À, khoan hẵng, ta phải giết con Kim Thoa rồi đi đâu mới đi. Bấy lâu nay nó o bế, kiềm toả, hành hạ ta đủ tình đủ tội! Kìa, nó đâu rồi, ta vừa thấy nó trên long sàng cơ mà. Các ngươi hãy tìm nó giết chết cho ta!
– Trời sắp sáng mất rồi, xin bệ hạ đi ngay. Con Kim Thoa sau này để chúng thần lo… (Tiếp kì 23)À, khoan hẵng, ta phải giết con Kim Thoa rồi đi đâu mới đi. Bấy lâu nay nó o bế, kiềm toả, hành hạ ta đủ tình đủ tội! Kìa, nó đâu rồi, ta vừa thấy nó trên long sàng cơ mà. Các ngươi hãy tìm nó giết chết cho ta!
– Trời sắp sáng mất rồi, xin bệ hạ đi ngay. Con Kim Thoa sau này để chúng thần lo. (Tiếp kì 23)
Chiều hôm sau Chiêu Tông mở ngự yến mừng Đăng Dung và các tướng đánh dẹp Bá Hiếu, Khắc Cương thắng trận trở về. Ngự yến xong, về cung, đưa mắt về phía giường đã thấy Kim Thoa nằm sẵn, nhà vua không nén nổi nỗi ngao ngán. Bỗng Nguyễn Hiến, Phạm Thứ hớt hải vào cho biết người mang mật thư vào Tây Kinh cho Nguyễn Kim, Trịnh Tuy khi về dọc đường bị quân Đăng Dung bắt, chuyện đã lộ, mời nhà vua rời kinh gấp, xe ngựa đang chờ ngoài cửa Đại Hưng. Kim Thoa giả tảng ngủ say, nghe hết mọi chuyện.
– Ta rời kinh, thế Thái hậu, Hoàng hậu, Thái tử và Hoàng đệ của ta thì sao?
– Chúng thần đã mời được Hoàng hậu lên xe. Hoàng hậu bảo Thái tử đang ở chỗ Thái
hậu. Chúng thần không thể tới chỗ Thái hậu và cả chỗ Hoàng đệ của bệ hạ được vì đường từ đây đến đấy phải qua điện Kim Quang là chỗ có quân của Đăng Doanh canh giữ. Xin Hoàng thượng đi ngay cho kịp. Tư lễ giám Lê Khoái cũng đã mang được cả Đại ấn và Ngự dụng ấn hiện đang chờ bên xe.
– Thế thì tạm được. Phải cho người ở lại tìm cách đem Thái tử đi trốn cho ta!
À, khoan hẵng, ta phải giết con Kim Thoa rồi đi đâu mới đi. Bấy lâu nay nó o bế, kiềm toả, hành hạ ta đủ tình đủ tội! Kìa, nó đâu rồi, ta vừa thấy nó trên long sàng cơ mà. Các ngươi hãy tìm nó giết chết cho ta!
– Trời sắp sáng mất rồi, xin bệ hạ đi ngay. Con Kim Thoa sau này để chúng thần lo.
Chiêu Tông dậm chân dậm tay tỏ vẻ bực tức rồi mới chịu theo Nguyễn Hiến, Phạm Thứ rời cung.
Sáng hôm sau Mạc Đăng Dung mới biết chuyện, lập tức cho quân ngăn các ngả đường, lệnh cho các phố phường kinh đô ai ở nhà nấy không được ra đường, cũng không được náo động. Sau biết nhà vua đang ở Mộng Sơn, huyện Minh Nghĩa, trấn Sơn Tây, Đăng Dung liền viết thư mời vua trở lại kinh đô, sai Hoàng Duy Nhạc là người thông thuộc đường đất mang thư trao cho Chiêu Tông. Duy Nhạc nghĩ là đi mời vua trở về chứ không bắt vua nên không đề phòng gì cả, vì vậy giữa đường bị phục binh của Chiêu Tông giết chết ở Thạch Thất. Thấy trong người Duy Nhạc có thư, chúng đem về cho Chiêu Tông. Nhà vua xem xong, cười:
– Dung nói rằng ta hiểu lầm y. Y chỉ có ý ngăn chặn những kẻ sàm tấu và phân trần những chuyện đã qua chứ không có ý đồ gì khác. Y lừa ta quay về để giết, ta có là trẻ con đâu mà dễ bị lừa đến thế!
Quân đi theo Hoàng Duy Nhạc có người trở về được, báo cho Đăng Dung. Đăng Dung buồn bực và giận lắm nhưng vẫn cố đợi mấy ngày nữa để chờ vua trở về, khi thấy không còn hy vọng gì nữa, mới bàn với các đại thần trong hoàng tộc là Lê Phụ, Lê Chu, Lê Thúc Hựu và các quan Phạm Gia Mô, Dương Kim Ao, Trình Chí Sâm, Nguyễn Thì Ung:
– Nước một ngày không thể không có vua, ta đã cho người đi đón vua trở về nhưng vua chẳng những không về mà còn giết mất tướng của ta. Ta lại cho người đi tìm Thái tử vì nghe nói vì ngài ở chỗ Thái hậu nên không kịp chạy theo nhà vua. Nhưng Thái tử cũng không thấy đâu nên ta định lập em vua là Lê Xuân lên ngôi, các vị thấy thế nào?
Mấy đại thần đều nói anh tự tiện bỏ ngôi, em lên ngôi là phải .
Nghe tin vua Chiêu Tông chạy khỏi kinh đô, Đoan Từ hoàng thái hậu khóc, nói: “Đứa con thứ hai của ta ắt phải làm vua, bà già này lại bị người khác giả danh thác mệnh, bị người ta đàm luận. Nhưng còn xã tắc thì biết làm sao đây?”. Một lúc sau quả nhiên Mạc Đăng Dung dẫn bách quan văn võ đến xin với TháI hậu tôn em Chiêu Tông là Hoàng đệ Lê Xuân lên ngôi.
Vì gần kinh đô nên Sơn Tây là nơi sớm nhận được chiếu cần vương. Chiếu đến hôm trước thì hôm sau Chiêu Tông chạy khỏi kinh đô và lấy Thạch Thất làm hành điện. Tổng trấn là Quỳnh Khê hầu Vũ Hộ đem việc bàn với con là Vũ Huấn. Vũ Hộ nói:
– Tuy giờ đây mới chỉ có chiếu của vua chứ chưa lời của Đăng Dung nhưng thể nào Đăng Dung cũng cho người tới đây. Cha con ta hiện như người đứng giữa ngã ba đường. Một bên là Quang Thiệu, một bên là Đăng Dung. Với Quang Thiệu là đạo vua tôi, với Đăng Dung là nghĩa bạn bè bạn và tình thông gia. Theo con, nên theo bên nào?
Vũ Huấn thưa:
– Trong trung, hiếu, tiết, nghĩa thì trung đứng hàng đầu, hiếu đứng hàng thứ hai. Tuy vậy, cũng có minh trung và ngu trung; đạo hiếu cũng vậy, cũng có thế này thế khác. Do vậy phải tuỳ theo thực tế chứ không thể cứng nhắc theo sách vở đạo Nho được. Vả lại, ngay Mạnh Tử cũng từng dạy: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, vua cũng không bằng dân và xã tắc, vì có dân thì mới có xã tắc, có xã tắc thì mới có vua. Thế cho nên trung, hiếu, tiết, nghĩa cũng cần được xem trọng như nhau. Nhưng cần nhất phải theo thời thế. Nhà Lê đáng ra phải chấm dứt từ thời Đoan Khánh, Hồng Thuận, níu kéo vớt vát được đến giờ đã là cố lắm nhưng xem ra không thể lâu hơn được bao lăm nữa nếu không có thay đổi. Bề ngoài tưởng vua Quang Thiệu không khiến thiên hạ phải điều tiếng gì nhưng thực ra là mưu mẹo, mánh khoé, hay nghe theo lời gièm pha mà đối xử tệ với công thần, như vậy là không được. Tuy Nhân Quốc công Mạc Đăng Dung là anh vợ của con, quyền huynh thế phụ thì cũng coi như cha, nhưng con không nhìn người như vậy. Con nhìn những việc làm của Nhân Quốc công đối với triều đình và cái cách của triều đình đối xử với Nhân Quốc công thì thấy đấy thật là một người có tài, có công nhưng lại bị nghi ngờ, đối xử tệ hại! Trông người mà ngẫm đến ta, con sợ rằng nếu mình theo Quang Thiệu thì liệu sau này Quang Thiệu có biết đến công lao của mình không, hay lại đối xử như đối xử với Trần Chân trước đây và với Nhân Quốc công bây giờ. Quang Thiệu đang lúc quẫn bách cầu cứu đến mình nhưng sau này trở về kinh sư rồi mới giở chuyện ra rằng mình là thông gia với Nhân Quốc công thì sao?
Vũ Hộ khen con nói phải nên không theo chiếu cần vương, đem toàn bộ hơn 3000 quân Sơn Tây đánh xuống Thạch Thất. May có Hà Phi Chuẩn cũng nhận được mật chiếu của Chiêu Tông kịp đến cứu mới đưa được vua qua sông Hồng, tiếp đấy cho người hộ giá lên Bắc Giang còn mình thì đóng quân ở phía Tây cầu Đông Ngàn để ngăn quân Sơn Tây. Vũ Hộ thấy vậy rút lên Sơn Tây, cho Vũ Huấn về kinh đô lên hệ với Đăng Dung. Đăng Dung mừng lắm nói với Vũ Huấn:
– Quỳnh Khê hầu không vì ăn lộc của Quang Thiệu mà bỏ gia đình, bạn bè, thật là may cho ta lắm. Sau này ta có thành công được, Quỳnh Khê hầu giúp sức đến một nửa. Nay triều đình đã có vua mới, Quang Thiệu giờ chỉ là phản thần Lê Y, chúng ta có tiêu diệt cũng hợp với lẽ đời. Nhưng vì Lê Y vẫn ở bên ngoài kêu gọi binh mã các nơi chống lại triều đình, kinh thành ở giữa thiên hạ, lại là nơi không yên ổn, đầy tai mắt của hắn nên ta buộc lòng phải rút sang Hải Dương. Em hãy về nói với Quỳnh Khê hầu rằng hãy cố giữ vững đất Sơn Tây, đông đoài hai phía làm thành thế liên hoàn ứng cứu cho nhau, quân của Lê Y có đánh nơi nào cũng không dám dốc toàn bộ lực lượng, chờ cho chúng lơ là hoặc suy kiệt lúc đó ta sẽ bất ngờ chuyển thế thủ thành thế công, có vậy mới thắng được.
Đăng Dung lấy một mũi tên bẻ làm đôi, mình giữ một nửa, trao cho Vũ Huấn đem về một nửa, giao hẹn đôi bên nếu cho người liên lạc thì đem theo làm tin để đề phòng kẻ gian. Đăng Dung sai mở kho đưa cho Vũ Huấn mấy nghìn lạng bạc để về ban cho tướng sĩ mà động viên họ hết lòng vì triều đình. Vũ Huấn quay lại Sơn Tây ngay hôm đó.
Ngày 1 tháng Tám năm Nhâm Ngọ (1522), Lê Xuân đăng quang, đặt niên hiệu là Thống Nguyên, về sau vì bị nhà Mạc truất ngôI nên sử gọi là vua Cung Hoàng hay Cung Đế. Ngay đó Đăng Dung tâu việc rời khỏi kinh đô, mời Thái hậu cùng nhà vua xa giá sang Hải Dương, lập hành điện tại Hồng Thị.
Nghe con trở về nói Mạc Đăng Dung bỏ kinh đô rút sang Hải Dương, Vũ Hộ khen phải và lập tức lo việc phòng thủ, chia quân giữ thành Sơn Tây và Thạch Thất, Tản Viên, lấy núi non và mấy hồ nước lớn trong trấn làm chỗ dựa, đồng thời cho chiến thuyền tuần tiễu nghiêm ngặt dọc theo sông Thao, tạo nên thế chân vạc vững chắc.
Ở Hải Dương, Đăng Dung cho quân dân đắp gấp luỹ Cẩm Giang để phòng thủ mặt Tây, sai Mạc Đĩnh Khoa lên giữ Lục Đầu Giang, sau đó lại đưa Thái hậu và vua Thống Nguyên về trấn phủ Gia Phúc cho cách xa chiến luỹ. Vật báu trong các cung, lương thực, khí giới trong các kho tàng đều vận tải hết sang Hải Dương. Quan lại, kể cả hoạn quan và cung nữ ai theo cũng cho sang Hải Dương.
Mạc Đăng Dung việc gì trong quyền mình cứ làm, không cần nói với vua Thống Nguyên, việc gì không phải quyền mình đều tâu bày để giữ đúng phép nước. Căn cứ vào biểu của Đăng Dung, vua phong quan tiến tước cho tất cả văn thần võ tướng, khao thưởng quân sĩ để động viên họ.
L.V.K
(Còn tiếp)