Mỗi ánh sao thi ca sáng một vẻ Ural – Triệu Lam Châu

Tôi tin rằng: Nếu bài thơ Bên cột mốc Á – Âu của Châu Hồng Thuỷ được dịch thành công sang tiếng Nga và lời cảm nhận thật máu thịt này của Triệu Lam Châu tôi đến được với người Nga – Thì tác phẩm thơ ấy của một nhà thơ Việt Nam (Châu Hồng Thuỷ như thể đã hoá thân thành tâm hồn Nga) – thể nào cũng sẽ được trang trọng đưa vào chương trình Hội thảo “Đời con không thể thiếu Ural” như bấy nhiêu lần trong những năm qua trên dải núi hùng vĩ khổng lồ mà chan chứa tình người này…

Tôi tin rằng: Nếu bài thơ Bên cột mốc Á – Âu của Châu Hồng Thuỷ được dịch thành công sang tiếng Nga và lời cảm nhận thật máu thịt này của Triệu Lam Châu tôi đến được với người Nga – Thì tác phẩm thơ ấy của một nhà thơ Việt Nam (Châu Hồng Thuỷ như thể đã hoá thân thành tâm hồn Nga) – thể nào cũng sẽ được trang trọng đưa vào chương trình Hội thảo “Đời con không thể thiếu Ural” như bấy nhiêu lần trong những năm qua trên dải núi hùng vĩ khổng lồ mà chan chứa tình người này…

Hai năm trước đây, tình cờ tôi được đọc một chùm thơ hết sức độc đáo của nhà thơ Châu Hồng Thuỷ trên Trang mạng văn học Người bạn đường (nguoibanduong.net) – Cơ quan ngôn luận của Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tại Nga, Trụ sở đóng tại thủ đô Mátxcơva.

Chùm thơ ấy nói lên cảm xúc của nhà thơ, khi đứng bên cột mốc phân chia ranh giới giữa Châu Á và Châu Âu trên dãy núi Ural hùng vĩ của nước Nga xa xôi.

Bất chợt tôi lại nhớ về kỷ niệm cũ, hồi còn học cấp hai trường làng ở xã Đức Long, Hoà An, Cao Bằng miền núi quê tôi. Đó là năm 1966 trong giờ học địa lý do cô Vũ Thị Thảo phụ trách, có bài nói về Dãy núi điệp trùng Ural, một ranh giới tự nhiên phân chia hai châu lục khổng lồ Á – Âu. Dãy núi hùng vĩ ấy kéo dài hơn hai ngàn năm trăm cây số, từ nước Cộng hoà Kadắcxtan ở miền Trung Á, lên đến tận biển Bắc Băng Dương lạnh giá của Liên bang Nga.

Tôi ngước đôi mắt tròn xoe của mình lên nhìn theo tay cô giáo chỉ bản đồ treo trên bảng – mà tưởng tượng thấy thấy lồng lộng xa thẳm muôn trùng. Một cái gì đó thật kỳ thú, bí ẩn chứa chan ở nơi xa xăm ấy – như thúc giục bao trái tim nồng cháy hãy bay ngay tới đó mà khám phá, thám hiểm và thưởng ngoạn, cho thoả nỗi khát khao, phóng khoáng và lãng mạn của lòng mình…

Ural… ôi Ural…Người thật là kỳ thú và đầy ấn tượng. Nếu được tới đó, ta sẽ đến thăm Bẩy “Gã khổng lồ” trấn giữ vùng núi Ural. Đó là những cây cột đá ở cao nguyên Man Pupu Nyor –  một di sản địa chất được điêu khắc sâu trong vùng núi Ural của Nga. Những cột đá tự nhiên ấy cao từ 30 đến 42 m giữa cao nguyên thoai thoải mênh mông. Đây xứng đáng là kì quan thiên nhiên tuyệt hảo.

Hình dạng khác thường cũng như vị trí của 7 cây cột đá khổng lồ nằm ở cao nguyên Man Pupu Nyor là một nguồn cảm hứng cho hàng trăm huyền thoại trong suốt những năm qua. Nhưng có lẽ đáng nói nhất là truyền thuyết của người Mansi, về sự xuất hiện của những cây cột đá này. Có 6 gã khổng lồ tấn công bộ tộc Mansi, họ theo sát từng bước chân của bộ tộc này và gần như đuổi kịp đến thượng nguồn sông Pechora (Nơi bộ tộc Mansi sinh sống). Nhưng bỗng nhiên xuất hiện một pháp sư mặt trắng như vôi, xông ra chặn đường và niệm thần chú biến 6 gã khổng lồ kia thành đá. Bất hạnh thay là phép thuật thầy pháp có hạn, nên cuối cùng thầy cũng biến thành đá.  Điều này cũng giải thích cách bố trí của 7 cột đá tại cao nguyên Man Pupu Nyor. Sáu trong 7 cột đá với kích thước khổng lồ nhóm lại thành cụm, chỉ duy nhất một cột đá là nằm tách biệt ra khỏi nhóm một mấy chục mét. Trông tất cả như những bức tượng đài sừng sững giữa một cao nguyên rộng lớn.

Rồi hẳn mọi người cũng sẽ tò mò hỏi: Ural nghĩa là gì vậy?  Theo ngôn ngữ Bashkir – Người Bashkir sống ở phía nam của khu vực này – Ural có nghĩa là “Thắt lưng”. Một chuyện cổ tích Bashkir kể về một người khổng lồ thắt chiếc đai lưng có những chiếc túi sâu. Ông ta giấu tất cả tài sản của mình vào trong những cái túi của chiếc đai lưng khổng lồ. Có một lần, người khổng lồ kéo căng sợi dây lưng, và chiếc đai lưng đó nằm dài trên mặt đất từ biển Kara lạnh giá phía bắc đến những bờ cát nóng của biển Caspian ở phía Liên bang Nga. Dãy núi Ural đã hình thành như vậy.

Đúng như các cụ xưa đã nói: Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Một câu chuyện cổ tích kỳ thú như thế này, lẽ nào lại không quyến rũ những trái tim trẻ trung cơ chứ!

Nếu như người Bashkir hình dung dải núi Ural như chiếc Thắt lưng huyền diệu – Thì Triệu Lam Châu tôi lại tưởng tượng thấy Ural như một dải cầu vồng rực rỡ, ảo huyền và hùng vĩ bắc ngang trời quyến rũ. Và một loạt thành phố lớn của nước Nga nạm vào dải cầu vồng kỳ vĩ ấy, như những NỐT NHẠC thần tiên say đắm lòng người:

Ekaterinbua – Per – Cheliabinxcơ – Upha – Openbua – Magnhitogorxcơ – Hạ Taghil – Kurơgan – Xterligamak…

Mỗi nốt – nhạc – thành – phố trên dải núi cầu vồng Ural ấy, đều ánh lên một vẻ huy hoàng quyến rũ riêng của nó:

Thành phố chính của vùng Ural là Ekaterinbua, được mang tên Hoàng hậu Ekaterina, vợ của Nga Hoàng Pyotr Đại Đế. Thành phố được thành lập năm 1723, thời kỳ cải cách nổi tiếng của Nga Hoàng Pyotr, khi đất nước cần thêm những nguồn lực công nghiệp mới. Đây là trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật và là khu công nghiệp lớn của nước Nga. Thành phố này nằm ở sườn đông của miền Trung dãy Ural. Khu này núi không cao lắm, nên người ta đã xây dựng những tuyến đường sắt chính qua đây để đi sang phía đông, vào miền Xibia mênh mông.

Thành phố Per (Thành lập năm 1723) được coi là thành phố nằm ở miền cực bắc nhất của nước Nga.

Thành phố Cheliabinxcơ được thành lập năm 1736, là trung tâm khai khoáng và chế tạo máy cực lớn của nước Nga.

Thành phố Upha (Thành lập năm 1574) là thủ phủ nước Cộng hoà tự trị Baskortoxtan, trong Liên bang Nga. Đây là trung tâm khai thác dầu khí lớn nhất của Liên bang Nga. Thành phố này có nét đặc biệt nữa là kéo dài từ Bắc xuống Nam những 53 cây số, rộng từ Tây sang Đông những 28 cây số (Chiều dài đứng vào hàng thứ ba, sau Xôchi và Vongagrát).

Thành phố Magnhitogorxcơ (Thành lập năm 1929) là một trong những trung tâm luyện kim đen lớn nhất thế giới.

Hai thành phố Hạ Taghil và Kurơgan  – là nơi chế tạo nhiều loại vũ khí, khí tài quân sự nổi tiếng. Chính vì vậy những năm qua đã có nhiều đoàn sĩ quan quân sự của các nước, tới đây tìm hiểu và đặt hàng mua vũ khí, để hiện đại hoá lực lượng quân sự của mình…

Thành phố Xterligamak xinh đẹp (Thành lập năm 1766), từng là cố đô của nước Cộng hoà tự trị Baskortoxtan…

Dải núi hùng vĩ Ural là vùng đất mới của những tưởng tượng kỳ thú, đã âm ỉ cháy trong lòng tôi từ thuở thiếu thời.

Sinh viên Trường Đại học Mỏ Lêningrát – Xanh Pêtécbua hồi những năm bẩy mươi thế kỷ 20, mỗi năm được đi thực tập địa chất ở rừng núi và các mỏ khai thác khoáng sản hàng hai tháng trời. Cuối tháng 7 năm 1974 sau khi chúng tôi học xong chương trình năm thứ ba, các thầy giáo người Nga đưa ra mấy địa điểm cho sinh viên nước ngoài lựa chọn để đi thực tập: Cápcadơ – Piachigorxcơ – Krưm – Cuốcxơ – Kraxnođar – Kuxtanai…Vùng Krưm mình đã đi năm 1972 rồi. Vùng Cápcadơ – đã đi năm 1973. Còn năm 1974 này mình sẽ chọn vùng nào đây?

Tôi nhìn thấy bên cạnh tên Kuxtanai, trong ngoặc thầy có ghi (Kadắcxtan). À vậy đó là miền Trung Á rồi. Bốn năm nay mình sống trong Trường văn hoá Âu Châu, bây mình phải tranh thủ dịp thực tập này vượt dãy Ural (Một niềm say đắm của thuở nào) để sang đầm mình trong Vầng văn hoá Á Châu của lòng ta cho đỡ nhớ nhà, nhớ quê hương bản quán thôi.

Vậy là tôi xin đăng ký với thầy giáo đi thực tập ở vùng Kuxtanai, miền Trung Á Kadắcxtan xa vời, lạ lẫm mà quyến rũ.

Một mình tôi đi tàu hoả bốn ngày đêm từ Lêningrát, miền Tây bắc nước Nga, xuống miền Đông nam, vượt dãy Ural sang miền Trung Á, đến Kuxtanai – Xa cách muôn trùng. Đi một mình trên đất khách quê người, lại càng cảm thấy cô đơn, lẻ loi, tội nghiệp và thấy thêm xa dằng dặc quãng đường trường thăm thẳm ngút ngàn…

Một cảm giác nghẹn ngào, miên man, thảng thốt, bồng bềnh mà rưng rưng nước mắt – thật khó nói nên lời. Khi đến nơi thực tập lạ lẫm ấy ở Kuxtanai, tôi liền viết thư ngay gửi về nhà ở Cao Bằng rất đỗi xa xăm, trong đó có một câu tôi còn nhớ như in: Vậy là con đã bước sang Miền Châu Á của chúng ta rồi, pa mé ơi!

Khi thốt lên câu nói đó trong thư, tôi bỗng thấy một luồng văn hoá ấm áp Á Châu của phương đông, quen thuộc tự thuở nào, choàng lấy người tôi và như thể râm ran trong từng mạch máu rưng rưng. Thật là cảm động vô vàn… (Thư gửi từ Kadắcxtan hồi ấy phải mất 25 ngày sau mới đến Cao Bằng, Việt Nam quê ta đó).

* * * * *

Chính vì những nỗi niềm rất lắng đọng và rất riêng ấy, mà lòng tôi cảm được ngay cái thần của chùm thơ biên giới Á – Âu của nhà thơ Châu Hồng Thuỷ (Gồm hai bài là: Bên cột mốc Á – Âu và Đêm Ural).

Và khi đọc xong chùm thơ ấy, trong lòng tôi lại bỗng nảy ra một ý nghĩ mới: Lâu nay mình ngưỡng mộ Ural ở những mặt hấp dẫn, kỳ thú của hình tượng núi rừng hùng vĩ ngút ngàn, của những danh lam, thắng cảnh, những câu chuyện cổ tích đẹp như huyền thoại, những phong tục tập quán độc đáo và tiềm lực khổng lồ của những khu công nghiệp nơi đây…Có thể nói đấy là những nét khái quát của vẻ đẹp bên ngoài của Ural hiện rõ mồn một, ai cũng dễ nhận biết.

Song vẻ đẹp bên trong của tâm hồn người vùng Ural sẽ có điều gì độc đáo không? Vậy là tôi hăm hở vào mạng văn học Nga truy cập xem nền thơ Nga đã có những tác phẩm trứ danh nào viết về vùng Ural đúng như lòng mình ngưỡng mộ?

Thật là bất ngờ quá đỗi, tôi thấy ngay một tiêu đề rất thơ của một cuộc Hội thảo thơ ở vùng Ural “Đời con không thể thiếu Ural”. Có thể nói, trong nền thơ Nga từ trước tới nay, đã có hẳn một mảng thơ viết về vùng Ural rất độc đáo và đặc sắc. Riêng bản thân tôi lại càng cảm thấy mảng thơ Nga này tuyệt vời hơn, bởi nó mang đậm chất núi rừng Nga – Một điều mà tôi quan tâm từ lâu. Từ mảng thơ Nga viết về núi rừng, tôi có thể rút ra được những bài học bổ ích cho mình, để sáng tác những bài thơ mang đậm chất núi ngàn của Việt Nam ta.

Có nhiều bài thơ Nga rất hay nói về Ural. Song theo cá nhân tôi thấy hay nhất là bài “Đời con không thể thiếu Ural” của nữ thi sĩ Liutmila Tachianhisépva. Và bỗng nhiên tôi nghĩ: Nếu coi bài thơ này của bà như một ánh sao thi ca Nga, thì chùm thơ kia của Châu Hồng Thuỷ cũng là một ánh sao thi ca Việt Nam đó. Thế là hình thành ngay ý tưởng bài viết: MỖI ÁNH SAO THI CA SÁNG MỘT VẺ URAL…

Nguyên bản tiếng Nga bài thơ của L. Tachianhisépva như sau:

Людмила Татьяничева (1915 – 1980)

Я без Урала не могу.

Стоит перед глазами

Он то утесами в снегу,

То синими лесами,

То сталью,

Зреющей в печах,

Берущий жар у солнца.

То стройкой в просверках,

В лучах

Мгновенно обернется…

И память,

Вызвездив костры,

Положит светотени

На степь

и на Магнит-горы

Гигантские ступени.

Стою на тающем снегу,

Охмелена весною.

Я без урала не могу.

Урал всегда со мною.

Да, он со мной,

А не вдали,

За сизой кромкой леса.

Растворено в моей крови

Твое, Урал, железо.

Bản dịch thơ sang tiếng Việt của Triệu Lam Châu :

Liutmila Tachianhisépva (1915 – 1980)

ĐỜI CON KHÔNG THỂ THIẾU URAL

Đời con không thể thiếu Ural.

Người hiển hiện huy hoàng:

Những ngọn núi dầm chân trong tuyết trắng,

Những cánh rừng điệp trùng xanh thẳm,

Những thanh thép hồng trong mọi bếp lò

Đượm sức lửa mặt trời rừng rực.

Những công trường xây dựng

Lấp lánh ánh hồi quang…

Và ký ức

Trùm lên bao ngọn lửa,

Thả phép vẽ thần kỳ sáng – tối

Lên thảo nguyên mênh mông

Lên dãy núi nam châm

Những bậc thang hùng vĩ.

Con đứng trên tuyết tan

Say đắm mùa xuân mới.

Đời con không thể thiếu Ural.

Ural mãi bên con.

Vâng, Người với con

Không xa thẳm

Như phía cuối bìa rừng xám biếc.

Ural ơi, chất thép của Người

Đã hoá thành máu đỏ trong con…

Tôi thấy toàn bộ bài thơ toát lên một tình yêu quê hương đắm say ngây ngất, tràn đầy cảm hứng huy hoàng về một miền núi ngàn hùng vĩ hiếm có. Giọng thơ của bà đượm một vẻ tự hào, hoành tráng và lãng mạn biết chừng nào! Đúng là tiếng lòng hết sức máu thịt của những con tim chủ nhân của mảnh đất hùng vĩ này… Ural… Ural diệu huyền và kỳ vĩ. Nếu không có tâm thế tự hào, hoành tráng và tâm huyết ấy, làm sao có thể có được những vần thơ thật hào sảng và nồng thắm sau đây:

Đời con không thể thiếu Ural.

Người hiển hiện huy hoàng:

Những ngọn núi dầm chân trong tuyết trắng,

Những cánh rừng điệp trùng xanh thẳm,

Những thanh thép hồng trong mọi bếp lò

Đượm sức lửa mặt trời rừng rực.

Ta cảm ngay cái… sức lửa mặt trời rừng rực… của trái tim thi nhân L. Tachianhisépva và của bao người dân vùng Ural, như những thanh thép (Giăng ngang bếp lò để đặt dụng cụ nấu ăn lên nấu) hồng trong bếp lò –… sức lửa ấy như thể tràn ra, làm ấm áp và huy hoàng cả những ngọn núi cao vời và những cánh rừng xa thẳm…Chính sức lửa mặt trời của trái tim con người giàu sáng tạo, là một yếu tố quyết định làm rực rỡ huy hoàng thêm mảnh đất Ural trong lòng bạn bè quốc tế hôm qua, hôm nay và mai sau…

Chỉ một khổ thơ nhỏ mở đầu, mà đã gợi lên những liên tưởng độc đáo đầy ấn tượng. Điều này tác giả có được, là nhờ sự huyền diệu của cảm xúc thi ca đẫm chất Ural, chất núi rừng Nga. Chất núi ngàn thể hiện ở… Những ngọn núi dầm chân trong tuyết trắng – Những cánh rừng điệp trùng xanh thẳm.. Và chất Nga toát ra ngay từ… Những thanh thép hồng trong mọi bếp lò…

Đang nói về những ngọn núi và những cánh rừng, đột nhiên lại quay sang những thanh thép hồng trong bếp lò…như thể lạc đề và không ăn nhập gì với núi với rừng… Vậy mà… tất cả chúng đã tạo nên một vẻ huy hoàng của Ural trong lòng ta. Trong một bài thơ nhỏ, mà những sự vật được liệt kê lại khác nhau rất xa về đặc điểm – Song nó vẫn tạo nên sự thú vị trong lòng người đọc. Sở dĩ có được điều ấy, là nhờ tác giả tắm gội bài thơ trong một niềm cảm xúc thống nhất và nhất quán.

Rồi ánh hào quang ấy của vùng Ural như dẫn ta đi sâu vào tâm hồn giàu sức sáng tạo của những người lao động chân chính nơi đây. Phải nói rằng ngòi bút của nữ thi sĩ Nga L. Tachianhisépva đã làm phát quang những nỗi niềm cảm xúc nồng nàn về mảnh đất và con người vùng Ural yêu dấu của bà:

Những công trường xây dựng

Lấp lánh ánh hồi quang…

Và ký ức

Trùm lên bao ngọn lửa,

Thả phép vẽ thần kỳ sáng – tối

Lên thảo nguyên mênh mông

Lên bao dãy núi nam châm

Những bậc thang hùng vĩ.

Những vần thơ như thế, làm sao ta có thể đọc lướt qua cho được? Nó như một ma lực níu kéo ta và buộc neo ta vào những nốt sáng láng của từng dòng thơ độc đáo.

Nguồn sáng chính và chủ đạo, là Ngọn lửa của lòng người từ bao đời nay của vùng đất Ural trùng điệp non ngàn này đó. Nhờ ngọn lửa nồng ấy của lòng người và của lịch sử, mà nước Nga có cả một nguồn giá trị tinh thần và vật chất hết sức kỳ vĩ nơi Ural hôm nay.

Và một tư duy thơ, bút pháp thơ hết sức độc đáo của L. Tachianhisépva khi nói về sự trân trọng của người Ural hôm nay đối với những nguồn sáng của lịch sử:

Và ký ức

Trùm lên bao ngọn lửa…

Triệu Lam Châu tôi thật sự bất ngờ và ngưỡng mộ một tư duy thơ lạ lùng và giàu sức gợi cảm của bà…Tôi cứ tưởng tượng Ký ức như một Vầng chín rực rỡ. Và hạt nhân của Vầng chín ấy – là ngọn lửa nồng của lịch sử cha ông. Nghĩ như thế, ta thấy thơ của bà tuyệt vời hết mức.

Và tôi thầm cảm ơn Đất trời và tinh hoa văn hoá vùng núi Ural đã hun đúc nên hồn thơ L. Tachianhisépva, để chúng ta có được vần thơ tuyệt tác ấy.

Rồi khi nói về tâm hồn lãng mạn, giàu sức sáng tạo, chứa chan chất nghệ sĩ của người Ural – mà L. Tachianhisépva viết như thế này, thì thật là cảm xúc tiên đã nhập vào ngòi bút của bà:

Và ký ức

….,

Thả phép vẽ thần kỳ sáng – tối

Lên thảo nguyên mênh mông

Lên bao dãy núi nam châm

Những bậc thang hùng vĩ.

Tôi không phải là một hoạ sĩ, nhưng vẫn cảm nhận được nét thần diệu của ý thơ liên quan đến hội hoạ này. Diễn giải bằng văn xuôi ý thơ này như sau: Ký ức của chúng ta hôm nay, thả bút pháp vẽ thần kỳ, một quy tắc hay phép vẽ thần kỳ lên thảo nguyên mênh mông, lên những dãy núi nam châm như thể những bậc thang hùng vĩ bắc lên trời cao lồng lộng….

Tất cả đất trời, núi non, cây cỏ và lòng người nơi đây… như thể vươn tới tầm cao của sự sáng tạo giàu chất nghệ sĩ đầy lãng mạn…Và điều ấy đã trở thanh truyền thống xưa nay của mảnh đất Ural này….Phải có một tư duy sáng láng giàu suy ngẫm và một niềm tâm huyết máu thịt với quê hưong – mới có thể có những vần thơ đặc biệt ám ảnh giàu liên tưởng như thế.

Và ta có thể gọi đó là chất Ural, chất Nga trong thơ của L. Tachianhisépva.

Chúng ta hiểu Ural trong thơ của bà là Tất cả đất trời, núi non hùng vĩ nơi đây cùng những nguồn giá trị tinh thần và vật chất của của con người và lịch sử rực rỡ của vùng đất này…Và tất cả những giá trị vật thể và phi vật thể ấy – đã trở thành thiêng liêng, thành điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của bà và của biết bao người ở vùng đất ấy… Đời con không thể thiếu Ural….Một câu thơ lay động mọi tâm hồn yêu quê hương trên trái đất này!

Ural đã trở thành một Nguồn năng lượng sống của L. Tachianhisépva và của biết bao người!

Từ nền tảng hùng vĩ huy hoàng của thiên nhiên kỳ thú và những nguồn giá trị tinh thần thiêng liêng quý giá ấy của Ural – mà tác giả thấy mình cũng là một HỒNG CẦU đầy nội lực, đầy tự hào của một CƠ – THỂ – URAL hoành tráng hôm nay và mai sau:

Con đứng trên tuyết tan

Say đắm mùa xuân mới.

Đời con không thể thiếu Ural.

Ural mãi bên con.

Vâng, Người với con

Không xa thẳm

Như phía cuối bìa rừng xám biếc.

Ural ơi, chất thép của Người

Đã hoá thành máu đỏ trong con…

Vậy là quê hương Ural sẽ mãi mãi trường tồn một cách ngoạn mục và xứng đáng cùng với nước Nga yêu dấu, cùng với mọi miền đất của thế gian này. Bởi vì tất cả chất thép của Người đã hoá thành dòng máu đỏ trong trái tim con…

Những điều tâm huyết ấy của thi sĩ L. Tachianhisépva miền Ural của nước Nga xa xăm, cũng là tâm huyết của bao người đối với quê hương yêu dấu của mình.

Và đến đây, bạn đọc hẳn đã thấy Ánh sao thi ca L. Tachianhisépva của miền Ural toả lên một nét sáng độc đáo. Đó là tình yêu quê hương đắm say, nồng nàn trong một sự suy ngẫm sâu xa đầy tự hào và huy hoàng về mọi nguồn giá trị của miền quê Ural núi ngàn điệp trùng và hùng vĩ. Và tinh chất của cảnh sắc và lòng người Ural đã sáng lên một vẻ núi ngàn Nga riêng độc đáo.

Từ ánh thi ca L. Tachianhisépva đậm đà chất Nga soi sáng cả một dải trập trùng núi Ural ấy, chúng ta cùng quay về đọc, cảm nhận và suy ngẫm Ánh thi ca Việt Nam cũng lặng lẽ soi về miền đất kia, xem có gì đặc sắc nhé!

Thì đây, chúng ta cùng đọc bài thơ đầu tiên Bên cột mốc Á – Âu, trong chùm thơ hai bài viết về Ural của nhà thơ Việt Nam Châu Hồng Thuỷ đang sống tại Liên bang Nga.

BÊN CỘT MỐC Á – ÂU

Một bàn chân  tôi đứng  ở Châu Âu,
Còn chân kia lại đặt lên Châu Á,
Ở trước mặt: Thẳng một đường vạch kẻ,
Phía sau lưng: Cột đá dựng lưng trời.

Rừng Bạch Dương trắng xoá ở quanh tôi,
Nào đâu thấy có điều chi khác biệt,
Mây lơ lửng trên bầu trời  xanh biếc,
Nắng bên này bên ấy khác gì nhau?

Nghe thì thào ngọn gió  phía trời Âu,
Lay động lá – thổi về miền Châu Á,
Chợt dịu mát cả mùa Hè nắng lửa,
Làn da ta hiểu ranh giới  hai miền.

Phác thảo tại Thành phố Pervouralsk 26/6/2010

Lần đầu tiên đọc bài thơ này của Châu Hồng Thuỷ, trong tôi bỗng loé lên hai  ý nghĩ rực sáng như ánh chớp, vô cùng đột ngột, làm sửng sốt, bàng hoàng cả cõi lòng:

Một là: Cho đến thời điểm này (Năm 2014), trong nền thi ca Việt Nam   (Một đất nước đã có tới chín mươi triệu dân) – có thể nói đây là bài thơ đầu tiên, hiếm hoi, có lẽ là duy nhất, viết về Ranh giới hai châu lục Á – Âu chăng? Có thể có nhiều nhà thơ Việt Nam cũng có cảm xúc về Ranh giới Á – Âu kia (Triệu Lam Châu là một trong số ấy) – nhưng chưa có điều kiện sống và suy ngẫm ở đó dài ngày, cho đến chín mùi – thì làm sao có được những vần thơ nặng ký và ưng ý về nơi ấy! Với mạch nghĩ có căn cứ như vậy, ta có thể tự hào rằng: Chùm thơ giàu tâm trạng của Châu Hồng Thuỷ về Ranh giới Á – Âu kia, là sự góp mặt đầu tiên xứng đáng của thi ca Việt Nam với nền thơ nhân loại, phản ánh những vấn đề mang tầm vóc quốc tế.

Tôi đồ rằng: Với ý nghĩ không phải là hồ đồ này, nhiều bạn đọc Việt Nam sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc và nỗi tự ty xưa nay cũng sẽ giảm dần theo năm tháng…

Hai là: Cái thần của bài thơ này là Cảm giác hết sức tinh tế về Ranh giới, Biên giới – tôi xin mạo muội gọi đó là Cảm giác biên giới.

Nếu người đọc không có sẵn trong lòng mình một Cảm giác biên giới, thì sẽ  khó cảm được cái thần, cái độc đáo trong bài thơ sáng giá này của Châu Hồng Thuỷ. Nếu người đọc chưa từng sống lâu ở biên cương, hay chưa suy ngẫm sâu về biên cương, mà chỉ suốt đời sống trong nội địa – thì hẳn khó có thể có được một Cảm giác biên giới trong lòng mình…

Điều này cũng dễ hiểu thôi. Khi trong lòng ta chưa có những trải nghiệm và suy ngẫm sâu về một hiện thực nào đó, mà đọc những tác phẩm nói về hiện thực ấy – thì ta sẽ rất khó đồng cảm được với cái thần của tác phẩm, đặc biệt đấy là những tác phẩm thi ca.

Tôi xin tâm sự thêm về Cảm giác biên giới đã nảy mầm trong lòng tôi ra sao, để bạn đọc cùng suy ngẫm nhé.

Bây giờ ngẫm lại, tôi mới thấy, đúng là Triệu Lam Châu tôi may mắn được sinh ra và lớn lên ở Cao Bằng, miền biên cương xa vời của Tổ Quốc, nên từ nhỏ, với tâm hồn nhạy cảm bẩm sinh của mình,  tôi đã có Cảm giác biên giới trong lòng.

Tôi còn nhớ hồi tháng 10 năm 1965 Trường cấp 2 Đức Long tổ chức cho học trò đi tham quan di tích lịch sử Hang Pác Bó ở huyện Hà Quảng, Cao Bằng. Từ trường Đức Long đi lên Hang sát biên giới Việt – Trung chỉ vẻn vẹn ba chục cây số, mà trập trùng đèo dốc rất khó đi. Sau khi tham quan Hang Cốc Bó, nơi trú ngụ của chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ hoạt động cách mạng bí mật năm 1941, thầy trò chúng tôi cùng đi lên thăm cột mốc biên giới 108 cheo leo trên núi đá. Thầy giáo không cho chúng tôi đi qua cột mốc sang bên nước bạn, mà chỉ cho phép đứng ở phía bên này nước mình.

Học trò thì đông (Hơn ba chục đứa, hẳn thầy giáo không để ý được hết mọi đứa) – nên tôi tranh thủ cúi xuống với tay sang bên kia cột mốc thiêng liêng ấy, cầm vội lấy một hòn cuội nhỏ, mà tự nhiên thấy râm ran cả lòng tay. Tôi lặng lẽ đút hòn cuội nhỏ ấy vào túi quần, không ai để ý, rồi cùng bạn bè đi xuống núi. Cầm hòn cuội vô tri vô giác ấy, mà tôi cảm thấy như mình được chạm phải cả một đất nước Trung Hoa vĩ đại (Tôi xin lưu ý: Hồi ấy quan hệ Việt – Trung rất nồng ấm, không phải như thời gian sau này, đặc biệt là năm 2014 bây giờ).

Tôi cảm thấy một nét vô hình nào đó mang tên là Trung Quốc…như đã thầm chạm vào tay mình… mà lòng cứ râm ran một nỗi gì không rõ….(Hòn cuội ấy được bao trùm và tắm gội bởi tâm hồn người dân Trung Quốc bao đời nay). Còn ở bên này nước ta, thì tất cả núi non và ánh trời – đều được bao trùm và tắm gội bởi tâm hồn người Việt Nam…

Và bây giờ tôi tạm gọi đó là một dạng của Cảm giác biên giới vậy! Một cảm giác thiêng liêng, ẩn tàng và như thể đượm một chút kỳ thú nữa, vì nó lạ và chỉ xuất hiện ở Cột mốc biên cương mà thôi!

Bản Nà Pẳng của tôi nằm ở sườn đồi thoai thoải Khau Đốn, bên chân núi Khau Mi-à cao chất ngất. Ở phía dưới chân đồi ấy là một con suối nhỏ chảy từ Nà Ngùa, Nà Thin, Nà Lắc rồi đi xuống Khau Khang, hoà vào sông Nà  Đuốc – Nà Mò. Con suối Nà Lắc ấy là ranh giới tự nhiên phân chia giữa sườn bên này Khau Đốn là bản Nà Pẳng và sườn bên kia của đồi Khau Lỷ là bản Cốc Lùng, nơi có Trường cấp 1 – 2 Đức Long đóng ở đó.

Bắc ngang dòng suối Nà Lắc, là một chiếc cầu tre nhỏ tròng trành. Những hôm thuộc bài và làm bài tập tốt ở nhà, mỗi khi bước qua cầu sang phía bên kia bản Cốc Lùng đến trường học, tôi cảm thấy háo hức mong thầy giáo khi kiểm tra bài cũ, sẽ gọi đến tên mình. Rồi những lần được điểm giỏi ở trường, khi trở về nhà, bước qua cầu Nà Lắc sang phía này bản Nà Pẳng, lòng tôi tự nhiên lại vui sướng hẳn lên và tưởng tượng thấy nụ cười vui của mẹ khi nghe con thông báo kết quả học tập tốt.

Và đấy cũng là một dạng của Cảm giác biên giới chăng?

Tôi cứ tưởng tượng là có một Vầng Nà Pẳng bản tôi bao trùm ở phía bên này cầu Nà Lắc và một Vầng bản Cốc Lùng (Nơi có trường học) bao trùm ở phía bên kia.

Nét chủ đạo của Vầng Nà Pẳng là tổ ấm, là tình cảm ấm áp của mẹ cha, anh em, họ hàng và kỷ niệm tuổi thơ đầy ắp trong lòng.

Nét chủ đạo của Vầng Cốc Lùng là tình cảm thầy trò trong sáng và tình bạn bè cùng trang lứa trong suốt như pha lê…

Mỗi khi qua chiếc cầu tre Nà Lắc nhỏ nhoi mà thần diệu ấy, bước từ Vầng nọ sang Vầng kia và ngược lại – lòng tôi cứ trào dâng bao nỗi niềm khó nói, khó gọi thành tên…Một nỗi gì xôn xao, lâng lâng và háo hức… Phải rồi, đó cũng là một dạng của Cảm giác biên giới đấy thôi…

Từ cái nền cảm giác biên giới ấy của lòng mình, tôi lặng lẽ soi vào bài thơ Bên cột mốc Á – Âu của Châu Hồng Thuỷ. Ngay khổ thơ mở đầu đã thấy ngay nét hoanh tráng của nó:

Một bàn chân  tôi đứng  ở Châu Âu,
Còn chân kia lại đặt lên Châu Á,
Ở trước mặt: Thẳng một đường vạch kẻ,
Phía sau lưng: Cột đá dựng lưng trời.

Mới đọc thoáng qua lần đầu, ta thấy đây là một khổ thơ bình dị, như thể không có gì đặc biệt cả. Nếu trong lòng ta không có Cảm giác biên giới, thì khổ thơ trên sẽ bị oan uổng trôi đi như bao vần thơ bình thường khác trong thời buổi bùng nổ thông tin này. Đó là sự thật.

Theo ngôn ngữ tin học hiện đại, nếu trong lòng ta chưa được… Cài đặt chương trình Cảm giác biên giới, thì ta không thể đọc được hay không cảm được cái thần của khổ thơ bình dị ấy.

Triệu Lam Châu bỗng lại thấy hiện lên một Vầng Châu Á rực rỡ chói ngời ở phía này của cột mốc trên dãy núi Ural. Rồi phía bên kia cột mốc cũng lồng lộng một Vầng Châu Âu với nét đặc thù riêng của nó.

Mỗi Vầng châu lục ấy đều chứa đầy tất cả những giá trị tinh thần, vật chất và lòng người sâu nặng đặc thù.

Và nhân vật TÔI – chủ thể trong bài thơ Bên cột mốc Á – Âu đã… Một bàn chân  tôi đứng  ở Châu Âu,… Còn chân kia lại đặt lên Châu Á,…

Một cảnh tượng thật bình dị bên cột mốc. Nhưng chứa trong ấy là cả một niềm lồng lộng ngất trời hết sức kỳ vĩ.

Bàn chân bên này được choàng lên và được tắm gội bởi cả một Vầng giá trị rực rỡ Á Châu, nơi cư trú hàng mấy ngàn triệu tâm hồn con người lấp lánh như ánh sao long lanh, nơi chứa chan cả một bề dày huy hoàng của lịch sử về mọi phương diện…

Bàn chân bên ấy cũng vậy… Nó cũng được choàng lên và được tắm gội bởi cả một Vầng giá trị hùng vĩ Âu Châu, nơi cư trú của lớp lớp những thiên tài của nhân loại, và nhờ ánh tiên phát sáng từ những thiên tài ấy, mà lịch sử loài người đi được những bước khổng lồ ngoài sức tưởng tượng…

Mỗi bàn chân của chủ thể bài thơ ấy, được ấp ủ bởi hương vị (đậm đặc như ở trung tâm của thiên hà) của những Vầng khổng lồ châu lục như vậy…ở nơi ranh giới kia… Nơi giao hoà rực rỡ đến không cùng của những Vầng giá trị kỳ vĩ long lanh…

Trời ơi, cái cảm giác biên giới ở nơi này, sao mà thần diệu và lay động những tầng nấc lạ lùng chưa bao giờ có trên cõi đời này. Ta không biết gọi cảm giác ấy chính xác như thế nào. Ngôn từ đã bất lực trong trường hợp này rồi đó. Bởi vì hình như ta cảm thấy sức nổ bùng của một TRÁI – BOM – NGUYÊN – TỬ – CẢM – XÚC trong lòng mình.

Nếu có Phép biến hình của Tôn Ngộ Không (Tề Thiên Đại Thánh) – thì nhân vật Tôi ấy như thể bỗng vút cao lồng lộng như ngọn Chô Mô Lung Ma. Và Ngài như thể chính là Giá trị rực ngời của hai châu lục khổng lồ, đứng một bàn chân ở châu lục này và bàn chân kia đặt lên châu lục láng giềng…Lòng Ngài chan chứa tiếng gió ngàn Chô Mô Lung Ma và bao tiếng thầm thì của lòng người vọng lên từ Mátcxcơva – Pari – Berlin – Luân Đôn và bao miền quê xa xăm thanh bình như mộng ước…

Vâng, trong lòng thi sĩ lúc này đang phải trải nghiệm những bước ngoặt của cảm xúc đỉnh điểm, mà gấp khúc như một đồ thị toán học như vậy. Thế mà sao:

Rừng Bạch Dương trắng xoá ở quanh tôi,
Nào đâu thấy có điều chi khác biệt,
Mây lơ lửng trên bầu trời  xanh biếc,
Nắng bên này bên ấy khác gì nhau?

Cảnh sắc và thiên nhiên bên ngoài ở xung quanh ranh giới ấy, vẫn là một Vầng thống nhất như triệu năm xưa vậy thôi. Nào có gì khác đâu cơ chứ? Nhưng sao thiên nhiên lại lạnh lùng và dửng dưng đến vậy, hả trời?

Cái cảm giác biên giới hùng vĩ ấy trong lòng ta, cần được sẻ chia – mà thiên nhiên cứ dửng dưng. Điều ấy làm cho tâm hồn thi nhân và cả người đọc chúng ta nữa chạnh lòng và cảm thấy cô đơn…

Rồi cuối cùng chỉ có Vầng giá trị của lòng người thấu hiểu được nỗi niềm thi sĩ đang trầm tư ngây ngất say bên cột mốc bình dị mà thần kỳ ấy:

Nghe thì thào ngọn gió  phía trời Âu,
Lay động lá – thổi về miền Châu Á,
Chợt dịu mát cả mùa Hè nắng lửa,
Làn da ta hiểu ranh giới  hai miền.

Rõ ràng cảm xúc thi ca và Cảm giác biên giới đã đạt đến độ chín mùi, nên nhà thơ Châu Hồng Thuỷ đã cho chúng ta một câu thơ cực sáng… Làn da ta hiểu ranh giới  hai miền…. Một câu thơ rất thú vị và tuyệt vời.

Thông thường con người ta xem xét và nhận biết những sự vật cụ thể, như đường Ranh giới giữa hai châu lục Á – Âu trong trường hợp này, chủ yếu bằng thị giác…. Ở trước mặt: Thẳng một đường vạch kẻ…,
Phía sau lưng: Cột đá dựng lưng trời
… Như nhà thơ  đã nhìn thấy bằng mắt.

Song cái ranh giới vô hình ở nơi ấy, ranh giới của chất hè nắng lửa Á Châu với cái dịu mát của Âu Châu – chỉ có thể dùng xúc giác mới nhận ra nổi. Dùng làn da để hiểu ranh giới hai phương trời. Thật là tuyệt vời. Câu thơ đã cho ta một phát hiện mới đầy kỳ thú.

Tôi nghĩ bài thơ Bên cột mốc Á – Âu của Châu Hồng Thuỷ không chỉ nói tới ranh giới cụ thể về mặt địa lý giữa hai châu lục khổng lồ, mà còn nói tới vô vàn …n… ranh giới khác nữa…Ta hiểu ra ngay, nếu so sánh tất cả mọi nguồn giá trị tinh thần và vật chất của hai châu lục Á – Âu với nhau, thì sẽ hiện ra ngay cả một trời ranh giới đặc thù…

Bỗng nhiên tôi lại nhớ tới một câu của ai đó định nghĩa về thơ: Thơ là năng lượng được nén chặt…

Qua những điều cảm nhận và phân tích trên, ta có đủ căn cứ để nói rằng: Bài thơ Bên cột mốc Á – Âu đã đạt tới mức…Thơ là năng lượng được nén chặt… rồi đó…

Viết đến đây, tôi tự hỏi mình: Ánh sao thi ca Việt Nam Châu Hồng Thuỷ đã góp phần làm sáng lên nét riêng của Ural ở khía cạnh nào vậy?

Nét riêng của ánh sao này là đã công hiến cho bạn đọc yêu thơ một Cảm giác ranh giới lồng lộng hùng vĩ của những giá trị tinh thần và lòng người giữa hai châu lục Á – Âu. Cảm giác thần diệu này chỉ có ở Ural mà thôi. Đó là một đóng góp của nét sáng thi ca Việt Nam đượm chất Ural – vào bản đồ thơ quốc tế!

Tôi tin rằng: Nếu bài thơ Bên cột mốc Á – Âu của Châu Hồng Thuỷ được dịch thành công sang tiếng Nga và lời cảm nhận thật máu thịt này của Triệu Lam Châu tôi đến được với người Nga – Thì tác phẩm thơ ấy của một nhà thơ Việt Nam (Châu Hồng Thuỷ như thể đã hoá thân thành tâm hồn Nga) – thể nào cũng sẽ được trang trọng đưa vào chương trình Hội thảo “Đời con không thể thiếu Ural” như bấy nhiêu lần trong những năm qua trên dải núi hùng vĩ khổng lồ mà chan chứa tình người này…

T. L. C

 

 

 

 

 

 

 

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder