cuộc sống, dám đề cập đến những vấn đề nhạy cảm và dám sử dụng các yếu tố biểu đạt táo bạo. Tiêu biểu cho sự táo bạo này phải kể đến tiểu thuyết Cỏ lông chông (giải thưởng Hội Nhà văn năm 2004) và tiểu thuyết Sóng chìm. Sóng chìm lấy đề tài cuộc chiến tranh vệ quốc 30 năm trước nhưng cách tiếp cận khác. Thứ nhất, Đình Kính viết bằng sự trải nghiệm, viết về những gì mình hiểu, viết chân thực như cuộc sống vốn thế. Đây phải chăng là cách viết mà nhà văn Mi-khai-in Sô-lô-khốp chủ trương: “Sự thật táo bạo, sự thật bao trùm”? Thứ hai, nhà văn tiếp cận hiện thực cuộc sống trong sự đa dạng, cởi mở, xôn xao của nó. Thứ ba, dù viết về điều gì và viết bằng bất cứ chất liệu nào, nhà văn cũng đều viết hết sức kĩ lưỡng; viết bằng tình yêu và văn hóa. Sóng chìm của Đình Kính hiện đang gây sự chú ý của độc giả, ý kiến đánh giá đa chiều. Đó cũng là hiện tượng thường thấy ở các tác phẩm văn học ít nhiều gây được tiếng vang.
Trong dòng văn xuôi thời kì này, nhà văn quân đội Trung Trung Đỉnh đã viết Tây Nguyên khác với Tây Nguyên đã có trong tác phẩm của những nhà văn lớp trước. Nhận định về tập 11 truyện ngắn Trung Trung Đỉnh (1997) và một số tiểu thuyết gần đây mà tiêu biểu là Lạc rừng (1999), Nguyên Ngọc (nhà văn từng thu được những thành công rực rỡ về đề tài Tây Nguyên trong những năm chiến tranh) viết: “Trung Trung Đỉnh đã sáng tạo ra một cách viết mới về Tây Nguyên… cái thế giới Tây Nguyên khiêm nhường, lẩn khuất mà tuyệt đẹp ấy… Trung Trung Đỉnh đã cho ta một thế giới Ba-na, một thế giới Gia-rai, đúng hơn, thế gới Tây Nguyên, dường như rất quen thuộc, ta từng mang máng biết, nhưng lại khiến ta sửng sốt vì vẻ đẹp ẩn trong chiều sâu con người nó…”
Về văn xuôi, ngoài Nguyễn Quang Thân với đời sống thị thành trong thời kì đổi mới; Đoàn Lê với sự khánh phá sâu thân phận con người; Đình Kính với đề tài biển, chiến tranh và thân phận con người; Bão Vũ với khát vọng của con người hướng tới cái đẹp,… cần phải kể đến Trần Tự với các tiểu thuyết ra đời trong những năm 1980 – 1990; Bùi Ngọc Tấn với cá tính sáng tạo độc đáo, sâu sắc đã tạo nên ấn tượng sâu đậm; Mai Vui với đề tài “anh bộ đội Cụ Hồ”; Cao Năm với các truyện viết về nông thôn; Lưu Văn Khuê với truyện viết cho thiếu nhi và các tiểu thuyết mang nội dung lịch sử, trong đó có Mạc Đăng Dung,… Đặc biệt, các nhà văn cao tuổi như Phùng Văn Ong, Vũ Hoàng Lâm, Hoài Minh, Nguyễn Hồng Quang vẫn không ngừng đem đến cho người đọc những tác phẩm mới.
Trên những bình diện khác nhau, các nhà văn đề nỗ lực đổi mới. Nhưng nhìn chung, đổi mới trong cách nhìn không phải khi nào cũng đi liền với đổi mới trong cách thể hiện. Các nhà văn còn mang nặng thói quen viết theo chủ nghĩa hiện thực nghiêm ngặt. Tuy nhiên, điều đáng mừng là họ đã chuyển được đề tài, có một cái nhìn đa chiều về hiện thực bộn bề của cuộc sống.
2. Thơ Hải Phòng và những bước chuyển động
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước nước, văn học Hải Phòng xuất hiện một đội ngũ đông đảo các nhà thơ, bước sang giai đoạn sau năm 1975 họ vẫn dồi dào sức sáng tạo và “lứa chống Mĩ” lúc này mới thực sự đạt độ chính. Đó là Dư Thị Hoàn, Mai Văn Phấn, Đồng Đức Bốn, Tô Ngọc Thạch, Phạm Xuân Trường, Nguyễn Thị Thúy Ngoan. Trẻ hơn có Vũ Thị Huyền, Hoài Khánh, Phạm Vân Anh,… Họ có bản sắc riêng, có một cách nhìn và lối thể hiện mới.
Thi Hoàng làm người đọc cả nước ngạc nhiên vì sự sắc sảo, góc cạnh và tài hoa với trường ca Gọi nhau qua vách núi (1995) và tập Bóng ai gió tạt (2001). Ông là một trong những đại biểu xứng đáng của lớp nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, có đóng góp quan trong vào tiến trình đổi mới thơ hôm nay. Tiếng vang của tác phẩm này khiến báo Văn nghệ phải tổ chức một cuộc hội thảo về Bóng ai gió tạt. Và, Bóng ai gió tạt cũng như Gọi nhau qua vách núi đã được Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam trao giải A năm 2001. Năm 2004 thành phố Hải Phòng lại dành thêm một giải thưởng nữa cho tác phẩm này.
Nói đến các nhà thơ Hải Phòng sau năm 1975 không thể không nói đến Đồng Đức Bốn. Thơ Đồng Đức Bốn đa sự, ngậm ngùi và trải đời, vừa giàu tính triết lí như thơ Nguyễn Duy, vừa mộc mạc như thơ Trần Đăng Khoa, nhưng cái thủng thẳng, cái đa cảm đa sầu, cái độ nén của câu chữ thì khó có thể đêm so sánh cùng ai. Chăn trâu đốt lửa, Trở về với mẹ ta thôi,… là tiếng thơ bừng thức của một cái tôi hướng nội, thiết tha đi tìm cái bất biến của kí ức, tâm linh trong cái bề bộn, ngổn ngang, xô bồ của đời sống. Tìm về với gia đình, quê hương, tìm về với những kí ức tuổi thơ, tìm về những giá trị đích thực của đời là thông điệp thiết tha của thơ Đồng Đức Bốn. Về hình thức nghệ thuật, thơ lục bát Đồng Đức Bốn gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân quê, có nhiều trải nghiệm được chuyển tải từ những sự vật, sự việc hằng ngày mà ta dễ bỏ qua. Thơ Đồng Đức Bốn chỉ chấm phá vài chi tiết mà bao tầng đời sống hiện ra vui buồn, ngọt bùi, cay đắng… Với Đồng Đức Bốn, ban đọc ngày càng được củng cố thêm niềm tin về sự phát triển và thành tựu của văn học nói chung, thơ ca của thành phố Cảng nói riêng.
Mỗi nhà thơ một giọng điệu; Mai Văn Phấn độc đáo, mang tính cách tân, gợi mở những suy tưởng; Dư Thị Hoàn súc tích, mới lạ; Hồ Anh Tuấn giàu cảm xúc, chân thành, đằm thắm; Vũ Thị Huyền mềm mại, lắng đọng; Hoài Khánh hồn nhiên với thơ viết cho thiếu nhi…
Trong xu thế thơ ca nở rộ như hiện nay, việc xuất hiện nhiều người làm thơ là điều dễ hiểu và Hải Phòng cũng vậy, tuy nhiên những tên tuổi được dư luận quan tâm không phải là nhiều.
Qua những gương mặt thơ tiêu biểu, có thể thấy các nhà thơ Hải Phòng đã nỗ lực vận động theo yêu cầu đổi mới. Họ đã đưa thơ trở về với mọi mặt đa dạng, phức tạp và sinh động của đời sống. Như quy luật của đại dương muôn đời dạt dào sóng, thơ ca Hải Phòng có lúc trào dâng, có khi dồn nén tích tụ,… nhưng bao giờ cũng thể hiện tâm hồn mãnh liệt, tính cách phóng khoáng của những con người cần lạo thành phố Cảng.
Nhóm biên soạn: NGUYỄN THỊ KIM LAN (chủ biên) – PHAN THỊ LUÝ – DOÃN THỊ PHƯỢNG
—————
Xem thêm: Nghĩ về sắc thái văn học Hải Phòng – Cua Bien
www.cuabien.vn › Lý luận phê bình