
Tập thơ “Mẹ và Người lính” khai thác hai hệ thống biểu tượng người phụ nữ và những chiến sĩ Việt Nam đã từng trải qua cuộc chiến và sau cuộc chiến trở về sống giữa đời thường. Đây là tập thơ thứ 7 của Chu Long, vừa được Nhà xuất bản Lao Động giới thiệu tới bạn đọc trong tháng cuối năm 2021.
Phần 1 tập thơ bao gồm 22 bài viết về những người mẹ, người vợ, những người phụ nữtừng chịu cảnh đời cơ cực dưới thời thực dân, phong kiến, đã anh hùng, bất khuất cùng cả dân tộc vùng lên làm cách mạng, tham gia kháng chiến, xây dựng và bảo vệ quê hương, sống trung hậu, đảm đang cả việc nước, việc nhà. Chu Long dùng nhiều thi ảnh đẹp và gây xúc động khi khắc họa chân thực cảnh đời người phụ nữ nơi quê nhà trong những năm cả nước cùng đánh giặc.Bài thơ “Người vợ – Người mẹ” có những cảnh ngộ xa xót của người vợ có chồng trên chiến khu.
Thời kỳ nào cũng chất chứa bao gian lao, khổ hạnh mà người phụ nữ đều phải gồng mình hứng chịu nặng nề và can trường vượt qua. Bài thơ “Mẹ tôi” là một khúc ca đậm hồn quê mà ở đó chân dung bà mẹ nông dân hiện ra chân chất, gần gũi và đầy cảm phục:
“Cuộc đời chớp bể mưa nguồn
Bão giông lũ hạn ngập dồn lên thân.
Bàn chân nứt nẻ chai sần
Móng vàng úa nhuộm thẫm dần chuyển đen
Bàn tay gầy guộc lấm lem
Không còn mềm mại bởi quen đất đồng.
Che mưa chắn bão đuổi giông
Mang cho con ánh nắng hồng trời cao”.
Không chỉ phản ánh nguyên mẫu về bà, về mẹ, về người vợ thân yêu của mình, Chu Long đã dành nhiều trang thơ ngợi ca những phụ nữ mà anh đã gặp, đón nhận sự che chở, yêu thương trong suốt chặng đời mình tham gia quân ngũ. Từ chuyện về khúc sắn của mẹ miền Trung đến cảnh ngộ người mẹ già nơi thôn quê ngày đêm vẫn đợi chờ những đứa con xa mặc áo lính sẽ trở về sau cuộc chiến.
Nhà thơ Chu Long – hội viên Hội Nhà văn Hải Phòng – có gần chục năm trong quân ngũ. Với ánh nhìn nhân sinh qua hai mảng cảm thức chủ đạo xuyên suốt, tập thơ “Mẹ và Người lính” tập trung rọi chiếu, làm sáng tỏ từng mối liên hệ trong hành trình xúc cảm sáng tạo mà làm nên tính tiêu biểu của biểu tượng người mẹ và người chiến sĩ. Nhờ đó tác giả làm nổi bật chủ đề chung mà mỗi phần trong tập thơtạo dựng.
Phần 2 tập thơ bao gồm 27 bài viết về người chiến sĩ. Cảm xúc trào dâng khi nhớ đến những người đồng đội hi sinh anh dũng nơi chiến trường xưa đã giúp cho Chu Long viết lên những bài thơ đậm chất lính. Người chiến sĩ nằm lại trên những cánh rừng Trường Sơn, hòa tan xương máu trong nền cỏ xanh Thành cổ Quảng Trị, dưới làn nước dòng sông Thạch Hãn, để rồi như“Trả tên tuổi… về bên mẹ”. Có người ngã xuống “Trước nửa giờ toàn thắng” nơi cửa ngõ Sài Gòn. Tác giả không đi sâu khắc họa hình ảnh chiến sĩ cầm súng xông lên chiến đấu với kẻ thù mà chỉ kể lại những kỷ niệm đồng đội bên nhau trong giây phút bình thản giữa hai trận đánh, gợi lại điều tâm sự của người lính nhớ nhà, ước nguyện hòa bình về quê chăm sóc cha mẹ già, cưới vợ, sinh con, làm ăn trên đồng đất quê hương.Giờ đây, những cựu chiến binh thăm lại chiến trường xưa, đi tìm hài cốt đồng đội còn lưu lạc nơi bom rơi đạn nổ năm nào. Bài thơ “Trong lòng Thành cổ”, “Vị Xuyên” cùng nhiều bài khác có những ý thơ, câu thơ tạo xúc động mạnh cho bạn đọc. Nhập nhòa khói hương tưởng niệm các liệt sĩ trên đất lửa Quảng trị hay vùng núi cao biên giới Hà Giang, ngỡ còn nghe trong tim tiếng gọi thầm đồng đội ẩn mình trong lòng đất “Tao đi tìm mày đây”, Chu Long kể:
“Cầm tay lòng thấy bộn bề
Hẹn ngày chiến thắng về quê-Tao mời.
Nói xong hai đứa nghẹn lời
Ôm nhau nước mắt lau rồi quay đi
Không ngờ sau buổi chia ly
Hai thằng không được tin gì của nhau.
Một ngày đau xé lòng đau
Mày nằm ở lại tuyến đầu vinh danh”.
Tác giả làm thơ để nói hộ bao bạn chiến đấu cũ, thể hiện tình thương yêu đồng đội và ngân trong khúc bi tráng ấy niềm tự hào về đất nước anh hùng, về những người chiến sĩ quả cảm, hi sinh quên mình vì Tổ Quốc.
Trong bài thơ “Về lại chiến trường xưa”, anh viết thơ như lời nhắn gửi vong hồn liệt sĩ:
“Năm nào tao cũng về đây
Mong được gặp lại dáng mày năm xưa
Chiếc răng khểnh, mái tóc thưa
Nụ cười chiến sĩ mặc mưa đạn thù…
Giữa chiều gió chợt như ru
Tưởng như trận địa mây mù vừa tan”.
Phần 3 của tập thơ là bài cảm nhận văn chương của Chu Long về bài thơ “Vần thơ trên dòng sông Thạch Hãn” của Lê Hiếu.
Bút pháp Chu Long sử dụng biến chất liệu hình ảnh đời sống sang ngôn ngữ thi ca mộc mạc, thiên về miêu tả, nhưng nhờ sức mạnh của lý tính sáng tạo ẩn chứa trong cách thức tiếp cận xây dựng hệ thống hình tượng thơ, công phu và cẩn trọng, phần nào khắc phục được những hạn chế và tạo cho bạn đọc được những dấu ấn khá đậm đà. Đó là sự tiếp nối ngôn ngữ và phương pháp xây dựng hình tượng thơ mang dấu ấn nghệ thuật riêng của Chu Long.