Nhân những ngày tháng 4 lịch sử hướng về cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài thơ này để cùng đọc và suy ngẫm.
“Lửa đèn” là bài thơ trong chùm thơ nổi tiếng của nhà thơ Phạm Tiến Duật (Bài thơ về tiểu đội xe không kính ; Gửi em cô thanh niên xung phong) được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970. Sau này bài thơ được đưa vào tập thơ “ Vầng trăng quầng lửa” ( 1970 ) của tác giả và chính những bài thơ thời “Xẻ dọc Trường Sơn” này, cùng với phong cách độc đáo đã đưa Phạm Tiến Duật trở thành nhà thơ hàng đầu của thi ca thời chống Mỹ.
Những bài thơ trong chùm thơ đạt giải của ông đã được đưa vào sách giáo khoa các cấp giảng dạy và được nhiều thế hệ thuộc và được nhiều diễn giả bình luận trên văn đàn (nói và viết); Tuy nhiên, bài thơ ám ảnh nhất giàu sức triết lý Á Đông với yếu tố “Nước”, “Lửa” và đằm thắm chất văn hoá truyền thống nguồn cội Việt là bài thơ “Lửa đèn” lại ít người thuộc dù ai cũng nhắc đến nó.
Nhân những ngày tháng 4 lịch sử hướng về cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài thơ này để cùng đọc và suy ngẫm.
vanhaiphong
LỬA ĐÈN – PHẠM TIẾN DUẬT
I. ĐÈN
Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi có những ngọn đèn thắp trong kẽ lá
Quả cây chín đỏ hoe
Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu
Trỏ lối sang mùa hè
Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu
Thắp mùa đông ấm những đêm thâu
Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu
Chạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng…
Mạch đất ta dồi dào sức sống
Nên nhành cây cũng thắp sáng quê hương
Chúng nó đến từ bên kia biển
Rủ nhau bay như lũ ma trơi
Từ trên trời bảy trăm mét
Nhìn thấy lửa que diêm thắp sáng mặt người
Một nghìn mét từ trên trời
Nhìn thấy ngọn đèn dầu nhỏ bé
Tám nghìn mét
Thấy ánh lửa đèn hàn chớp lóe
Mà có cần đâu khỏang cách thấp cao
Chúng lao xuống nơi nao
Lóe ánh lửa
Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa.
Trên đất nước đêm đêm sáng những ngọn đèn
Mang lửa từ nghìn năm giữ nước
Lấy từ thuở hoang sơ
Giữ qua đời này đời khác
Vùi trong tro trong trấu nhà ta.
Ôi ngọn lửa đèn
Có nửa cuộc đời ta trong ấy!
Giặc muốn cướp đi
Giặc muốn cướp lửa tim ta đấy.
Nơi tắt lửa là nơi tiếng hát
Đòan thanh niên xung phong phá đá sửa đường
Dẫu hố bom kề bên còn bay mùi khét
Tóc lá sả đâu đó vẫn bay hương
Đêm tắt lửa trên đường
Nghe gần xa tiếng bước chân rậm rịch
Là tiếng những đòan quân xung kích
Đi qua
Từ trong hốc mắt quầng đen bóng tối tràn ra
Từ dưới đáy hố bom sâu hun hút
Bóng tối dâng đầy tỏa ngợp bao la
Thành những màn đen che những bào thai chiến dịch
Bóng đêm ở Việt Nam
Là khỏang tối giữa hai màn kịch
Chứa bao điều thay đổi lớn lao
Bóng đêm che rồi không thấy gì đâu
Cứ đi, cứ đi nghe lắm âm thanh mới lạ.
II.THẮP ĐÈN
Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi đêm ngày giặc điên cuồng bắn phá
Những ngọn đèn vẫn cứ thắp lên
Chiếc đèn chui vào ống nứa
Cho em thơ đi học ban đêm
Chiếc đèn chui vào lòng trái núi
Cho xưởng máy thay ca vời vợi
Chiếc đèn chui vào chiếu vào chăn
Cho những tốp trai làng đọc những lá thư thăm…
Ta thắp đèn lên trên đỉnh núi
Gọi quân thù đem bom đến giội
Cho đá lở đá lăn
Lấy đá kê cầu, lấy đá sửa đường tàu
Ta bật đèn pha ô tô trong chớp lòe ánh đạn
Rồi tắt đèn quay xe
Đánh lạc hướng quân thù rồi ta lại lái xe đi…
Ngày mai, ngày mai hòan tòan chiến thắng
Anh dắt tay em, trời chi chít sao giăng
”Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngòai thềm”
Ta thắp đèn lồng, thắp cả đèn sao năm cánh
Ta dẫn nhau đến ngôi nhà đèn hoa lấp lánh
Nơi ấy là phòng cưới chúng mình
Ta sẽ làm cây đèn kéo quân thật đẹp
Mang hình những những người những cảnh hôm nay
Cho những cuộc hành quân nào còn trong bóng tối
Sẽ hiện muôn đời trên mặt ngọn đèn xoay.
1967