Một hôm thiết triều, Mạc Đăng Dung tâu: Mấy năm nay đất nước biến động triền miên, có nhiều nguyên do, trong đó có nguyên do bởi luật pháp có nhưng hành xử lại không theo luật pháp, lẽ phải của nhà nước bị chuyện riêng chèn lấn, 700 điều trong Lê triều hình luật có lẽ chỉ thi hành đúng được 100 điều…Tiếp kì 25
Một hôm thiết triều, Mạc Đăng Dung tâu: Mấy năm nay đất nước biến động triền miên, có nhiều nguyên do, trong đó có nguyên do bởi luật pháp có nhưng hành xử lại không theo luật pháp, lẽ phải của nhà nước bị chuyện riêng chèn lấn, 700 điều trong Lê triều hình luật có lẽ chỉ thi hành đúng được 100 điều. Tiếp kì 25
Ngay đêm đó Nguyễn Kính đem mấy chục người thân tín sang sông đầu hàng Đăng Dung. Nghe quân vào báo có Nguyễn Kính tới hàng, Đăng Dung đang ngủ, không kịp chải tóc, đi giầy, cứ thế chân đất, khoác vội áo ra đón Nguyễn Kính:
– Giời cho tướng quân về với ta, lo gì nghiệp lớn không làm được!
Nguyễn Kính cảm động bái lậy. Đăng Dung nói:
– Mấy năm trước sau khi về với triều đình, tướng quân cùng tôi tiễu phạt Trần Thăng, lúc đó tôi những tưởng được cùng tướng quân mãi mãi bên nhau, ai ngờ lại mỗi người một ngả, tôi cứ tiếc mãi. Bây giờ dẫu sông cạn đá mòn xin đừng bỏ nhau. Lại nhớ hồi tôi cùng Nguyễn Hoằng Dụ lên Sơn Tây, được nghe những lời tâm huyết của tướng quân, tôi khác nào như người từ chỗ tối được dắt ra chỗ sáng, khiến tôi nhớ mãi. Nay tướng quân bàn gì cũng quyết ghi lòng.
Nguyễn Kính nói:
– Trịnh Tuy đưa Quang Thiệu vào Tây Đô, dù có vội vàng và trước mắt có lợi cho ta nhưng lâu dài âm mưu ấy không thể xem thường. Tây Đô là đất căn bản của nhà Lê; trong đó ngoài Trịnh Tuy lại còn có Nguyễn Kim, để hai nhà này liên kết được với nhau thật là mối nguy khó lường. Nay thừa thắng nên cho quân vào Thanh Hoa nhổ cỏ tận gốc cho khỏi lo về sau. Mặt khác mau chóng bình định Bắc Hà để thiên hạ sớm được thu về một mối, có thế nghiệp lớn mới mau được.
– Tôi muốn thế đã lâu, hiềm nỗi còn lo bọn Hà Phi Chuẩn ở Bắc Giang!
– Đồ chuột nhắt ấy chẳng có gì đáng ngại. Tôi xin vì tướng quân đi đánh Phi Chuẩn. Hiện nay ngoài Bắc Hà chỉ có hai người đáng kể: Một là Lê Công Uyên, người huyện Lôi Dương, cháu của đại công thần Lê Văn Linh ngày trước. Uyên khéo uốn ba tấc lưỡi thuyết phục kẻ khác, nhiều lần được Lê Y sai làm sứ giả chiêu mộ quân cứu giá. Hai là Lâm Xuyên bá Đàm Thận Huy, nguyên là Thượng thư Bộ Hộ. Người này là một trong những người cuối cùng còn sống cho đến nay của Tao Đàn thời Thánh Tông. Chính ông ta đã gây khó dễ về quân lương cho tướng quân hồi đánh giặc Trần Thăng năm nào. Thận Huy đã cùng Nguyễn Nghiên nhận mật chiếu của Lê Y về Đông Ngàn là quê của chúng chiêu mộ quân sĩ, hiện đang gây thanh thế ở vùng Yên Thượng, Đình Bảng. Hai người này nhiều uy tín nên nói thiên hạ ai cũng nghe.
Mạc Đăng Dung khen phải và cử Nguyễn Kính tiến đánh Hà Phi Chuẩn, bình định Kinh Bắc; sai Mạc Quyết cùng Vũ Hộ, Nguyễn Như Quế dẫn quân đuổi theo Trịnh Tuy vào đánh Thanh Hoa. Có người nói với Đăng Dung, lo Nguyễn Kính lập kế để theo Hà Phi Chuẩn. Đăng Dung chỉ cười, quả nhiên mấy ngày sau đã có tin thắng trận từ Bắc Giang báo về.
Trước đây, khi rút quân vào Thanh Hoa, Trịnh Tuy có sai Giang Văn Dụ đóng quân ở Thanh Oai để phòng quân Đăng Dung đuổi theo nên khi Mạc Quyết dẫn quân đánh Thanh Hoa đã gặp phải sự chống cự của Giang Văn Dụ. Tuy nhiên chỉ sau một trận Văn Dụ đã đại bại, phải chạy về phía Tây và lẩn trốn trong rừng, sau sống hay chết không ai hay, chỉ biết năm sau mấy người đi rừng bỗng tìm thấy một bộ xương khô ở gần dốc Cun, bên cạnh bộ xương có thanh gươm đã gỉ vàng cả ra, có người ta đoán đó chính là xác Văn Dụ. Dẫu vậy, vì Văn Dụ nên Mạc Quyết đã không đuổi kịp Trịnh Tuy.
Năm Thống Nguyên thứ hai (1523), Mạc Quyết dẫn quân vào Thanh Hoa, cùng Trịnh Tuy đánh nhau một trận lớn ở Tam Điệp. Mạc Quyết đánh bật được quân Trịnh Tuy khỏi đèo nhưng sau đó lại bị đẩy lùi trở lại Tam Điệp. Quân Mạc giữ lại được một đèo, Trịnh Tuy chiếm lại được hai đèo. Sau đó hai bên đánh nhau liền mấy trận, không phân được thua. Thấy tình hình Bắc Hà chưa yên, Mạc Quyết để Vũ Hộ, Nguyễn Như Quế ở lại giữ vững Tam Điệp rồi ra Bắc cùng Đăng Dung tiêu diệt các toán quân phò Chiêu Tông còn sót lại đang rải rác khắp nơi, mấy tháng sau thì bắt được bọn Hà Phi Chuẩn, Nghiêm Bá Kỳ, Phạm Tại.
Tháng Bảy năm ấy, vua Thống Nguyên nghe theo Đăng Dung ra chiếu phế bỏ vắng mặt Chiêu Tông xuống Đà Dương vương.
Năm sau nhà vua thăng Mạc Đăng Dung làm Bình chương quân quốc trọng sự Thái phó Nhân Quốc công.
Đàm Thận Huy từ khi nhận mật dụ của Chiêu Tông đã cùng với Nguyễn Nghiêm tập hợp được gần một nghìn nghĩa sĩ. Một hôm quân vào báo có người từ kinh đô mang thư chiêu hàng của Mạc Đăng Dung tới. Nguyễn Nghiêm cầm thư nhưng không đọc, xé ngay đồng thời quát võ sĩ lôi người đó ra chém. Đàm Thận Huy can, bảo hai bên đánh nhau không nên chém sứ giả bấy giờ Nguyễn Nghiêm mới thôi, chỉ sai người đuổi ra ngoài.
Tình hình Bắc Hà tạm yên, năm Thống Nguyên thứ ba (1524), Đăng Dung lại sai Mạc Quyết cùng Vũ Hộ, Nguyễn Như Quế vào đánh Thanh Hoa. Mạc Quyết nói:
– Lần trước quân ta vào đánh Thanh Hoa nhưng phải dừng lại ở Tam Điệp, bây giờ nên thế nào?
Mạc Đăng Dung bảo:
– Quân thuỷ của ta lúc này không mạnh bằng quân thủy Thanh Hoa nên chưa thể đánh từ mạn biển. Mặt bộ thì Tam Điệp hiểm trở, chắc chắn Trịnh Tuy đã xây thành đắp luỹ phòng bị cẩn mật, có qua được cũng tổn thất lớn. Tuy nhiên đấy là nói về con đường Hạ Đạo.
– ý anh muốn nói đến Thượng Đạo?
– Cho tới trước khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư để tới Đại La, ra Bắc vào Nam chỉ duy nhất có Thượng Đạo. Vì con đường ấy phải qua rừng núi, hiểm trở khó đi nên sau khi định đô ở Thăng Long, nhà Lý đã làm Hạ Đạo, từ đó trở thành đường cái quan. Thượng Đạo nhà nước không dùng nữa, rồi trời long đất lở, cây cối mọc lên che lấp khiến nay chỉ còn là con đường mòn dân bản địa dùng để đi lại trong vùng. Nói như thế có nghĩa là Thượng Đạo không mất hẳn chỉ khó đi mà thôi.
Mạc Quyết nói:
– Phép dùng binh quan trọng là bí mật và bất ngờ để đánh vào chỗ kẻ địch không phòng bị. Em sẽ đi đường Thượng Đạo.
Mạc Quyết cho 500 quân đi trước mở đường, người nào người nấy chỉ mang theo dao để chặt cây phát quang gai góc bụi rậm, búa và đục để phá đá, dây thừng để khi cần thì leo trèo. Quân không xuôi xuống phía Sơn Nam như thường khi mà tiến sang phía Tây, phía lộ Đà Giang. Tới chợ Bến, lúc bấy giờ mới theo hướng Đông Nam, vượt núi Đồi Ngang, dốc Lào sang đất Thanh Hoa. Cả tháng trời chỉ thấy rừng núi um tùm, chim kêu vượn hót, không ngày nào và không người nào không bị vắt cắn, người ngợm quần áo lúc nào cũng nhoe nhoét máu, khổ cực không thể nào kể hết. Tới Thanh Hoa, Mạc Quyết đánh chiếm các huyện đầu nguồn nước rồi đóng bè mảng xuôi dòng tiến xuống Tây Đô. Quân Tam phủ ngỡ thiên binh từ trên trời xuống đánh nên nhiều khi thấy bóng quân Mạc đã chạy vì thế nhiều trận không một bên nào đổ máu. Trịnh Tuy chỉ còn mấy trăm quân chạy tới Đông Sơn cầu cứu Nguyễn Kim thì Nguyễn Kim đã sang nước Ai Lao. Tuy lại chạy về Lôi Dương, dọc đường lo nghĩ mà phát bệnh. Thấy khó qua khỏi, Tuy gọi Trịnh Duy Liệu lại, nói:
– Hiển Khánh vương sinh được 22 người con, 13 trai, các con đều làm vang danh tiên tổ. Đến các vị Duy Đại, Duy Sản cũng rất oanh liệt. Nhưng sau này thể nào các vị ấy và cả tôi với ông nữa cũng bị xếp vào loại nghịch thần vì đều đã ra tay hoặc mưu toan phế vua này lập vua khác. Nhưng tại sao chúng ta lại không thể làm thế cơ chứ, một khi từ Đoan Khánh đến nay, kể cả nghịch hoàng Thống Nguyên nữa, bốn vua Lê chẳng mặt nào đáng ngự ngai vàng. Nên tôi không hối hận về những việc đã làm, chỉ tiếc không được như ý. Tôi lại lấy làm buồn, trong họ ta, Lỵ Quốc công Duy Thuận, Phúc Hưng hầu Duy Duyệt, tất cả đều là bậc cha chú của tôi, chức tước cũng hơn tôi nhưng chí khí thì quá kém. May mà còn có ông dám vào sinh ra tử từ hồi Đoan Khánh, sau này mỗi lần tôi ra Bắc ông đều coi giữ Lôi Dương chu đáo khiến bọn Nguyễn Tống Sơn e sợ không dám nhòm ngó. Vì vậy sau này tất cả cũng nhờ một tay ông mà nên.
Trịnh Duy Liệu hỏi làm thế nào để chống lại được Mạc Đăng Dung. Trịnh Tuy định nói nhưng không thể nói được nữa, mắt dại đi, gắng hết sức dướn người hét một tiếng thật to rồi chết.
Chiêu Tông thoát được, chạy lên châu Lang Chánh, dựa vào rừng núi chống cự rồi chiếm lại được một số nơi miền hạ lưu. Mạc Quyết dăng quân suốt từ Đông sang Tây không cho Chiêu Tông chạy vào Nghệ An đồng thời phao tin đã chiếm được châu Quan Gia để ngăn Chiêu Tông chạy sang Ai Lao.
Tháng 10 năm Thống Nguyên thứ 4 (1525) đời vua Cung Đế, Mạc Đăng Dung để con là Đăng Doanh ở lại Bắc Hà, tự làm Đô tướng dẫn đại quân thuỷ bộ vào đánh Thanh Hoa. Quân thuỷ mấy trăm chiến thuyền theo đường biển tiến vào sông Mã, tới ngã ba sông, chia làm hai, tiếp tục ngược sông Mã, sông Chu, buồm căng kín cả mặt sông. Quân bộ chia làm hai ngả, cờ xí rợp trời, một ngả vượt Tam Điệp, qua sông Mã tiến vào Lang Chánh, một ngả theo đường Lạc Sơn, Tân Lạc, Mai Châu, vượt núi sang châu Quan Gia, cốt chặn đường Chiêu Tông rút chạy sang Ai Lao. Quân đi đến đâu quân dân Thanh Hoa đầu hàng đến đấy, có nơi người đứng bên đường đón mừng, chẳng mấy chốc quân thuỷ bộ đã hội nhau ở Lam Sơn. Đến đây thuyền lớn không thể tiến sâu được hơn nữa mà quân bộ cũng phải len lỏi trong rừng. Xa xa Chí Linh mờ ảo trong sương khói. Một tiếng vượn chợt cất lên lảnh lót khiến nhiều con ngựa chiến dày dạn cũng phải rùng mình. Khung cảnh hoang dã vô cùng.
Một cảm giác thật lạ lùng dâng lên trong lòng, bất giác Mạc Đăng Dung cho quân dừng lại, nói với các tướng:
– Đây chính là nơi đức Thái Tổ xưng Bình Định vương, dựng cờ khởi nghĩa, hào kiệt bốn phương ban đầu chỉ có mười mấy người, quân không quá hai nghìn, cơm ăn sớm tối không được hai bữa, áo mặc đông hè chỉ có một manh, khí giới thì thật tay không. Giặc Minh lúc đó năm, sáu vạn. Có lúc Thái Tổ còn bị giặc vây chặt, xung quanh không còn lấy 100 người, phải chạy vào Mường Một, Mường Chánh, ăn củ mài cầm hơi, Lê Lai phải theo cách của Kỷ Tín ngày trước chết thay cho Thái Tổ; từ đó mới có ngày nay. Tất cả đã được Tán Trù bá Nguyễn ức Trai tiên sinh viết trong Bình Ngô đại cáo và Chí Linh sơn phú. Sự nghiệp của đức Thái Tổ thật gian nan vất vả nhưng cũng thật lẫy lừng. Rồi sau này đức Thánh Tông mở mang nền văn hoá khiến bao nhiêu đời sau vẫn còn thán phục. Vậy mà con cháu nhà Lê gần hai chục năm nay quên mất tổ tông anh hùng, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, tranh giành lẫn nhau, anh em tàn sát, thật xấu hổ với tổ tiên!
Nói rồi Mạc Đăng Dung bảo các tướng xuống ngựa, quay về phía Lam Sơn, tất cả cùng khấn vái. Đăng Dung nói:
– Nay hạ thần là Bình Chương quân quốc trọng sự Thái phó Nhân Quốc công Mạc Đăng Dung, Đô tướng tiết chế thuỷ bộ mười ba đạo cùng các tướng vâng mệnh vua Thống Nguyên đến đây, nếu vua Thái Tổ, Thái Tông và các vị tiên đế thuận lòng với hạ thần thì cho hạ thần được thắng, bắt Đà Dương vương đem về hỏi tội vì y đã để cho giang sơn xã tắc suy tàn; nếu các ngài không bằng lòng thì cho hạ thần được bỏ xác nơi rừng xanh núi thẳm này để trọn vẹn ý nguyện của kẻ làm tướng chết trên sa trường da ngựa bọc thây.
Một cơn gió mạnh và lạnh giá chợt thổi tới, các tướng nhiều người nổi hết cả gai ốc. Bỗng đâu xuất hiện một con hổ trắng rất lớn. Mãnh hổ quất đuôi, cất tiếng gầm khiến bao nhiêu chiến mã đều rủn hết cả đầu gối, có con lập tức khuỵu xuống, riêng con ngựa của Đăng Dung chỉ khẽ hơi rũ tai. Nó cũng tên là Cát mã. Các tướng chưa ai kịp phản ứng thì Đăng Dung đã nhanh tay đặt tên lên cung, miệng nói: “Đấy là Đà Dương vương sai bạch hổ đến doạ ta, hãy xem ta giết nó trước rồi diệt Đà Dương vương sau”. Đăng Dung bắn một phát, trúng ngay đầu hổ. Hổ gục xuống chết, mũi tên xuyên suốt từ trán ra đến sau gáy. Các tướng ai nấy đều kinh sợ. Giết xong mãnh hổ, Đăng Dung quay lại nói với các tướng:
– Gần trăm năm trước, ở làng Chủ Sơn huyện Lôi Dương trấn Thanh Hoa này có một cây quế, dưới cây quế ấy thường xuất hiện một con hổ xám, nhưng nó rất hiền, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai bao giờ. Từ khi đức Thái Tổ ra đời thì không thấy con hổ xám ấy đâu nữa, ai cũng cho là sự lạ. Bây giờ ở đây lại xuất hiện con hổ trắng nhưng nó dữ tợn, nếu ta không ra tay trước thì nó đã hại ta.
Chiêu Tông lúc ấy vẫn còn mấy trăm quân, hành dinh đóng trong động An Nhân núi Cao Trĩ. Lúc đầu còn dựa vào rừng núi chống cự quyết liệt, sau do bị vây chặt, quân lính không chịu nổi đói khát nên nhiều người ra hàng Đăng Dung. Bất lực, Chiêu Tông bảo Gia Khánh hoàng hậu:
– Nàng làm vợ ta bao nhiêu năm nay, sung sướng thì ít mà ngậm ngùi gian khổ thì nhiều, lại lặn lội theo ta đến đây, nghĩa chung thuỷ như thế là vô cùng, lại còn sinh cho ta hoàng nam nữa, đạo trung nghĩa như vậy là vô tận. Chỉ ta là không ra gì, khi trước thì bị con yêu tinh Kim Thoa nó làm cho mê muội, sợ nó còn hơn sợ cọp, sau đó lúc chạy khỏi kinh thành lại bỏ mẹ bỏ con chạy lấy một mình, bây giờ không biết con đâu! Nay xem ra ta không thể thoát được tay Đăng Dung, sự nghiệp nhà Lê vì ta mà coi như đã hết vì hoàng đệ của ta tuy đang ở ngôi nhưng cũng sẽ chẳng tại vị được bao lâu nữa. Vậy nên nàng hãy cố sống để tìm lại con, nàng lại đang có mang, vì vậy hãy cố giữ lấy cốt nhục của ta, mai sau nếu chúng phục hưng được sự nghiệp tổ tông thì là điều tốt, không thì ta cũng còn có người hương khói mai sau. Còn ta, ta phải về kinh đô để trông thấy mẹ ta rồi mới yên tâm nhắm mắt được.
Phạm hoàng hậu và nhà vua ôm nhau khóc. Đêm ấy Chiêu Tông sai hai người thân tín đưa hoàng hậu ra khỏi hang đi trốn, còn Chiêu Tông và mươi kẻ thân tín ra hàng. Đăng Dung đem tất cả về kinh đô.
Đăng Dung tâu với vua Thống Nguyên:
– Nay thần đã bắt được Đà Dương vương, xin bệ hạ xử trí.
– Ý khanh thế nào?
– Thần rất lấy làm băn khoăn. Khi còn ở ngôi Đà Dương vương không phải không có năng lực. Đạo đức thì hơn hẳn Uy Mục, Tương Dực. Chẳng qua vì nghe lời xiểm nịnh mà tự ý bỏ ngôi. Giết đi thì rất tiếc, lại e thiên hạ bình luận. Theo thần, nếu Đà Dương vương chịu làm kẻ bày tôi thì cho y được sống và tham dự triều chính, ít nhiều giúp ích cho thiên hạ. Đó cũng là cách vua Thái Tông nhà Trần ngày trước đối xử với Hoàng hậu Lý Chiêu Thánh.
– Khanh có ý thế thật sao? – Thống Nguyên ngạc nhiên hỏi.
– Thần làm vậy còn vì bệ hạ nữa, để bệ hạ khỏi mang tiếng là anh hại em.
NHà vua không nói sao.
Một hôm thiết triều, ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy Đà Dương vương ngồi trên chiếc ghế ngay gần ngai vàng. Nhưng suốt buổi Đà Dương vương chỉ cúi gằm mặt, không nói gì. Buổi thiết triều sau đấy Đà Dương vương vẫn được mời song không chịu lên. Đến lần thứ ba, vương hết sức phẫn nộ:
– Giết ta đi còn hơn làm nhục ta mãi thế này!
Thấy Chiêu Tông bị bắt, các thế lực chống lại Mạc Đăng Dung chán nản, tan rã rất nhanh, chỉ còn mấy nghìn quân Kinh Bắc của Đàm Thận Huy và Nguyễn Nghiêm là dựa vào rừng núi chống lại. Lần trước Mạc Đăng Dung đã sai người thuyết hàng không được, tiếc Thận Huy là kẻ có tài, Đăng Dung lần này sai người con thứ hai là Mạc Chính Trung đi. Biết có thể nguy hiểm nhưng Chính Trung vẫn vui vẻ lên đường. Nhưng vẫn như lần trước, Nguyễn Nghiêm xé thư, không cần biết thư viết gì.
Mạc Chính Trung ngẩng đầu nhìn trời, thở dài:
– Hoá ra cũng chẳng ra gì!
Nguyễn Nghiêm hỏi:
– Ngươi nói vậy là nghĩa làm sao?
– Nhân Quốc công tiếc vì nghĩ các ngươi là anh hùng hào kiệt nên mới sai ta đi chiêu hàng, hóa ra Nhân Quốc công nhầm!
– Ngươi tên là gì? – Đàm Thận Huy hỏi.
– Nói ra các ngươi cũng chẳng biết ta là ai vì ta chỉ là tên công sai tầm thường trong phủ Nhân Quốc, vì biết đường đất nên được sai đi.
– Ngươi có sợ chết không?
– Có chứ. Nhưng nếu mở được con đường sống cho người khác để người ấy đem tài ra giúp nước thì ta dẫu có chết cũng cam lòng. Đà Dương vương mấy mươi vạn quân trong tay, Trịnh Tuy thì quân Tam phủ hùng hổ, vậy mà Nhân Quốc công còn coi chẳng ra gì nữa là cái xó Yên Thượng này. Nhưng nghĩ các ngươi là anh hùng hào kiệt trên đời nên Quốc công mới quyết khuyên trở về phò giúp vua Thống Nguyên chứ như những kẻ khác thì cho xanh cỏ từ lâu rồi! Nhưng hoá ra Quốc công nhầm, các ngươi chẳng qua cũng rất tầm thường.
Đàm Thận Huy bảo:
– Cái gan của ngươi kể cũng lớn nhưng rõ ràng đầu óc ngươi quá mê muội. Đăng Dung có mấy vạn quân trong tay, chúng ta chưa bằng một phần mười, vậy mà dám dấy nghĩa chống lại y, không phải anh hùng hào kiệt sao?
– Anh hùng gì mà hàng nghìn binh mã trong tay, sứ giả của triều đình đến đây các ngươi lại toan giết khi trên người ta không một tấc sắt? Hào kiệt gì mà đầu óc không một chút thức thời?
– Sao lại bảo bọn ta không thức thời?
– Các ngươi có ba điều không thức thời. Thiên hạ ba bè bảy mối, chiến tranh liên miên, Nhân Quốc công vì triều đình ra tay một cái là yên, dân chúng ở kinh đô vì vậy mấy năm nay an cư lạc nghiệp, ở nơi thôn dã thì vui vẻ cấy cầy, các ngươi nhắm mắt cố tình không biết, đó là điều không thức thời thứ nhất. Quang Thiệu điên rồ tự ý bỏ kinh đô chứ Nhân Quốc công không hề đuổi khỏi ngôi, các ngươi biết vậy nhưng vẫn bênh vực, đó là điều không thức thời thứ hai. Nay đã có vua mới, các ngươi tự cho là có tri thức mà không đem tài kinh bang tế thế ra giúp vua, đó là điều không thức thời thứ ba. Chỉ ba điều ấy thôi chứng tỏ các ngươi đâu phải là kẻ hào kiệt. Còn như bảo là anh hùng ư? Đấy chỉ là sự liều lĩnh của kẻ dốt nát.
Nguyễn Nghiêm tím mặt quát võ sĩ lôi người công sai đó ra chém. Đàm Thận Huy lại can.
Chính Trung về kể lại cho Đăng Dung, Đăng Dung thở dài, bảo :
– Con còn phải vì ta đi lần thứ ba nữa, lần thứ ba không xong thì lần thứ tư cho đến khi kỳ được. Ta thật tiếc cho Đàm Thượng thư, ông ấy thật đúng là anh hùng hào kiệt.
Một hôm thiết triều, Mạc Đăng Dung tâu: Mấy năm nay đất nước biến động triền miên, có nhiều nguyên do, trong đó có nguyên do bởi luật pháp có nhưng hành xử lại không theo luật pháp, lẽ phải của nhà nước bị chuyện riêng chèn lấn, 700 điều trong Lê triều hình luật có lẽ chỉ thi hành đúng được 100 điều. Vua Thánh Tông đặt ra lệ cứ ba năm lại có một kỳ khảo xét các quan lại để thăng giáng hay giãn thải. Riêng chức Hiến sát sứ và các chức ở Đài, Bộ, Khoa phải trải qua 4 lần khảo xét, tức là sau 12 năm không mắc lỗi gì lớn thì mới được bổ dụng chức ấy. Thế nhưng từ thời Uy Mục đế lệ ấy không còn. Vậy nay hãy áp dụng lại. Ngự sử đài rất quan trọng vì có trách nhiệm đề xuất thăng giáng các quan lại, can gián nhà vua, bàn chính sự, duyệt án từ nhưng những năm Quang Thiệu vừa qua những người ở đó chỉ chuyên gièm pha, gây hiềm khích khiến nhà vua hiểu nhầm bày tôi trung thành. Làm cho chính sự rối ren, đất nước biến động, dân chúng điêu linh chính là tại đám ấy. Cho dù bọn họ thảy đều đã bị trừng trị nhưng cũng phải có chỉ để làm cho rõ tội trạng và đúng theo hình luật…
Nhà vua khen phải và ban chỉ chỉnh đốn các việc.
(còn tiếp)
L.V.K