Hai câu thơ của Viên Mai (Trung Quốc) từ rất lâu, ở nước ta thường truyền và dùng vào các hoàn cảnh nói về văn chương hay lập nghiệp bằng văn chương. Tuy nhiên cách dùng thường trỏ ý tiêu cực, hạ thấp giá trị của văn chương và những người theo nghề cầm bút. Vậy phải hiểu nó như thế nào về ý hai câu thơ ấy theo tinh thần khách quan nhất?
Hai câu thơ của Viên Mai (Trung Quốc) từ rất lâu, ở nước ta thường truyền và dùng vào các hoàn cảnh nói về văn chương hay lập nghiệp bằng văn chương. Tuy nhiên cách dùng thường trỏ ý tiêu cực, hạ thấp giá trị của văn chương và những người theo nghề cầm bút. Vậy phải hiểu nó như thế nào về ý hai câu thơ ấy theo tinh thần khách quan nhất?
1. Câu thơ Viên Mai và cách hiểu truyền thống của người Việt.
Đây là hai câu thơ trong tập ” Tùy Viên thi thoại ” và bài thơ có tên là ” Vịnh hoài ” (nói lòng mong muốn) – Theo dịch giả Trương Đình Chi quyển 14 – Đoạn 66 – thoại 449, trang 662 ( NXB VN tp HCM).
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương
(Mỗi bữa không quên ghi thẻ trúc,
Lập thân thấp (hèn) nhất ấy văn chương) .
Các văn bản khác có sự sai lệch nhỏ, nhưng không ảnh hưởng tới tinh thần chung của ý thơ. Theo đó hiện đang có văn bản ghi là:
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối tiểu thị văn chương
(Mỗi bữa ăn không quên nghĩ đến ghi thẻ trúc
Lập thân nhỏ bé nhất là làm văn chương).
Trong các nghiên cứu về Phan Bội Châu có nói việc Ông thích ngâm bài thơ của Viên Mai, mà ông dịch là:
Công ở non sông thiêng tấc dạ
Thân nhờ bút mực quá hèn trai.
Khuya sớm những mong ghi sử sách
Lập thân hèn nhất ấy văn chương.
Tuy vậy có người cho rằng các văn bản dịch chữ “Trúc bạch” thành “sử sách” e rằng sai nghĩa; ở đây theo đúng từ nguyên bản trúc bạch không thể là sử sách. Người xưa ghi chép trên thẻ tre hoặc lụa, khi chưa có giấy viết, nói cách khác nó dơn thuần chỉ là “trang giấy” mà thôi. Nếu diễn ra văn xuôi đại ý: mỗi bữa ăn đều ghi vào giấy (Nhật ký/lời tự răn) rằng: lập thân hèn nhất là dùng văn chương.
Cũng đã có nhiều lời bàn của các nhà văn, nhà phê bình và các tác giả khác với nhiều cách hiểu về thông điệp của 2 câu thơ, nhưng dường như chưa tạo ra cách nhìn khách quan toàn diện. Trong khi đó, dư luận từ đời sống dựa trên cơ sở tự hiểu về nội hàm của hai câu thơ Viên Mai, người Việt khi dùng dù theo mục đích khuyên răn, tuyên bố con đường đi của mình hay giễu nhại… đều tập trung gán vào 1 thông điệp: Văn chương là thấp hèn không nên theo đuổi nó, hay không lập thân lập nghiệp bằng văn chương.
Vậy văn chương có thực sự thấp hèn khiến mọi người phải tránh xa như vậy?
2. Hiểu như thế nào cho đúng ý của Viên Mai?
2.1, Văn chương là gì? Có phải Viên Mai tự phủ định chính mình?
Theo cách hiểu của Lý luận văn học hiện đại, thì khái niệm văn chương và khái niệm văn học đồng nhất nhau ở nhiều điểm nhưng lại có sự khu biệt.
Trước hết xét về mặt cấu trúc hình thức: Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống. Khái niệm văn học đôi khi có nghĩa tương tự như khái niệm Văn chương và thường bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, về mặt tổng quát, khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương, Văn chương thường chỉ nhấn mạnh vào tính Thẩm mỹ, sự sáng tạo. Để làm rõ hơn khái niệm này, chúng tôi xin dẫn định nghĩa của học giả Phan Kế Bính – (1875 -1921), là một Nhà báo, Nhà văn nổi tiếng đầu thế kỷ 20 – theo đó, ông đã định nghĩa ngắn gọn rằng: Văn là gì ? Văn là vẻ đẹp. Chương là gì ? Chương là vẻ sáng. Nhời (lời) của người ta, rực rỡ bóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp vẻ sáng, cho nên gọi là văn chương…
Như vậy, mặc dù có những sự khác nhau về khái niệm, song văn học nói chung và văn chương tồn tại như một thực thể khách quan trong thế giới loài người; nó là một công cụ mà nhờ nó con người có thể viết (nói) về chính mình, giống loài mình.
Xét về các giá trị nội dung của văn học và văn chương nói riêng, chúng ta đều thừa nhận chúng có 4 chức năng cơ bản. Theo đó, văn học là bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống (Ăng-ghen), nói cách khác nó tự tạo ra chức năng nhận thức thế giới cho con người khi đọc cảm hiểu. Văn học mang trong nó chức năng giáo dục, thể hiện bằng việc thông qua các hình tượng văn học, ngôn ngữ… nuôi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của con người, vì vậy nhà văn M.Gorki định nghĩa: ”Văn học là nhân học”. Chức năng thẩm mĩ của văn học làm cho tầm vóc con người lớn hơn, đời sống tinh thần trong sáng, phong phú hơn. Ngoài ba chức năng cơ bản trên, văn học còn có chức năng giải trí đem lại sự thư giãn cho con người, góp phần tái tạo sức khỏe và duy trì niềm vui, niềm tin trong cuộc sống.
Từ những phân tích này, có thể thấy vai trò của văn học,/văn chương với cuộc sống xã hội loài người là vô cùng lớn lao. Sẽ trở thành hàm hồ và tăm tối nếu kết luận nó là thứ hạ đẳng và không đáng tôn vinh.
Trở lại với vấn đề, khi viết “lập thân tối hạ thị văn chương” thì Viên Mai là ai?
Viên Mai (1716-1797), tự Tử Tài, hiệu Giản Trai, người đời thường gọi ông là Tùy Viên tiên sinh, người đất Tiền Đường, Triết Giang (Hàng Châu). Đỗ tiến sĩ vào năm Càn Long thứ 4 (1739), từng làm tri huyện nhiều năm. Năm Càn Long thứ 13 (1748), ông từ quan về ở Tùy Viên tại Tiểu Thương Sơn, tỉnh Giang Ninh, ông làm minh chủ tao đàn trong những năm Càn Long, Gia Khánh (đời nhà Thanh TQ). Viên Mai là tập đại thành của nền phê bình lý luận thơ ca cổ điển Trung Quốc, tác phẩm “Tuỳ Viên thi thoại” của ông được đánh giá là đỉnh cao của nền thi thoại Trung Quốc. Ông là chủ thuyết “tính linh” một học thuyết sáng tác thơ.
Đến đây, có thể đặt câu hỏi, một Tiến sĩ Nho học, một người nhờ văn mà thành quan triều đình, một nhà thơ đã lên hàng chủ súy một tao đàn thơ, một chủ thuyết về thơ, liệu có ý dùng câu “lập thân tối hạ thị văn chương” để xóa sổ mình khỏi văn đàn và xã hội? Chắc chúng ta dễ trả lời: không thể có điều này.
Bởi vậy có thể cũng dễ dàng tìm thấy chiếc chìa khóa để mở câu thơ này của Viên Mai đó là khái niệm “Văn chương” trong câu thơ của ông dùng là thứ văn chương nào. Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi đã bắt gặp được một bài thơ của ông, nó có giá trị như một tuyên ngôn về mục tiêu đích thực của văn chương ở góc nhìn Viên Mai, đó là bài thơ Vịnh Nhạc Phi. (Nhạc Phi (1103-1142) là Đại nguyên soái nhà Nam Tống, một trong những vị tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Người Trung Hoa xem ông là anh hùng dân tộc, một bậc sĩ phu dũng liệt trung thần). Toàn bộ bài thơ như sau:
Bản dịch của GS Nguyễn Khắc Phi
Vịnh Nhạc Phi
Bất y cổ pháp đãn hoành hành,
Tự hữu vân lôi nhiễu tất sinh.
Ngã luận văn chương công luận chiến,
Thiên thu nhất dạng đấu tâm binh.
Dịch thơ:
Không theo khuôn sáo cứ ngang tàng
Quanh gối dường như sấm gió vang
Tôi nói văn chương, ông chiến trận
Nghìn thu như một, chí hiên ngang
Không khó để hiểu ý bài thơ này đề cập tới vấn đề tự do phóng túng không cúi luồn của thi ca, đồng thời văn chương phải mang trong nó tính chiến đấu, thi sỹ và chiến sỹ nhà thơ không khác anh hùng chiến trận.
Đến đây có thể thấy không những Viên Mai không khinh rẻ văn chương mà trái lại ông vô cùng coi trọng giá trị thật sự của văn chương “Ngã luận văn chương công luận chiến”- người làm văn khiển những binh đoàn chữ nghĩa chẳng khác nào danh tướng điều binh đánh trận, anh hùng cũng chỉ sánh với nhà thơ, nếu cùng “Chí” hiên ngang. Và “Văn chương” trong câu thơ mà tác giả khinh miệt, rõ ràng là thứ “Văn chương” mang nội hàm khác.
2.2. Nghề văn chương và dụng ý đả kích của người dùng thơ Viên Mai.
Hiện nay khi dùng câu thơ Viên Mai để nói, người dùng và người nghe đều nhầm lẫn “Văn chương” là nghề văn đương đại. Sự thật thời Nho học hoàn toàn không có nghề văn theo nghĩa viết văn chuyên nghiệp để sinh tồn. Kết cấu ngành nghề cơ bản theo Nho học Đông Á căn cốt được xây dựng bởi yếu tố ngũ hành. Theo đó có 5 nghề: Nông là Thổ – phi nông bất ổn; Công là Mộc – phi công bất phú; Binh là Kim – phi binh thất quốc ; Thương là Thủy – phi thương bất hoạt ; Trí là Hỏa – phi trí bất hưng. Bên cạnh đó, nền giáo dục Trung Hoa xưa xác định lý tưởng của thanh niên dựa vào 4 trụ cột là: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Muốn làm được điều ấy phải theo 5 ngành nghề trên.
Xét riêng về lớp thanh niên theo đuổi lý tưởng làm quan thì phải có “Trí” muốn có trí thì phải học Văn. Và khi đỗ đạt làm quan có quyền lực mới “trị quốc bình thiên hạ” được.
Dẫn ra vậy để thấy rằng, ở thời Viên Mai chưa có một nghề văn chuyên nghiệp để con người lập nghiệp, nên cố gán ép ý thơ của ông là khinh rẻ nghề văn là quá khiên cưỡng. Tuy nhiên, ở đây có một số khía cạnh cần lưu tâm đến ý thơ của Viên Mai; Phải chăng Ông phê phán những kẻ có tư tưởng sử dụng văn chương sai lệch :
– Qua con đường thi cử để đỗ đạt nắm giữ chức quyền làm hại con người, xã hội. Nhưng loại người này chỉ dùng văn như một công cụ cầu tiến không thấm được vẻ đẹp cao thượng của văn chương với các chức năng tuyệt vời của nó; Hoặc coi văn như một công cụ dọn đường bắc những bậc thang danh vọng mưu lợi cho mình bằng hình thức bồi bút, xu nịnh.
– Dùng văn chương thuần túy vị nghệ thuật mà không chú ý đến chức năng khác của văn học, không vì cuộc sống đích thực của số đông con người cần lao trong xã hội; Vì khái niệm Văn thời Nho học bao gồm: triết học, sử học, văn học (Triết, văn, sử bất minh); Nghĩa hẹp dùng để gọi các tác phẩm văn học, nghĩa hẹp hơn nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời thơ…
– Lấy văn chương để điểm tô cho danh vọng của bản thân; coi nó như một thứ “nhãn mác”?
Có lẽ ngày xưa Nguyễn Công Trứ hay Phan Bội Châu, (những người hay dùng câu thơ này của Viên Mai) đã nhắm vào các ý nêu trên để phản kháng lại chế độ phong kiến: dùng văn khuôn sáo lỗi thời để đào tạo và không ít thanh niên đã nhắm mắt bước vào của Khổng sân Trình với các kỳ khoa cử văn chương để rồi đỗ đạt, trở thành nô lệ, tôi tớ của giai cấp thống trị và quay lại bẻ ngược đạo lý chính thống của văn chương? Hoặc biến văn chương thành trò phù phiếm để trốn chạy nhiệm vụ cứu dân, cứu nước?
Quyết rằng: người như Nguyễn Công Trứ có hàng trăm bài thơ phản kháng xã hội, hàng ngàn bài thơ trữ tình và Phan Bội Châu người dùng hàng trăm bài thơ, văn kêu gọi thanh niên nổi dậy chống Pháp… không thể là người coi văn chương là thứ thấp hèn. Hãy xem Phan Bội Châu đánh giá về khả năng dùng văn chương của Phan Chu Trinh vào quá trình hoạt động cứu quốc, trong bài văn tế nhà cách mạng này, khi ông mất vào năm 1926 thì sẽ thấy rất rõ: “Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cường quyền trông gió cũng gai ghê; Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khêu đèn thêm rạng chói”.
Chúng ta một thời đã không hiểu đúng ý của cổ nhân khi các ông dùng trong các thời điểm lịch sử khác nhau để trỏ một thứ văn chương vô bổ. Nhiều người cố dùng câu thơ Viên Mai theo hướng bình luận đánh tráo khái niệm để phục vụ những ý đồ mang tính cá nhân; Đó là những sai lầm.
Để bàn luận thêm, tôi cũng đồng thời cho rằng, do hạn chế của lịch sử ở thời điểm ấy, ngay cả cổ nhân của chúng ta vẫn chưa ý thức hết được sứ mệnh, vai trò của văn học chính thống với kết cấu đầy đủ các loại thể ( chứ không chỉ nói riêng văn chương); Cũng như xưa kia cha ông ta đã từng coi nghề ca hát chỉ xếp trên nghề làm đĩ và thuộc loại “Xướng ca vô loài” vậy. Chúng ta không thể phủ nhận những áng văn chương cổ được ví như những đoàn đại hùng binh chống giặc bằng “Mưu phạt tâm công” như Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt?), Tỳ tướng Hịch văn (Trần Quốc Tuấn), và, những tác gia văn học lớn làm rạng danh dân tộc Việt: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…Chúng ta nghĩ gì về câu thơ Sóng Hồng “Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”? Chúng ta nghĩ gì về cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng mà hiện tại Đảng CSVN vẫn đang coi trọng? Chúng ta nghĩ gì về thứ “Quyền lực mềm” mà các quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản, đặc biệt là Trung Quốc đang khuấy đảo tâm hồn lớp trẻ Việt Nam hôm nay?…
Tất cả những hoạt động trên do đội quân chủ lực thậm chí then chốt tạo thành; Đội quân chủ lực tạo ra sức mạnh ấy há chẳng là văn học?
3. Lời kết
Ngày nay trong một thế giới mở, số ngành nghề không còn co túm lại ở “Ngũ hành nghề” như xưa; Riêng Văn học đã trở thành nghề có rất nhiều người viết chuyên nghiệp. Văn học thực sự đã được đề cao, có vai trò lớn trong xã hội và được tôn vinh trên toàn thế giới đó là sự thật không thể chối bỏ. Và đương nhiên Viên Mai, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, ở thời của các ông không thể hình dung nổi.
Tâm sự về điều này nhà văn Đình Kính, nguyên UVBCH Hội NVVN cho rằng: “Ý Viên Mai cho rằng Văn chương là cái gì đấy rất cao quý sang trọng. Lợi dụng văn chương để lập nghiệp, đặng lên quan tiến chức là tệ hại nhất”. Còn tại Lớp đào tạo viết văn Nguyễn Du khóa 2 tại Hải Phòng, Nhà văn Đỗ Chu (Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học) khi bàn về Quản Trọng, ông đặt câu hỏi: “Quản Trọng nói: Trăm năm trồng người, vậy ngàn năm sẽ trồng gì? ”. Và ông tự trả lời: “Trồng Văn!”. Quả vậy, con người có thể trở thành người khổng lồ vì được ăn ngon, bổ dưỡng và trang bị thêm các công cụ tối tân hiện đại; nhưng quả tim của con người khổng lồ ấy có ngân rung được tiếng NGƯỜI hay không lại nhờ văn hóa mà trong đó văn học là thành tố chính cấu thành.
Sứ mệnh làm cho gã robot khổng lồ biến thành NGƯỜI có trái tim chẳng phải là từ những dòng văn đang chảy sôi động trên trái đất này, là nhà văn với nghề văn của mình vẫn tiếp tục khơi thông và mở rộng dòng chảy ấy? Và nếu được phép có một lời khuyên thì rằng: văn học luôn có tính lịch sử, nó chỉ được hiểu thật sự đúng khi đặt nó trong bối cảnh lịch sử nó xuất xứ mà thôi.
Nguyễn Đình Minh
Tháng giêng năm Bính Thân