Mạc Đăng Dung – tiểu thuyết của Lưu Văn Khuê – Kì 29

Vua Mạc khen:

– Khanh nói rất phải. Đến con giun xéo lắm cũng quằn nữa là đường đường một triều đại như ta. Những kẻ còn chống đối thì ta phải diệt, kẻ ngoại xâm thì ta mềm dẻo nhưng đến nước cùng thì cũng phải đánh..(Tiếp kì 29)

Vua Mạc khen:

– Khanh nói rất phải. Đến con giun xéo lắm cũng quằn nữa là đường đường một triều đại như ta. Những kẻ còn chống đối thì ta phải diệt, kẻ ngoại xâm thì ta mềm dẻo nhưng đến nước cùng thì cũng phải đánh. (Tiếp kì 29)

Phần thứ hai

Anh hùng tạo thời thế

1

Sau khi lên ngôi, chọn ngày lành tháng tốt, vua Minh Đức nhà Mạc cùng văn võ bá quan tới đàn Nam Giao ở phía Nam kinh thành.

Đàn có từ thời nhà Lý, đến nhà Lê được xây dựng, sửa sang thêm và nghi lễ cúng tế cũng trở thành nền nếp. Đàn là khoảng đất vuông vắn được xây tường chung quanh, tượng trưng cho đất; chính giữa khoảng đất là đàn, hình tròn, cao ba tầng, tượng trưng cho tam tài: Thiên, địa, nhân, tầng trên cùng  là tượng trưng cho trời. ở khoảng đất vuông có ba ngôi nhà ngói, gồm Trai cung để nhà vua lên tạm trú vài hôm cho chay tịnh trước khi vào tế, Thần trù là nơi nhà bếp và Thần khố là nhà kho.

Sau khi trai giới ba ngày ở Trai cung, vua Thái Tổ nhà Mạc lên đàn, trịnh trọng tuyên bố với trời đất để ghi vào sách trời triều đại mới của Đại Việt, thề làm theo những điều trời đất ban cho và dân chúng mong muốn.

Nhà vua truy tôn tổ bảy đời là Mạc Đĩnh Chi làm Kiến thuỷ Khâm minh Văn hoàng đế, các vị đời sau cũng đều được truy tôn hoàng đế, cha làm Chiêu tổ Quang liệt Cơ mệnh hoàng đế. Tôn mẹ làm Hoàng thái hậu.

Vua lập con trưởng là Mạc Đăng Doanh làm Thái tử, cho người sửa sang Đông cung để Thái tử đến ở và đọc sách; phong Mạc Quyết làm Tín vương, truy phong Mạc Đốc làm Từ vương. Ba em gái đều phong công chúa: Em gái trưởng là Ngọc Phong (vợ Lê Bá Ly) làm Trang Hoà trưởng công chúa, em gái thứ là Ngọc Huệ (vợ goá của Nguyễn Lĩnh) làm Khánh Diệm công chúa, em gái út là Ngọc Di (vợ Vũ Bang Huấn) làm Tú Hoa công chúa. Các hoàng tử: Chính Trung, Phục Sơn, Nhân Phủ, Quang Khải đều được phong tước vương; các con gái được phong công chúa: Ngọc Thọ làm Thuỵ Ninh công chúa, Ngọc Châu làm Thái An công chúa. Những người con khác do còn nhỏ nên chưa được phong tước.

Vũ Hộ có công lớn nhất giúp nhà Mạc lập nghiệp, được phong thưởng đầu tiên, làm Tĩnh Quốc công và ban cho quốc tính, gọi là Mạc Bang Hộ, con trai là Vũ Bang Huấn do vậy được gọi là Mạc Bang Huấn; Trung quan là Nguyễn Thế An cũng do lấp nhiều công lớn, làm Ly Quốc công.

Tháng Giêng năm sau Mạc Thái Tổ sai đúc tiền Thông bảo niên hiệu mới là Minh Đức cho các xứ tiêu dùng thay cho tiền nhà Lê. Sang tháng Hai xét tiếp công lao các công thần, thăng và phong tước cho các đại thần:

– Nguyễn Quốc Hiến làm Phò mã đô uý, Thái bảo Lâm quốc công và

ban cho quốc tính;

– Mạc Quốc Trinh làm Thái sư Lân Quốc công;

– Mạc Đĩnh Khoa làm Tả đô đốc Khiêm Quốc công;

– Nguyễn Thì Ung làm Thiếu bảo Thông Quốc công;

– Nguyễn Bỉnh Đức làm Khánh Khê hầu và ban cho quốc tính, đổi gọi là

Mạc Ninh Bang;

– Phạm Gia Mô làm Hoằng Lễ hầu;

– Nguyễn Văn Thái làm Đạo Xuyên hầu;

– Lê Bá Ly làm Mai Xuyên hầu;

– Nguyễn Như Quế làm Trung Quốc hầu và ban cho quốc tính;

– Nguyễn Chuyên Mỹ làm Văn Đẩu hầu;

Tất cả 56 người.

Nhà vua nói:

– Hầu hết các vị đại thần triều vua cũ đều ở lại với triều Mạc ta, như thế là đại phúc cho thiên hạ. Những vị không chịu ở lại với trẫm, trẫm cũng không  trách, chẳng qua các vị ấy hoặc lòng còn nhớ vua cũ, hoặc còn chưa hiểu trẫm. Điều ấy cũng thường tình. Bởi chính trẫm cũng chỉ vì không quên công Uy Mục đế chăn dắt vào chốn quan trường nên mới hết lòng vì nhà Lê, sau này lại chần chừ việc phế lập, chỉ đến khi vạn cùng bất đắc dĩ mới làm chuyện thay đổi để đáp ứng lòng ngưỡng mộ và mong mỏi của dân chúng.  Nghĩ cảnh những vị ấy người trốn tránh trong rừng, ẩn giấu tên tuổi, tụ tập làm đảng cướp hoặc đi ra ngoại quốc để cầu yên, trẫm rất thương cảm. Trong khi đó xã tắc lúc này lại đang cần các vị ấy nên trẫm đã cho người yết thị các nơi mời các vị ấy trở lại với triều đình. Tháng trước trẫm có sai chính con của trẫm là Hoằng vương một lần nữa đi Kinh Bắc mang thư dụ hàng hai vị Đàm Thận Huy và Nguyễn Nghiêm. Trẫm muốn làm cái việc xưa Tống Thái Tông ở Bắc quốc chiêu hàng cha con Dương Nghiệp nhưng Đàm Thận Huy đã tự sát. Nguyễn Nghiêm vì còn mẹ già nên đổi họ tên về làng định đón mẹ đi thì bị quan quân phát giác, phải trốn tới Tam Nông, tập hợp gần trăm người kiên quyết chống lại và bị bắt, dọc đường cắn lưỡi chết. Cảm thương trước tấm lòng trung liệt của các vị ấy, trẫm đã truy phong cho họ và cấp tiền bạc cho con cháu họ. Trẫm phong cho Thượng thư, Lam Xuyên bá Đàm Thận Huy làm Lam Xuyên hầu và cho người mang sắc phong tới Ông Mặc, Đông Ngàn là quê ông ấy. Nghe nói chưa đến nơi, mới đến chợ Cổ Châu thì tờ sắc tự nhiên bốc cháy. Như vậy dẫu đã chết Thận Huy vẫn không chịu theo trẫm. Người tiết liệt mà linh thiêng đến thế thực hiếm. Với các ông Nguyễn Nghiêm, Vũ Công Duệ, Ngô Hoán, Nguyễn Thái Bạt, Nguyễn Duy Tường, Nguyễn Tự Cường, Nghiêm Bá Ký, Lại Kim Bảng, Nguyễn Thiệu Tri, Lại Vô Cương trẫm cũng đã truy ban tước lộc, cấp tiền bạc cho con cháu thờ cúng. Còn như linh hồn các các vị ấy có quy thuận hay không thì cũng tại cái đức của trẫm còn mỏng.

Các quan ra sức mong vua tránh những điều phiền muộn. Nhà vua nói tiếp:

– Trẫm cũng đã ban chỉ đi các nơi phủ dụ con cái các vị tiết liệt vì vua cũ không có gì phải sợ hãi, hãy ra làm quan giúp tân triều, đem tài kinh bang tế thế ra cho quốc thái dân an. Trẫm lại đã sai người vào Thanh Hoa tu sửa lầu điện và lăng tẩm Thái Miếu nhà Lê ở Lam Kinh, mỗi năm sẽ hai lần vào đấy tế lễ dịp mùa xuân và mùa thu, bốn kỳ tế lễ ở lăng Mỹ Xá để ghi nhớ công của đức Thái Tổ nhà Lê đã có công đánh đuổi giặc Ngô mang lại nền thái bình cho đất nước, đồng thời bày tỏ cõi lòng để đức Thái Tổ hiểu trẫm.

Mạc Quốc Trinh nói:

– Xưa triều Lý mục ruỗng, Trần Thủ Độ phế bỏ Chiêu Hoàng, lập nên nhà Trần, tài tình trị nước, ai ai cũng ca ngợi, chỉ chê mỗi điều sau đó giả cách mời hoàng thân nhà Lý đến dự yến tiệc rồi đánh sập hầm làm không biết bao nhiêu người chết oan. Đến lượt triều Trần suy tàn, Hồ Quý Ly thay thế cũng làm nhiều điều đáng khen, nhưng cũng bị chê trách là gian giảo và tàn sát quá nhiều tôn thất nhà Trần liên tục trong nhiều năm, có ngày giết một lúc 370 người đến nỗi đi đường gặp nhau những người quen biết chỉ dám nhìn nhau bằng mắt không dám nói chuyện bằng lời vì sợ bị nghi kỵ, đến như mồ mả còn bị quật lên. Tài đức đến như Lê Thái Tổ khởi nghĩa thành công rồi cũng không còn nghĩ đến công thần nữa, bốn công thần hàng đầu là Lê Vấn, Lê Sát, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo đều bị giết sạch! Trần Nguyên Hãn về hưu rồi vẫn còn bị giết chỉ vì là dòng dõi họ Trần! Bệ hạ lại khác hẳn, không những ban sắc phong cho những người quyết chết vì vua cũ mà còn nghĩ đến tông miếu nhà Lê ở Lam Kinh. Chí tình chí nghĩa như thế thật xưa nay hiếm, đã tròn đạo lý lại thuận lòng dân.

Nhà vua nói:

– Trẫm không trách các vị tiết liệt của triều cũ nhưng chê họ cố chấp. Cái câu của đạo Nho “Trung thần bất sự nhị quân. Liệt nữ bất cánh nhị phu” quá nặng trong đầu họ, làm cho họ u mê, khiến lúc nào cũng canh cánh nỗi sợ người đời chê cười là bất trung. Suy cho cùng lòng trung ấy cũng chỉ là yêu chính mình mà thôi, còn như đất nước này thịnh hay suy, yên ổn hay loạn lạc, dân chúng no hay đói họ đâu cần quan tâm. Trung cũng có minh trung và ngu trung. Kiệt là vua nhà Hạ, say mê Muội Hỷ, bỏ bê việc nước, cai trị tàn ác nên bị Thành Thang là bày tôi của Kiệt trừ bỏ mà lập nên nhà Thương; 280 năm sau đến lượt Trụ là vua nhà Thương, say mê Đát Kỷ, cai trị tàn bạo, bị dân ghét bỏ, nên Vũ Vương vốn là bày tôi của Trụ diệt mà lập nên nhà Chu. Đời sau ai cũng khen hai vị Thành Thang và Vũ Vương. Lại 350 năm sau, đến U Vương nhà Chu, say mê Bao Tự, lừa dối chư hầu, cai trị ngu tối nhưng đất nước không có ai như Thành Thang, Vũ Vương, ai cũng lo lấy thân mình, cá lớn nuốt cá bé, gây ra cục diện Xuân thu – Chiến quốc thảm khốc đến 500 năm khiến muôn dân điêu đứng. Vừa rồi Uy Mục, Tương Dực hoang dâm tàn bạo, so sánh với Kiệt, Trụ có khi còn hơn. Chiêu Tông bỏ việc nước rời khỏi kinh đô, so sánh với Lệ Vương nhà Chu trốn đến đất Trệ hỏi có khác gì. Cung Hoàng mê mẩn Quý phi rượu chè say khướt so sánh với U Vương cũng chẳng khác mấy. Vậy mà trẫm muốn làm cái việc vua Thành Thang và Vũ Vương đã làm, không muốn đất nước lâm vào cảnh Xuân thu – Chiến quốc, các vị như Đàm Thận Huy, Nguyễn Nghiêm, Vũ Duệ lại bỏ trẫm, không muốn cộng tác, trẫm thật lấy làm giận và tiếc lắm! Chẳng đâu xa, ngay giờ đây bên trẫm không có Đô ngự sử Nguyễn Thái Bạt, vậy lấy ai bàn chính sự, can gián trẫm những khi thiếu sáng suốt? Không có Hộ bộ Thượng thư Nguyễn Thiệu Tri, vậy lấy ai đủ tài coi việc ruộng đất, thuế khoá, lương tiền cho quan quân? Không có Lễ bộ Thượng thư Đàm Thận Huy, vậy lấy ai coi việc lễ nghi, học hành, thi cử?

Các quan cùng tâu: “ Chúng thần xin hết sức để thay những vị ấy”.

Nhà vua nói tiếp:

– Tình hình chưa thể gọi là yên được. Hoàng thân quốc thích nhà Lê vẫn còn, họ sẽ không chịu ngồi yên vì ngay khi các vua Uy Mục, Tương Dực, Chiêu Tông, Cung Hoàng còn trị vì họ cũng đã làm những chuyện phế lập. Rồi thể nào họ cũng tìm cách sang Bắc quốc, lấy cớ có chuyện thay đổi triều đại mà cầu quân Minh trở lại nước ta. Theo các khanh thì thế nào?

Vũ Hộ tâu:

– Việc hoàng thân quốc thích và đám trung thần của triều vua cũ chống đối nên coi là điều dễ hiểu vì từ cổ chí kim đều vậy. Ngay như Thái hậu nhà Đinh là Dương Vân Nga tình nguyện đem long bào khoác cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, nhường ngôi cho nhà Tiền Lê, vua Đinh thì xuống làm Vệ vương, sau này Vệ vương còn giúp Đại Hành hoàng đế những 20 năm, lập nhiều công trạng, thế nhưng lúc đầu Đại Hành hoàng đế cũng bị nhiều kẻ chống đối. Con sông cái đêm Thái hậu Dương Vân Nga và Đại Hành hoàng đế gặp nhau trên thuyền rồng về sau còn bị đặt tên là sông Dâm Thủy! Lý Công Uẩn tuy được chính các quan trong triều đưa lên ngôi song cũng gặp phải điều tương tự. Đành rằng việc dời đô tới Đại La là đúng, khiến tiền đồ nước nhà mở mang nhưng phải thấy rằng vua Lý Thái Tổ không muốn ngày ngày cứ phải đụng chạm với những con mắt nghi kỵ của người Hoa Lư. Thế nên xin bệ hạ hãy nguôi đi những phiền muộn mà nghĩ cách phòng ngừa. Việc đối xử với các hoàng thân quốc thích cũng như các đại thần của triều vua cũ đến bây giờ như vậy là đã tận tình, chu đáo nên từ đây những kẻ nào còn một mực chống đối thì chỉ còn cách trừ diệt mà thôi. Với triều Minh tất nhiên phải mềm mỏng, cốt sao đất nước được bình yên, dân chúng khỏi lầm than, giang sơn thoát cảnh chìm đắm, tránh dẵm phải vết xe cũ của nhà Hồ. Nhưng đến bước đường cùng thì cũng phải kháng cự. Nhà Ngô, nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê đã từng oanh liệt, nhà Mạc ta chả nhẽ lại không làm được điều như họ sao? Hơn nữa, như thần được biết thì nhà Minh cũng có điều e sợ nước Nam ta. Vào thời vua Lê Thánh Tông nước ta, do quân đội nhà Lê mấy phen dám phạm cả biên cảnh mấy tỉnh Bắc quốc nên Thái giám Uông Trực bên nhà Minh có dâng với vua Tuyên Đức bản văn kế hoạch đánh nước Nam ta. Lưu Đại Hạ bấy giờ đang trông coi miền Lưỡng Quảng nghe tin vội nói với Thượng thư Bộ Hình là Du Tử Tuấn: “Nếu dấy binh đánh An Nam thì mấy tỉnh miền Tây Nam Trung Quốc không khỏi tơi bời trong khói lửa!” đê Tử Tuấn tâu với vua Minh. Vậy là vua Minh không nghe theo Uông Trực, thậm chí Vương Miễn sau khi công cán biên cảnh về tiếp tục xin đánh, còn bị vua Minh bắt giam vào ngục Cẩm Y vệ! Đại học sĩ nước họ là Từ Phổ còn có bài biểu phân tích lý do không nên đánh nước Nam ta.

Vua Mạc khen:

– Khanh nói rất phải. Đến con giun xéo lắm cũng quằn nữa là đường đường một triều đại như ta. Những kẻ còn chống đối thì ta phải diệt, kẻ ngoại xâm thì ta mềm dẻo nhưng đến nước cùng thì cũng phải đánh. Trẫm sẽ cho sứ thần sang Bắc quốc nói rằng con cháu nhà Lê không còn ai thừa tự cho nên di chúc cho đại thần họ Mạc tạm cai quản việc nước để yên nhân dân. Trẫm vừa mới đọc lại bài văn thi Đình của Trạng nguyên khoa Bính Tuất là Trần Tất Văn, thấy lời lẽ văn chương vừa thống thiết vừa hào sảng nên trẫm quyết định giao trông coi việc từ hàn, soạn các văn thư trao đổi với nhà Minh, khi cần đến thì đi sứ sang nước họ.

Trần Tất Văn cúi đầu lậy tạ. Nhà vua nói tiếp:

– Trẫm nghe tin mật báo nói Lê Công Uyên đang cùng Nguyễn Ngã, Nguyễn Thọ Tường âm mưu tập hợp những kẻ chống đối. Ngã và Thọ Tường không nói làm gì, chứ Công Uyên thì đáng kể tuy rằng Uyên cũng nhờ uy tín cha ông mà quy tụ được vây cánh. Uyên là cháu Lê Văn Linh khai quốc công thần triều Lê. Năm Thuận Thiên thứ hai, khi Lê Thái Tổ sắp xếp ngôi thứ các công thần và phong tước cho 221 tướng sĩ trong quân Thiết Đột vất vả theo đòi từ lúc mới khởi nghĩa ở Lũng Nhai thì Lê Văn Linh đứng ở hàng thứ 6, trên Trịnh Khả là ông nội đám Duy Đại, Duy Sản rất nhiều. Vậy nên các khanh cần lưu ý mà đề phòng. Một việc nữa là trẫm có ý định xây dựng Nghi Dương thành kinh đô thứ hai, gọi là Dương Kinh, lấy Cổ Trai làm trung tâm. Đây là việc không có gì mới, nhà Lý từng có Kinh Bắc, nhà Trần có Thiên Trường, nhà Lê có Tây Kinh. Nhà Lê còn lấy người ba phủ ở Thanh Hoa là Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia để làm phụ tử chi binh.

Các quan đại thần đều nói việc ấy rất nên.

(còn tiếp)

L.V.K

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder