Mênh mang Phù Thủy Châu – Bút ký của Lê Mạnh Thường

Trong chuyến hành trình này có rất nhiều người chưa từng đặt chân ra Bạch Long Vĩ. Mấy phóng viên trẻ lần đầu được đi biển cứ tíu tít hỏi tôi bao điều về huyện đảo. Thì đây, tôi đã chắt lọc những thông tin về Bạch Long Vĩ một cách cô đọng nhất để các bạn ấy dễ hình dung ra nơi con tàu sẽ tới:..

Trong chuyến hành trình này có rất nhiều người chưa từng đặt chân ra Bạch Long Vĩ. Mấy phóng viên trẻ lần đầu được đi biển cứ tíu tít hỏi tôi bao điều về huyện đảo. Thì đây, tôi đã chắt lọc những thông tin về Bạch Long Vĩ một cách cô đọng nhất để các bạn ấy dễ hình dung ra nơi con tàu sẽ tới:

Tôi lên đường ra huyện đảo Bạch Long Vĩ trên con tàu CSB 9004 của Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 1 trong cái rét căm căm của những đầu năm mới. Đúng 5 giờ sáng, khi thành phố Cảng còn đắm chìm trong màn đêm bao phủ thì con tàu bắt đầu rời bến để bắt đầu chuyến hành trình theo đúng kế hoạch. Mặc cho những cơn gió từ ngoài biển thổi vào mang theo cái lạnh tê tái nhưng trên cầu cảng, những cán bộ, chiến sĩ của đơn vị mang mặc quân phục chỉnh tề, đứng thành hai hàng ngang thực hiện nghi thức tiễn đoàn. Những cánh tay đưa lên vẫy chào tạm biệt trong làn mưa lất phất và tất thảy ai nấy đều muốn gửi gắm một điều rằng, chúc cho con tàu cùng đoàn công tác ra khơi bình an. Các ê kíp phóng viên của các cơ quan thông tấn, báo chí đi trên tàu đều tranh thủ mọi khoảnh khắc, mọi vị trí thuận tiện nhất để tác nghiệp. Ai cũng muốn lưu lại những cảm nhận, những khuôn hình đẹp nhất trong giây phút xúc động này.

Con tàu đã quay đầu vòng ra giữa sông Cấm, mũi hướng ra biển. Tiếng còi tàu chào cảng được kéo lên vang vọng cả một vùng cửa biển. Những cánh tay vẫy chào phía trên cầu cảng nhỏ dần, nhỏ dần. Lúc này tôi mới nghe rõ tiếng máy tàu nổ hòa cùng tiếng sóng, tiếng gió, cảm thấy sao mà thao thiết, bâng khuâng. Tôi chợt nghĩ rằng, nếu như có sự hoán đổi mặt biển là bầu trời thì những con tàu của Hải quân, Cảnh sát biển sẽ là những chú chim én đang cần mẫn dệt nên bức tranh khổng lồ để kéo cái khoảng xa xôi kia thêm gần lại. Những con tàu ấy đang chở cả mùa Xuân tràn đầy sức sống, tình yêu ra với biển đảo quê hương…

Trong chuyến hành trình này có rất nhiều người chưa từng đặt chân ra Bạch Long Vĩ. Mấy phóng viên trẻ lần đầu được đi biển cứ tíu tít hỏi tôi bao điều về huyện đảo. Thì đây, tôi đã chắt lọc những thông tin về Bạch Long Vĩ một cách cô đọng nhất để các bạn ấy dễ hình dung ra nơi con tàu sẽ tới:

“Bạch Long Vĩ là một huyện đảo thuộc thành phố Hải Phòng với diện tích khoảng 2,5 km² khi có thủy triều lên và khoảng 4 km² khi thủy triều xuống. Ngoài cái tên Bạch Long Vĩ (đuôi Rồng trắng), trước đây đảo còn có tên là Vô Thủy (nghĩa là không có nước). Sau này, có thời kỳ đảo được gọi là Phù Thủy Châu (hòn ngọc nổi trên mặt nước). Đến nay trên đảo vẫn còn di tích làng Thủy Châu. Cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên đảo Bạch Long Vĩ không có dân cư sinh sống, đảo chỉ là nơi tránh gió của ngư dân trên biển. Đến năm 1920, sau khi tìm được giếng nước ngọt, dân cư vùng Quảng Yên (Quảng Ninh) đã tới đây sinh sống, lập nghiệp bằng nghề chăn nuôi, trồng trọt trên đảo và khai thác hải sản. Năm 1937, chính quyền Bảo Đại phái người tới đảo lập đồn canh phòng và xây dựng chế độ lý trưởng trên đảo.

Ngày 16/1/1957, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã tiếp quản đảo, khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với đảo, vùng biển, vùng trời và thềm lục địa xung quanh đảo theo quy định của luật biển quốc tế. Ngày 16/1/1957, Chính phủ ra Nghị định số 49/TTg quy định đảo Bạch Long Vĩ là xã trực thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hải phòng. Ngày 9/12/1992, Chính phủ ra Nghị định số 15/NĐ/CP quy định thành lập huyện đảo Bạch Long Vĩ thuộc thành phố Hải phòng. Ngày 26/2/1993, Hải phòng đã tổ chức đưa 62 thanh niên xung phong và một số hộ ngư dân đầu tiên ra sinh sống và làm việc tại đảo. Một tháng sau, ngày 26/3/1993, chính quyền huyện đảo ra mắt nhân dân. Ngày 27/7/1994, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 397/TTg phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật tổng thể xây dựng huyện đảo Bạch Long Vĩ. Được Nhà nước đầu tư hàng trăm tỷ đồng, đến nay đảo Bạch Long Vĩ đã có hệ thống hạ tầng cơ sở khá khang trang, đồng bộ như: Cảng và khu neo đậu tàu, khu dịch vụ hậu cần nghề cá, hệ thống đường giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp điện, nước, các công trình văn hóa xã hội…”.

Với đặc thù công việc của mình, tôi đã có nhiều lần ra Bạch Long Vĩ. Mỗi chuyến đi lại cho tôi cảm nhận về hòn đảo này một cách khác nhau. Chuyến đi đầu tiên của tôi cách đây 14 năm. Đó là những ngày giáp Tết Nguyên đán, bà con nhân dân, ngư dân hầu như đã về đất liền hết nên đảo vắng hoe. Có hai kỷ niệm ở đây mà tôi luôn nhớ mãi. Thứ nhất là tắm nóng lạnh kiểu… Bạch Long Vĩ! Những ngày tháng Chạp trời rét căm căm, anh em chúng tôi ở tàu Cảnh sát biển ghé vào âu cảng để làm nhiệm vụ trực Tết tại khu vực đảo. Hồi đó còn là loại tàu phóng lôi của Nga, đóng cách đây trên 40 năm được cải hoán để trang bị cho lực lượng những ngày đầu mới thành lập. Con tàu cũ kỹ, già nua, chật chội nên anh em sinh hoạt hết sức khó khăn. Nghe mọi người kháo nhau trên đảo có dịch vụ tắm nóng lạnh nên anh em rất mừng và chia nhau lên “dọn người” để đón Tết. Đến nơi, tôi hết sức ngạc nhiên vì bình nóng lạnh chính là chiếc nồi quân dụng được chủ nhà đun bằng lá phi lao, lá bàng đang sôi ùng ục. Ai tắm thì múc vào xô đem vào nhà tắm pha nước để dùng. Phí mỗi lần tắm là 10 ngàn đồng. Đi biển dài ngày, được tắm một trận nước nóng kiểu Bạch Long Vĩ nên ai nấy đều sảng khoái. Cũng nhờ được tắm nóng lạnh mà anh em đều phấn chấn, tựu tin để đón chào Xuân mới.

Kỷ niệm thứ hai cũng vào chính dịp Tết đó, áp thấp gió mùa, biển động mạnh nên tàu từ đất liền không chở hàng ra đảo được. Biết mua sắm thực phẩm tươi ở đâu bây giờ? Anh em chúng tôi lên liên hệ với Trung đoàn 952 Hải quân hồi đó và được chia một ít thịt lợn mới mổ cùng mấy chai rượu “Nếp mới”. Nhưng đã có một sự cố xảy ra. Tay Tạo “ra đa” nhận nhiệm vụ làm giò thủ. Phải nói rằng Tạo nấu ăn thuộc hàng “cứng cựa” trên tàu nên ai cũng tin tưởng “phó thác” cái khoản giò thủ cho hắn. Vậy mà, hôm sau kiểm tra sản phẩm thì ôi thôi, mấy cái giò thủ bó chặt bỏ vào phía dưới hộc pháo 25 ly rồi đóng cửa kín lại. Sức nóng trong hộc pháo làm cho số giò thủ vữa ra, nát nhừ. Anh em lắc đầu chê Tạo. Cậu ta thấy thế bèn lí nhí xin lỗi và hứa lần sau sẽ cẩn thận hơn. Thôi, bây giờ chỉ biết cười trừ chứ biết làm sao nữa hả lão Tạo kia?

*

Sau hơn 8 tiếng hành trình, con tàu CSB 9004 đã ra đến khu vực đảo Bạch Long Vĩ, phải mất một chuyến tàu chuyển tải nữa thì các thành viên của đoàn công tác mới đặt chân lên đảo. Vẫn những cái bắt tay thật chặt, ánh mắt thân tình của các đồng chí lãnh đạo huyện đảo dành cho mọi người như bao lần tôi đến làm cho cảm giác mệt nhọc dường như bay biến.

Ngồi trên chiếc xe 16 chỗ từ âu cảng về nhà khách của Ủy ban nhân dân huyện, tôi mải mê ngắm nhìn diện mạo của Bạch Long Vĩ sau hai năm mới có dịp quay trở lại. Những khối nhà công vụ, nhà tầng của dân mới được mọc lên, san sát nhau. Dự án quảng trường, cổng chào huyện đảo đang dần được hoàn thành, đường sá phong quang, sạch sẽ, các khu dân cư đã có đầy đủ các dịch vụ như trong đất liền. Là hòn đảo xa bờ nhất Vịnh Bắc bộ nhưng Bạch Long Vĩ chẳng khác gì một đô thị sầm uất, khang trang. Sự “thay da đổi thịt” từng ngày của huyện đảo đã cho thấy hết được sự nỗ lực, phấn đấu không mệt mỏi của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân nơi đầu sóng ngọn gió này.

Chiều muộn, sau khi đi bộ dạo một vòng phía trước đảo, tôi ghé vào nhà ông Nguyễn Đức Vịnh ở khu dân cư số 1 khi ông đang vá lưới sau một ngày làm việc. Giọng nói vẫn mang chất đặc trưng của vùng Lập – Phục – Phả, người đàn ông tròm trèm tuổi 50 kể cho tôi về cuộc sống của gia đình mình. Quê xã Lập Lễ, huyện Thủy Nguyên, vốn dĩ là ngư dân ở địa phương, ra đảo năm 1997 theo chủ trương của nhà nước nên ông vẫn lấy công việc chài lưới làm nghề mưu sinh. Vợ chồng ông có 3 người con. Cháu gái đầu 23 tuổi, là y sĩ của Trung tâm Y tế huyện đảo. Cậu con trai thứ hai 21 tuổi, hiện đang du học tại Hàn Quốc. Còn cháu thứ 3 đang học lớp 4 tại đây.

Ông Vịnh kể, hồi mới ra đây, cuộc sống hết sức khó khăn vì phương tiện đi lại rất ít, ở quê có công buổi nhưng không thể về được vì không có tàu. Cơ sở hạ tầng lúc ấy còn kém nếu như không muốn nói là khá hoang sơ. “Còn như bây giờ, anh thấy đấy, tàu khách, tàu hàng ra vào thường xuyên. Chưa kể các tàu của Hải quân, Cảnh sát biển hay chở đoàn ra công tác nên cán bộ và nhân dân trên đảo có thêm điều kiện đi lại khi có việc cần!”. “Thu nhập hiện tại với công việc của anh ra sao?”- Tôi hỏi. Ông Vịnh vừa vá lưới vừa đưa mắt nhìn tôi, ánh mắt ông lấp lóa niềm vui: “Công việc của tôi là đánh cá ở ven đảo chứ không phải đánh bắt dài ngày, xa bờ như anh em các tỉnh phía Nam ra đây. Trung bình mỗi ngày thu nhập từ 500, 700 đến 1 triệu đồng. Có ngày được 2 triệu tiền bán cá. Có gió lại nghỉ, ở nhà chơi với con, cháu ngoại!”.

Chia tay ông Vịnh để trở về dùng bữa cơm tối do Ủy ban nhân dân huyện mời mà lòng tôi lâng lâng niềm vui. Màn đêm buông, ánh điện tỏa sáng khắp các con đường bê tông trên đảo hòa cùng với ánh đèn trên các tàu đang neo trong âu cảng làm cho Bạch Long Vĩ càng lung linh giữa biển khơi sóng nước. Những bãi đất hoang xưa khô cằn, sỏi đá, giờ đây mọc lên nhiều công trình mới, cột vi-ba cao vút, dịch vụ 4G của Viettel phủ sóng liên lạc một vùng rộng lớn trên biển quê hương.

*

Căn phòng làm việc của Phó Bí thư huyện ủy, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đào Minh Đông lồng lộng gió biển. Trên tường của phòng khách treo một bảng ảnh lớn chú thích 24 loài động thực vật thủy sinh được bảo vệ nghiêm ngặt tại khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ. Tôi mải mê ngắm nhìn từng tấm ảnh nhỏ và không khỏi ngạc nhiên vì những loại thủy sinh quý hiếm của biển Việt Nam đều có ở đây. Đào Minh Đông giới thiệu cặn kẽ cho tôi về đặc tính, số lượng của từng loài thủy sinh như rạn san hô, bào ngư, ốc sứ trắng nhỏ, ốc đụn cái, tôm hùm đỏ, trai ngọc nữ, vọp tím, vẹm xanh… về hệ sinh thái của vùng biển Bạch Long Vĩ. Anh dẫn chứng bằng các số liệu để tôi dễ hình dung hơn: Khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập năm 2014 có quy mô 27.008 ha, trong đó xác định phân khu bảo vệ nghiêm ngặt có diện tích 2.570ha, phân khu phục hồi sinh thái 4.599ha, phân khu phát triển 6.887ha, vùng biển phía ngoài khu bảo tồn 9.673ha và khu vành đai bảo vệ gần 3.300ha. Đây là khu dự trữ tài nguyên thiên nhiên với mục tiêu là bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái rạn san hô, rong, cỏ biển, bãi giống, bãi đẻ và các loài động thực vật thủy sinh, các loài đặc hữu và quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng, đặc biệt là bào ngư, ốc hương, trai ngọc, tôm hùm đỏ… Đồng thời phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học, tham quan, du lịch sinh thái, xây dựng và thực nghiệm các mô hình bảo tồn.

Nghe Đào Minh Đông say sưa kể tôi không khỏi trầm trồ vì những kiến thức, sự am tường của anh về vấn đề này. Qua trò chuyện tôi mới vỡ ra, anh là Thạc sĩ ngành Thủy sản và cũng chính là Giám đốc của Ban Quản lý Khu bảo tồn biển này.

Sinh năm 1979, quê huyện An Lão, ra nhận công tác tại đảo từ năm 2004. Trải qua các chức vụ khác nhau, năm 2015, Đào Minh Đông nhậm chức Phó chủ tịch huyện. Cùng với chủ tịch Trần Quang Tường mới được bổ nhiệm sinh năm 1977, Bạch Long Vĩ đang có sự trẻ hóa cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Điều đó vừa thể hiện sự tin tưởng, kỳ vọng của tổ chức đối với lớp cán bộ trẻ nhưng cũng là cơ hội, là thách thức họ thể hiện bản lĩnh, khả năng của mình trên hòn đảo thanh niên này.

Câu chuyện giữa tôi và Phó chủ tịch Đông trở nên hứng khởi hơn khi nghe anh nói về những kết quả thực hiện các chỉ tiêu nhiệm vụ kinh tế – xã hội của huyện đảo cũng như phương hướng trong thời gian tới. Với chỉ khoảng 200 hộ dân, hơn 500 nhân khẩu quần tụ trên một diện tích nhỏ nhưng Bạch Long Vĩ như một thỏi nam châm thu hút một số lượng lớn tàu thuyền của bà con ngư dân khắp các tỉnh tập trung ra khai thác thủy hải sản tại ngư trường rộng lớn và tiềm năng này. “Cụ thể là bao nhiêu, thưa anh?”- Tôi hỏi. Phó chủ tịch Đông cho biết, thời điểm cao nhất có từ 700, có lúc khoảng 1000 tàu cá, chủ yếu là của bà con các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Thuận vào cập âu cảng để tránh trú gió mùa. Tàu vào âu nhiều đồng nghĩa với việc ngư dân lên đảo nhiều, có lúc từ 2 đến 3 ngàn người. Đảo đông nghịt người chẳng khác gì khu du lịch ở Cát Bà, Đồ Sơn. Bài toán về phát triển kinh tế, bảo đảm tình hình an ninh, quốc phòng đã được lãnh đạo huyện bàn bạc thấu đáo và xử lý một cách nhịp nhàng, hiệu quả. Chỉ tính riêng năm 2017 vừa qua, tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế của huyện đạt 445,2 tỷ đồng, đạt 106% kế hoạch năm, tăng 11,3% so với năm 2016.

Tôi càng vui hơn khi nghe Đào Minh Đông kể cho nghe về tình hình triển khai một số dự án nổi bật trên địa bàn huyện. Những dự án thiết thực này đều sắp hoàn thành, góp phần vào phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của cán bộ và nhân dân huyện đảo: dự án đầu tư xây dựng cảng và khu neo đậu tàu phía Tây Bắc đảo giai đoạn 1; dự án đóng mới tàu thủy chở khách và hàng hóa ra đảo; dự án trồng rừng phòng hộ; dự án xây quảng trường, cổng chào Bạch Long Vĩ cùng 9 dự án đầu tư công của huyện. Bên cạnh đó, Điện lực Hải Phòng đang tiếp tục triển khai thực hiện dự án cấp điện cho huyện đảo giai đoạn 2015 – 2020; Công ty cổ phần cấp nước Hải Phòng đang xúc tiến triển khai dự án xây dựng hệ thống xử lý nước, cấp nước trên địa bàn huyện. Dự án hồ chứa nước trên đảo do Tổng đội TNXP Hải Phòng thực hiện cũng đang dần được hoàn thành…

Cuộc trò chuyện giữa tôi và Đào Minh Đông phải kết thúc sớm hơn dự định khi anh bận phải đi giải quyết một số công việc đột xuất của cơ quan. Nhưng với tôi, chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ tôi hình dung được một khối lượng công việc khổng lồ mà Đảng bộ, chính quyền, quân và dân ở đây đang chung tay thực hiện để không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống đồng thời giữ vững thế trận quốc phòng, an ninh.

*

Tôi định kết thúc bài viết ở đây với niềm phấn khích trước một Bạch Long Vĩ phát triển mạnh mẽ, đồng bộ và ấn tượng nhưng sẽ cảm thấy thiếu sót nếu như không nhắc đến một nhân vật đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ, cuộc đời anh đã phải trải qua biết bao nỗi đau đớn, xót xa khi chứng kiến những người thân yêu của mình lần lượt mang trong mình nỗi đau thời hậu chiến. Vượt lên nghịch cảnh, gần 20 năm qua, giữa nắng gió biển khơi, anh vẫn lặng lẽ phấn đấu vươn lên như cây phong ba đang ngày đêm kiên cường bám trụ nơi đầu sóng. Đây chính là một mảnh ghép trong bức tranh đa sắc về hòn đảo có tên Đuôi Rồng Trắng trong truyền thuyết dân gian.

Con dốc bê tông thoai thoải dẫn tôi lên Tiểu đoàn Phòng thủ đảo Bạch Long Vĩ thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Hải Phòng để gặp người tôi cần. Đó chính là Thiếu tá quân nhân chuyên nghiệp Nguyễn Chính Xuân – Nhân viên Thống kê Quân khí thuộc Đại đội Bảo quản. Qua anh em bạn bè giới thiệu, hôm nay, tôi mới được gặp và trò chuyện cùng anh. Nước da bánh mật, giọng nói nhỏ nhẹ và gương mặt có phần khắc khổ là cảm nhận đầu tiên của tôi về người lính đã dành gần trọn đời quân ngũ của mình để gắn bó với hòn đảo này.

Nguyễn Chính Xuân sinh ra và lớn lên ở xã Đông Lĩnh, huyện Đông Sơn (nay thuộc thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Xuân kể, bố mẹ anh sinh được 4 người con, Xuân thứ 3. Trước khi nhập ngũ, bố mẹ anh đều là công nhân cầu phà ở địa phương. Sau khi sinh được chị gái và anh trai ở quê, năm 1971, bố Xuân lên đường vào chiến trường Quảng Trị, trực tiếp tham gia nhiều trận đánh chống quân thù. Trong những trận đánh ông tham gia có trận chiến 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ đầy cam go, ác liệt. Sau hai năm chiến đấu ở vùng đất lửa, năm 1973, ông quay ra Bắc đi học mà không hề biết đã mang trong mình chất độc da cam mà đế quốc Mỹ đã rải xuống mảnh đất Quảng Trị.

“Mọi bi kịch bắt đầu từ đây anh ạ!”- giọng Nguyễn Chính Xuân chùng xuống, ánh mắt đượm buồn. Năm 1975, bố mẹ sinh Xuân khỏe mạnh bình thường. 12 năm sau, em gái Xuân chào đời. Do bị di chứng da cam nên em không nói được, sức khỏe yếu. Gia đình đã đưa em đi nhiều nơi chữa trị nhưng bệnh tình không hề biến chuyển. “Hiện giờ em bị chứng giãn tim, bác sĩ bảo tim của em gái giờ to kín lồng ngực, sức khỏe rất yếu, đợt ốm vừa rồi tưởng chừng không qua khỏi…!”.

Tiếp nối truyền thống gia đình, hai anh em Xuân lần lượt nhập ngũ và trở thành những người lính trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1996, khi đang là học viên của Trường Trung cấp kỹ thuật Quân khí, Nguyễn Chính Xuân đã đem lòng yêu cô gái là em ruột của người bạn thân ở xã Gia Khánh, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, cách trường Xuân học 3 km. Tình yêu cứ thế lớn lên, hai người quyết định tổ chức lễ cưới năm 1999. Hiền theo chồng về quê Thanh Hóa sống. Cũng vào cuối năm đó, Xuân ra trường và có quyết định điều động ra đảo Bạch Long Vĩ nhận công tác cho đến nay. Biết tin chồng ra công tác ở đảo, Hiền đấm lưng Xuân thùm thụp vẻ giận dỗi: “Em đã lấy chồng xa giờ lại phải xa chồng, bắt đền anh đấy!”. Xuân hiểu, Hiền luôn xác định là vợ bộ đội nên sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi. Vì tình yêu, sự tin tưởng nên vợ anh sẽ luôn là hậu phương vững chắc cho anh yên tâm công tác nơi đảo xa.

Năm 2000, cháu gái đầu lòng ra đời trong niềm vui mừng khôn xiết của gia đình, họ hàng. Với Xuân, niềm vui đó còn nhân lên gấp bội vì anh đóng quân ở đảo, ít có dịp được về thăm nhà. Bốn năm sau, vợ chồng Xuân lại sinh tiếp một bé gái được đặt tên là Nguyễn Thị Nguyên Hồng. Lần này, niềm vui ngắn chẳng tày gang. Xuân kể, lúc cháu sinh ra cũng bình thường như bao đứa trẻ khác nhưng đến hai tuổi vẫn chưa biết đi. Tranh thủ những ngày nghỉ phép, hai vợ chồng bế con đi lên bệnh viện tỉnh, bệnh viện trung ương để kiểm tra và tất cả đều cho kết luận: cháu bị thiểu năng trí tuệ, bị liệt một nửa bên trái, không nói được do nhiễm chất độc hóa học. Nghe thông báo từ bác sĩ mà vợ chồng anh như chết lặng. Nỗi đau da cam, di họa chiến tranh vẫn không buông tha gia đình anh. Với bản lĩnh của một người lính, Xuân giấu nỗi đau vào trong và an ủi, động viên vợ cố gắng vượt qua để tiếp tục nuôi con. Xuân còn cho biết, bố vợ anh cũng là thương binh 2/7, bị mất 1 chân ở chiến trường Lào, cụ mất năm 2007.

Nỗi đau cũng dần nguôi ngoai, mẹ con anh ở cùng ông bà nội để chồng yên tâm làm nhiệm vụ. Năm 2012, vợ chồng anh quyết định sinh thêm 1 cháu nữa. Rất may cháu gái hiện nay đã 6 tuổi và khỏe mạnh bình thường. Xuân kể với tôi bằng ánh mắt long lanh: “Cháu gái đầu hiện nay 18 tuổi, đang là sinh viên Trường Cao đẳng Công nghiệp may tại Hà Nội. Vợ em thì vẫn một mình xoay xở mọi việc để chăm sóc bố mẹ, em chồng và nuôi con ở quê. Cô ấy còn làm 6 sào ruộng, lúc nông nhàn thì nhận thêm việc may câu đối, hồng kỳ để kiếm thêm thu nhập anh ạ!”. “Thế còn Nguyên Hồng giờ ra sao?”- Tôi hỏi Xuân. “Thương lắm anh ạ, cháu giờ đã 14 tuổi rồi. Bây giờ công nghệ hiện đại nên thỉnh thoảng em gọi điện thoại hình ảnh về nhà gặp cháu. Nhìn cháu tươi cười, nước dãi chảy ướt cằm, miệng nói ngọng nghịu không thành lời nhưng em hiểu được ngôn ngữ của cháu “Con nhớ bố, con yêu bố lắm!” – Xuân mỉm cười kể với tôi mà ánh mắt rưng rưng.

Tưởng chừng như những nỗi đau, sự nghiệt ngã của số phận sẽ làm cho Nguyễn Chính Xuân sống thu mình, an phận với công việc của một người lính quân khí nơi đảo xa. Nhưng ngược lại, bằng nghị lực, niềm tin của mình, Nguyễn Chính Xuân vẫn không ngừng nỗ lực phấn đấu để vượt qua được rào cản của nghịch cảnh và đạt được nhiều thành tích, góp phần cùng đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Ở Trung đoàn 952/ Vùng 1 Hải quân trước đây và nay là Tiểu đoàn Phòng thủ đảo Bạch Long Vĩ, anh em cán bộ, chiến sĩ thường gọi Nguyễn Chính Xuân là “cây sáng kiến” của đơn vị. Quá trình công tác nhiều năm ở đảo, qua thực tiễn bắn đạn thật B41, Nguyễn Chính Xuân luôn trăn trở về chất lượng vũ khí trang bị, đạn dược do đã qua nhiều năm sử dụng. Bên cạnh đó, công tác bảo quản, bảo dưỡng trong điều kiện khí hậu thời tiết trên đảo tương đối khắc nghiệt. Đặc biệt là gió ở khu vực đảo Bạch Long Vĩ rất lớn nên phần nào đã ảnh hưởng tới công tác an toàn cho người sử dụng khi bắn viên đầu tiên. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối, năm 2016, sau khi báo cáo về ý tưởng và  được chỉ huy nhất trí, Nguyễn Chính Xuân đã nghiên cứu, sáng tạo ra sản phẩm “Giá giật cò và hiệu chỉnh súng B41”. Khi đưa sản phẩm vào bắn và hiệu chỉnh thử nghiệm tại thực địa đã cho kết quả bảo đảm tốt, 3/3 quả đều trúng mục tiêu, an toàn tuyệt đối cho người sử dụng. Sáng kiến đã được lựa chọn tham gia Hội thi sáng kiện mô hình học cụ cấp Quân khu. Sản phẩm này được cơ quan chức năng Quân khu đánh giá cao về khả năng sáng tạo, kinh phí đầu tư ít mà tính ứng dụng cao, hiệu quả thiết thực, có thể ứng dụng rộng rãi.

Năm 2017, Nguyễn Chính Xuân tiếp tục sáng chế ra sản phẩm “Giá bắn hiệu chỉnh súng tiểu liên AK” nhằm bảo đảm an toàn cho người bắn. Cũng trong năm 2017, Nguyễn Chính Xuân còn trực tiếp làm mới 5 bộ cửa kho hầm đạn chất lượng tốt, bảo đảm an toàn. Và ngay những ngày đầu năm 2018 này, Nguyễn Chính Xuân vừa hoàn thành sáng kiến mới của mình có tên “Thiết bị bắn gián tiếp súng B41”. Đây là sản phẩm phục vụ công tác huấn luyện của bộ đội và sáng kiến này chuẩn bị được đưa vào bắn nghiệm thu.

Với sự nỗ lực, cố gắng của mình, Nguyễn Chính Xuân đã được thủ trưởng các cấp ghi nhận và tặng thưởng bằng nhiều hình thức khác nhau. Gần đây nhất, năm 2016, 2017 anh được tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở” của Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Hải Phòng. Nguyễn Chính Xuân cũng là đại biểu đi dự và nhận Bằng khen tại Hội nghị điển hình tiên tiến sơ kết 3 năm cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” của Đảng ủy – Bộ Tư lệnh Quân khu 3 tổ chức năm 2017.

Tiễn tôi ra về qua khoảng sân rộng, dưới kia là cả một màu xanh ngắt của biển, Đại úy Vũ Thành Giang, Chính trị viên phó Tiểu đoàn không quên nhận xét về người nhân viên Quân khí thuộc quyền của mình: “Sự say mê sáng tạo của đồng chí Nguyễn Chính Xuân đã góp phần khơi dậy phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong toàn đơn vị. Những sáng kiến đó đã góp phần làm cho công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của đơn vị ngày càng hiệu quả, thiết thực, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao!”.

Tôi bước đi trong tiếng ầm ào của sóng biển. Hình ảnh Nguyễn Chính Xuân và cô con gái thân thương cứ ám ảnh tôi mãi. Ánh mắt ngây dại và tiếng nói ngọng nghịu của Nguyên Hồng như nhắc nhớ Xuân cần phải phấn đấu, nỗ lực hơn nữa để xứng đáng với truyền thống gia đình và làm tỏa sáng hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”.

Chia tay Phó chủ tịch Đào Minh Đông, chia tay ông Nguyễn Đức Vịnh, Thiếu tá Nguyễn Chính Xuân và bà con nhân dân, ngư dân của huyện đảo để trở về thành phố Cảng trong ánh bình minh, tôi cảm nhận được tình biển, tình người nơi đây đang thấm đẫm vào từng đường gân thớ thịt của mình. Con tàu gỗ chở đoàn công tác rời khỏi âu cảng để ra với tàu CSB 9004 đang neo ở ngoài kia. Trong mênh mang thanh âm của ngày mới, lòng tôi chộn rộn niềm vui về một Bạch Long Vĩ giàu tiềm năng đang từng bước chuyển mình trong Xuân mới. Ở đó, có những con người tràn đầy sức trẻ, tình yêu đang đêm ngày kiên gan trụ vững để ra sức làm giàu và bảo vệ vững chắc biển đảo quê hương

29/3/2018

L.M.T

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder