Mũi Tên Đen – Tiểu thuyết của Robert Louis Stevenson – Ngọc Châu dịch
Bỗng trong không khí một mũi tên xé gió như con ong bò vẽ bay tới. Nó cắm vào lưng lão già cung thủ vào khoảng giữa hai xương bả vai, xuyên ngập qua làm lão ngã sấp mặt vào luống cải bắp. Hatch kêu lên một tiếng và nhảy lùi, sau đó gập người chạy vào nhà tìm kẻ ẩn náu, còn Dick Shelton nấp vào bụi cây tử đinh hương, ép cây rìu cán dài vào vai, căng dây cung và ngắm về phía cửa rừng…Bỗng trong không khí một mũi tên xé gió như con ong bò vẽ bay tới. Nó cắm vào lưng lão già cung thủ vào khoảng giữa hai xương bả vai, xuyên ngập qua làm lão ngã sấp mặt vào luống cải bắp. Hatch kêu lên một tiếng và nhảy lùi, sau đó gập người chạy vào nhà tìm kẻ ẩn náu, còn Dick Shelton nấp vào bụi cây tử đinh hương, ép cây rìu cán dài vào vai, căng dây cung và ngắm về phía cửa rừng.
LỜI GIỚI THIỆU: Có một miền đất nhiều vách đá, khô cằn và khắc nghiệt ở bắc đảo Briland, đất nước Scotland. Nó không lớn và cũng ít người. Dân ở đấy nghèo nhưng can đảm và chuộng tự do.
Người Scotland thường thêu trên lá cờ của mình những bông hoa nhỏ màu tím hồng của bụi trường xuân và cúc gai. Trường xuân là vật trang sức khiêm tốn của các sườn núi và bãi trống ven biển Scotland, còn cúc gai là hiện thân của sức sống kiên cường và mãnh liệt. Cũng như những cây ngưu bàng đã gợi cho Lép Tônxtôi, nhà văn Nga, suy nghĩ về những con người ở miền núi Đaghextan, những bụi trường xuân và cúc gai chính là tượng trưng của sức sống dẻo dai của người Scotland. Người Anh đã chiếm Scotland, nhưng không chỉ ở những thế kỷ trước, ngày nay người Scotland vẫn đấu tranh đòi tách đất nuớc mình ra khỏi Vương quốc Anh.
Mặc dù giai cấp thống trị Scotland thoả hiệp và đầu hàng, có kẻ còn quên cả tiếng mẹ đẻ nhưng dân tộc Scotland vẫn không đầu hàng.
Trong cuốn “Những người con của thuyền trưởng Grant”, Giuyn Vécnơ, nhà văn Pháp đã ca ngợi những người Scotland thường luôn hướng về tổ quốc mình. Nghệ thuật Scotland không tàn lụi. Các bài ca của nó đã dược Beethoven, nhạc sĩ thiên tài người Đức nâng niu, được Oante Xcot, nhà văn Scotland đưa vào tiểu thuyết của mình.
R.L Stevenson đã thừa hưởng tất cả tính cách mạng của dân tộc mình. Ông chỉ thiếu sức chịu đựng dẻo dai như ở cơ thể của những người đồng hương. Sinh năm 1850, ông xuất thân từ gia đình kỹ sư xây dựng đèn biển. Chính ông đã dự định trở thành hoa tiêu, đã viết một tác phẩm về những người thắp đèn chỉ đường cho những con tàu lách qua sương mù và ghềnh đá. Nhưng bệnh tật đã buộc ông từ bỏ ý định của mình.
Ông tới miền nam nuớc Pháp, nương nhờ khí hậu ấm áp nơi đây để chữa bệnh. Sau khi sức khoẻ khá hơn, ông làm một cuộc hành trình theo sau một con lừa thồ hàng đi khắp nước Pháp, rồi cùng con thuyền bơi khắp các dòng sông và kênh đào ở Bỉ và Hà Lan. Những chuyến đi đó in dấu trong tác phẩm của Stevenson. Sau đó ông lại sang Bắc Mỹ, điều này giải thích vì sao Stevenson thường viết các tiểu thuyết phiêu lưu. Nhưng các tác phẩm xuất sắc của ông thường liên quan đến biển và gợi lại không gian Scotland.
Stevenson rất yêu mến trẻ em và say mê các trò chơi của các em nhỏ. Ông chơi trận giả với con trên tầng gác chật chội và tối tăm, say mê như tham gia những chiến dịch lớn. Sàn nhà đầy bản đồ với các nét vẽ núi non, sông ngòi, đầm lầy, biển cả. Một trong các bức bản đồ đó đã được phong phú lên thêm bằng câu chuyện tưởng tượng về bọn cướp biển, sau đó trở thành tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stevenson: “Đảo giấu vàng”.
Nghề cướp biển hồi đó rất thịnh hành. Bọn cướp biển người Anh đặc biệt đặc biệt hăng hái trong việc cướp bóc các thương thuyền của Ý chở vàng từ Mêhicô, Pêru và Ấn Độ. Các tàu cướp được hợp pháp hoá, được phép treo cờ Anh. Vua Anh sẵn sàng tiếp nhận của cải của bọn hải tặc dâng lên song cũng phẩy tay quay đi khi chúng rơi vào tai họa. “Đảo giấu vàng” phê phán nạn cướp biển, ca ngợi chiến thắng của cái thiện đối với cái ác.
“Mũi tên đen” được viết muộn hơn khi Stevenson đã trở nên nổi tiếng. Câu chuyện lùi lại những sự kiện xảy ra vào thế kỷ XV, thời kì đuợc gọi là cuộc chiến tranh Hoa Hồng Trắng và Hoa Hồng Đỏ của hai dòng họ lớn đều có tham vọng giành ngai vàng của nuớc Anh: York và Lancaster. Cuộc tranh giành kéo dài ba mươi năm này đã cuốn vào khói lửa không biết bao nhiêu con người và làm cho nứơc Anh kiệt quệ. Nhân dân không chờ mong điều gì tốt lành của những bên tham chiến, họ đã tự tổ chức phòng thủ hoặc trả thù các lãnh chúa phong kiến cưỡng bức mình. Họ trở thành các cung thủ tự do, thành “Jhon – trả – thù – cho – tất cả”. Họ lập đảng “Mũi Tên Đen”. Những người ban đầu bị cuốn hút vào chiến tranh như tiểu công tử Dick Shelton cũng mau chóng tỉnh ngộ và rời bỏ cái ác.
Stevenson phê phán các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông tạo dáng ghê sợ cho những kẻ làm điều ác. Tên Silver thọt chân trong “Đảo giấu vàng”, gã người gù khắc nghiệt và khát máu Richard York trong “Mũi Tên Đen”.
Cái ác bị vạch trần đến tận cùng trong tiểu thuyết chín muồi nhất của Stevenson: “Master of Ballantrae”. Vẻ ngoài của nó cũng là một tiểu thuyết phiêu lưu. Các cuộc mạo hiểm trên biển, chuyến du lịch tới Ấn Độ, Bắc Mỹ… làm hấp dãn người đọc. Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của nó là phô bày sự phân hoá của một gia đình Scotland.
Vinh quang đến với Stevenson nhưng bệnh tật ngày càng trầm trọng. Một lần nữa nhà văn lại tìm đến nơi khí hậu dễ chịu hơn, đó là Xamoa, một hòn đảo nằm giữa mênh mông trùng sóng Thái Bình Dương. Tại đây ông đứng về phía người bản xứ, bảo vệ họ và chống lại bọn thực dân xâm lược người Anh, Mỹ, Đức. Nhân dân Xamoa gọi ông bằngcái tên kính trọng: “Người viết ra lịch sử”.
Tác phẩm của Stevenson đầy lạc quan, sự sảng khoái, vui vẻ, đầy chiến thắng. Có độc giả nghĩ ông là một anh chàng phong lưu, lớn lên bằng bí-tết và dồi, lúc nào cũng khoác áo đuôi tôm màu đỏ rong ruổi trong rừng, đi săn không biết mệt. Sự thực, sức khoẻ của ông ông mỗi lúc một suy sụp. Chính ở Xamoa, Stevenson đã trút hơi thở cuối cùng, vào ngày 03 tháng 12 năm 1894 khi mới bốn mươi lăm tuổi.
Ngừơi ta mai táng ông trên một quả đồi nhỏ, trên mộ ghi những dòng kết của bài thơ “Khúc tưởng niệm” mà ông đã viết, trong đó có đoạn:
Xin viết những dòng để nhớ về tôi:
“Ông ta nằm đây, nơi ông ta muốn
Người thuỷ thủ trở về từ biển lớn
Người đi săn trở về từ giữa núi đồi”.
Stevenson hằng mơ ước những quyển sách của mình là bạn đường yêu quí của mỗi thuỷ thủ, mỗi người lính, mỗi nhà du lịch để họ thêm can đảm và có niềm vui, có chuyện kể cho nhau nghe trong những đêm dài trực canh, hay bên đống lửa xua tan gió rét. Mơ ước của nhà văn thật giản dị và ấm cúng. Trong các cuốn sách hay nhất của mình – trong đó có “Mũi Tên Đen” – Stevenson đã thực hiện được điều đó.
PHẦN MỞ ĐẦU
JHON, NGƯỜI – TRẢ – THÙ – CHO – TẤT CẢ
Vào sau buổi trưa của một ngày xuân muộn màng, quả chuông nhỏ trên tháp chuông của lâu đài Moat, thuộc địa phận Tunstall chợt vang lên không theo thường lệ. Từ khắp mọi nơi, cả khu rừng và các cánh đồng nằm dọc theo dòng sông, mọi người vội quăng bỏ công việc, hối hả chạy ngược lại phía tiếng chuông. Những người nông dân nghèo khổ của làng quê Tunstall nghèo nàn tụ tập cả lại, ngạc nhiên lắng nghe hồi chuông đang cất lên dồn dập.
Vào thời kì đó, trong vương quyền của ông vua già Henry VI (Hoàng đế nuớc Anh 1422-1461) – vào thời gian trị vì của nhà vua này bắt đầu cuộc chiến tranh Hoa Hồng giữa hai lực lượng đối địch Lancaster (Hoa Hồng Đỏ) và York (Hoa Hồng Trắng) – làng Tunstall bé nhỏ cũng đã có cái dạng hệt như bây giờ. Khoảng vài chục ngôi nhà làm bằng các thân gỗ sồi tròn trịa, nằm hỗn độn theo một thung lũng xanh chạy dài và tụt dần tới dòng sông. Con đường vắt qua sông bằng chiếc cầu rồi vươn cao lên ở phía bờ đối diện, nó mất dần giữa các bụi cây rừng cho tới tận lâu đài Moat và dần tiếp tới tu viện Holywood. Nhà thờ đứng phía trước làng trên sườn quả đồi nhỏ với hàng cây thuỷ tùng vây quanh. Còn xung quanh làng, nhìn phía nào cũng thấy mép rừng chìa ra với các tán lá nhô cao của những cây du xanh và màu xanh thẳm của rừng sồi.
Ngay cạnh cầu có một cây thập tự bằng đá trên chiếc gò nhỏ. Đám đông tụ tập ở đây, sáu bà vợ nông dân và một anh chàng cao gầy, có vẻ vụng về trong cái áo sơ mi dài màu đỏ, họ đang tranh cãi nhau về hồi chuông. Nửa giờ trước đây có một người truyền tin phóng qua làng, anh ta uống cạn một cốc vang tại quán rượu nhỏ, chẳng kịp tụt khỏi mình ngựa vì quá vội. Chính anh ta cũng chẳng rõ có chuyện gì, anh ta đang mang một lá thư dán kín của Daniel Brackley cho ông Olives Oates, tu sĩ đang quản lí lâu đài Moat trong khi ông chủ vắng nhà.
Có tiếng vó ngựa vang lên bất ngờ. Dick, cậu chủ Richard Shelton, con nuôi của Daniel đang phóng từ rừng ra và vượt qua chiếc cầu âm vang. Chắc là cậu ta phải biết rõ có chuyện gì xảy ra. Mọi người gọi giật cậu chàng lại và hỏi han rối rít.
Cậu chủ thoải mái dừng lại. Đó là một chàng thanh niên quãng mươì tám tuổi có đôi mắt xám rám nắng, mặc áo bu-dông bằng ha hươu cổ nhung đen và chiếc mũ trùm màu xanh, sau vai nhô lên chiếc nỏ thép.
Rõ ràng người chạy thư đã mang đến một tin tức quan trọng.
Trận chiến đấu sắp xảy ra. Daniel Brackley gửi lệnh về thu thập tất cả đàn ông có đủ sức kéo đuợc cây nỏ, hoặc mang nổi cây rìu chiến đấu và lùa họ thật nhanh tới Kettley. Với những ai dự định trái lời, Hiệp sĩ đe doạ sẽ cho nếm cơn lôi đình của ngài nhưng còn việc đánh nhau với ai và đánh ở đâu thì cậu Dick chẳng biết gì cả. Tí nữa chính ngài Olives Oates cũng sẽ xuất hiện ở đây, còn Bennet Hatch thì đang vũ trang vì ông ta được giao nhiệm vụ dẫn đội quân bổ sung này đi.
– Chiến tranh là sự tàn phá quê hương tốt lành của chúng ta – một người đàn bà nói – Khi các ông chủ đánh nhau, nông dân ăn cỏ và đào rễ cây mà sống.
– Không, bất kỳ ai đi đều được lĩnh sáu pence một ngày. Cung thủ thì đuợc lĩnh mười hai pence – Dick lên tiếng phản đối.
– Nếu họ sống – Ngưòi đàn bà nói – cái đó nghe cũng được nhưng nếu họ bị người ta giết thì sao?
– Chết vì ông chủ chính thống là cái chết đẹp nhất trên đời này – Dick nói.
– Ông ta chẳng phải là ông chủ của tôi – người nhỏ bé mặc áo sơ-mi đỏ lên tiếng- Tôi đứng về phía ngài Walshinghams. Tất cả chúng tôi ở đây, ở phía đường bên này đều là người của ngài Walshinghams trước khi có bước ngoặt vào năm kia. Còn bây giờ thì tôi lại cần phải ủng hộ ngài Daniel! Cũng là theo luật pháp! Chẳng lẽ điều ấy lại là đúng hay sao? Tôi cần gì ngài Daniel này? Tôi cần gì ngài Olives Oates, những quí ngài chỉ nghĩ đến luật này, luật nọ nhiều hơn là nghĩ đến lương tri và danh dự? Tôi chỉ có một ông chủ, theo luật pháp, đó là nhà vua Henry VI bất hạnh. Cầu Chúa phù hộ cho ngài, con người không biết phân biệt giữa tay phải và tay trái!
– Cái lưỡi của cậu thật là tồi tệ, anh bạn thân mến ạ – Dick đáp lời- Cậu đã dồng thời làm ô nhục cả ông chủ quang vinh của cậu và hàm ơn của nhà vua cho ông ta. Nhưng vua Harry – lạy Chúa sáng láng – rồi sẽ lại minh mẫn và sắp khôi phục đất nước. Cậu can đảm thật đấy khi mà ngài Daniel Brackley vắng mặt! Nhưng ta không phải là người cáo giác. Xin đủ những chuyện ấy!
– Tôi không muốn điều xấu xa cho cậu, cậu Richard ạ – anh nông dân giãi bày – Cậu hãy còn là một cậu bé. Nhưng cậu sẽ lớn lên và thấy rằng túi của cậu rỗng không. Tôi sẽ chả nói gì thêm nữa. Cầu các vị Thánh hãy mãi mãi độ trì cho các bạn láng giềng và các con đỡ đầu của ngài Daniel đáng kính.
– Clipsby! Danh dự của ta không cho phép ta nghe những lời như vậy. Ngài Daniel là cha nuôi và là ông chủ tốt lành của ta.
– Ờ, nếu thế tôi sẽ đưa cho cậu một câu đố nhá. Ngài Daniel Brackley ủng hộ nhà vua nào, cậu có biết không?
– Ta không biết – Dick nói và hơi đỏ mặt, vì cha nuôi của cậu trong cái thời gian mu mơ này không ngừng chạy từ phía này sang phía kia, và cứ mỗi lần thay đổi thì của cải của ông ta lại tăng lên.
– Chẳng ai biết được điều đó – Clipsby nói – ông ta đi nằm ngủ ở phía Lancaster, mà thức dậy đã thấy ở phe York.
Tiếng vó sắt vang lên trên cầu. Quay lại họ nhìn thấy Bennet Hatch đang trên lưng ngựa. Đó là một người đàn ông ngăm đen tóc điểm bạc. Đôi tay nặng nề và khuôn mặt nghiêm khắc, ông ta vũ trang bằng giáo và kiếm, mũ trụ sắt và áo bu-dông da. Ông ta đang là một nhân vật lớn của các miền ở đây, là cánh tay phải của Daniel trong cả thời bình lẫn thời chiến, và bây giờ đang là chỉ huy trưởng của hàng trăm chiến binh theo lệnh của ông chủ mình.
– Clipsby – ông ta kêu – đi ngay tới lâu đài Moat với tất cả bọn vô công rồi nghề! Người coi kho vũ khí sẽ phát cho mày mũ trùm và bao tên. Ta cần phải lên đường trước giờ chuông chiều. Mày hãy liệu đấy. Đứa nào đến nơi tập trung cuối cùng thì ngài Daniel sẽ trừng phạt. Nhỡ cho kỹ việc đó! Tao biết mày là thằng bịp bợm như thế nào rồi!… Này Nance – ông ta nói thêm khi quay sang một người phụ nữ – Lão Appleyard có trong làng không?
– Không có đâu. Ông ta đang ở ngoài đồng. – Chị phụ nữ trả lời.
Mọi người tản đi. Clipsby uể oải bước qua cầu, Bennet và tiểu chủ Shelton cùng đi ngựa theo con đường dốc qua làng, ngang qua nhà thờ.
– Bọn mình dòm lão già càu nhàu một tí – Bennet nói với Dick – Lão ta sẽ lại dài lời ca ngợi vua Harry (*cách gọi dân giã với Henry VI, vua Anh đã khôi phục lại cuộc chiến tranh trăm năm [1337-1453] với quân Pháp vào năm 1415 – ND) đến nỗi khi nghe chuyện khuyếch khoác của lão cậu sẽ kịp đóng lại toàn bộ móng sắt cho con ngựa. Mà tất cả chỉ là chuyện lão ta đã từng tác chiến với bọn Pháp.
Ngôi nhà mà họ đang hướng tới ở tận cuối làng, lẫn giữa bụi hoa tử đinh hương. Đồng cỏ bao quanh nhà theo cả ba phía kéo dài tới tận cửa rừng. Bennet nhảy khỏi lưng ngựa, quẳng dây cương vắt qua hàng rào rồi cùng Dick đi ra cánh đồng, nơi người lính già đang đứng ngập đầu gối trong đám bắp cải, xới đất và luôn mồm hát những đoạn mở đầu của đủ loại bài ca bằng một giọng run run, nứt nẻ.
Toàn bộ quần áo của lão đều bằng da, chỉ có mũ trùm và cổ áo đuợc làm bằng vải đen có quấn những dải ruy-băng đỏ. Cả màu sắc lẫn lớp da khuôn mặt lão khiến người ta nhớ tới quả bồ đào nhăn nheo, nhưng cặp mắt già màu xám của lão còn rất tinh nhanh và nhìn rất rõ. Chẳng ra là bị điếc, cũng chẳng ra lão coi mình là một cung thủ già đã từng tham gia trận Agincourt (*một làng ở bắc Pháp. Gần nơi này vua Anh Henry VI đã phá tan quân Pháp -ND) và cóp nhặt mọi thứ đồ vứt đi ở đó, nhưng mặc cho tiếng chuông ồn ào kêu gọi, mặc cho sự xuất hiện của Bennet và cậu thiếu niên, lão cứ cày cục đào đất và hát bằng một giọng nhỏ rin rít:
Hãy thương tôi, công nương
Tôi van nài công nương…
– Nich Appleyard – Bennet gọi – Ngài Olives gửi lão lời chào và yêu cầu lão lập tức nhận việc chỉ huy lâu đài Moat.
Lão già ngẩng đầu:
– Chúa phù hộ cho các ngài. Các ông chủ! – Lão ta bắt đầu diễu cợt – Thế ông chủ Bennet đi đâu cơ?
– Đi tới Kettley và đem theo mình tất cả những ai có thể cưỡi đuợc trên lưng ngựa – Bennet trả lời lão – Sắp có cuộc chiến và ông chủ yêu cầu tăng viện.
– Chà, ra thế đấy! – Appleyard nói – Thế cậu để lại cho tớ bao nhiêu người?
– Tôi để lại cho lão sáu chiến binh tinh nhuệ và ngài Olives làm nguồn dự trữ nữa.
– Đội quân ấy không thể giữ lâu đài. Để yêu cầu nó yêu cầu phải có bốn chục người.
– Đấy, chính vì thế mà chúng tôi phải đến nhờ lão, con quỷ càu nhàu ạ – Bennet Hatch trả lời. – Còn có ai ngoài lão ra, có thể bảo vệ được lâu đài với đội cảnh vệ như vậy?
– A ha! Phải qua đò mới dò nhà lái nhé. Chẳng có vị nào trong các ngài biết ngồi trên lưng ngựa, biết giữ chiếc rìu chiến đấu cho ra trò. Còn các ngài bắn cung thì sao? Lạy thánh Michael! Nếu mà nhà vua già Henry V sống lại ông ta sẽ cho phép các ngài bắn vào mình và trả cho mỗi phát tên một đồng mười xu đấy!
– Này, lão Nich ạ! Hãy còn có những người biết kéo dây cung một cách ra trò đấy – Bennet nói.
– Kéo dây cung ấy à? – Lão già thốt lên – Đúng rồi, bây giờ thì người ta cũng biết kéo dây cung, nhưng hãy chỉ cho lão xem một mũi tên đáng giá xem nào! Để có được một phát tên tuyệt vời cần phải có cặp mắt đáng tin, có cái đầu nghiêm chỉnh trên đôi vai. Cậu gọi phát tên vượt qua khoảng cách nào là tốt hở Bennet Hatch?
– Nếu như có phát tên của ai bay từ đây tới rừng thì hẳn đó là mũi tên quí giá vượt khoảng cách xa – Bennet vừa trả lời vừa nhìn quanh.
– Đúng, đó sẽ là một đuờng tên giỏi giang – lão già vừa nói vừa nhìn qua vai – Từ đây tới rừng xa đấy.
Bất ngờ lão đưa tay khum khum che mắt và nhìn ngắm gì đó ở phía xa.
– Lão nhìn thấy ai ở đó ? – Bennet vừa hỏi vừa cười diễu – Có phải là vua Henry V không đấy?
Người chiến binh già không trả lời mà tiếp tục nhìn về đằng xa. Mặt trời đang giãi nắng loá mắt trên thảm cỏ thoải dốc. Đàn cừu trắng đang gặm cỏ. Xung quanh yên tĩnh, chỉ có tiếng chuông từ đằng xa vọng tới.
– Đằng ấy có cái gì hả ông? – Dick hỏi
– Những con chim – Appleyard trả lời cậu.
Quả thực như vậy. Ở phía đó, nơi mà rừng liếm cái lưỡi dài vào thảm cỏ và kết thúc bằng hai cây du xanh, vừa một tầm tên từ cánh đồng của Appleyard tới. Có đàn chim đang hoảng hốt bay lên tứ tung.
– Mình có liên quan gì đến lũ chim ấy? – Bennet hỏi.
– Cậu thế đấy, Bennet ạ. Đi ra trận và coi mình là người khôn ngoan trong khi cậu không biết rằng lũ chim là những người gác tuyệt vời nhất. Chúng nó sẽ báo dấu hiệu đầu tiên về một cuộc chiến. Nếu bây giờ mà lão đang đóng quân trong trại thì lão đã nói rằng bọn cung thủ của địch đang theo dõi chúng ta. Thế mà cậu thì chẳng nhận thấy gì hết!
– Thôi vứt, lão già cằn nhằn ạ! Quanh đây chẳng có một cung thủ nào ngoài bọn mà ngài Daniel chỉ huy ở Kettley. Bọn ta với lão đang an toàn như ở trong tu viện London, thế mà lão lại dọa dẫm vì mấy con chim sẻ, chim sâu vớ vẩn.
– Hãy cứ nghe lão ta đi – Appleyard cười khẩy – Chẳng lẽ ở đây ít cái bọn khốn kiếp, cái bọn sẵn sàng chịu xẻo cả hai tai để mà được bắn vào cậu hoặc tớ à! Lạy thánh Michael! Bọn chúng thù ghét cánh ta như thù hai con chồn hôi ấy.
– Chúng căm thù không phải tôi với lão mà là ngài Daniel – Bennet Hatch bắt đầu hoang mang đáp lời.
– Chúng thù ngài Daniel và tất cả những ai phục vụ cho ông ta. Đặc biệt là chúng nó căm thù Bennet Hatch và lão Nich cung thủ. Cậu thử trả lời tớ xem nhé. Nếu ở đằng kia, chỗ cửa rừng có một thằng lỏi khéo chân khéo tay mà tớ với cậu đứng như thế này thì nó sẽ khoan khoai ngắm vào ai. Như cậu với tớ đang đứng bây giờ đây này. Lạy thánh George! Nó sẽ chọn ai nhỉ? Cậu hay là tớ?
– Tôi đánh cuộc là nó bắn vào lão – Hatch trả lời.
– Tôi cuộc cái áo bu-dông lấy cái thắt lưng da của cậu đấy. – lão cung thủ già kêu lên – Nó bắn vào cậu vì cậu đã đốt trại Grimstone, Bennet ạ. Không bao giờ chúng nó tha thứ cho cậu đâu! Còn lão thì nhờ ơn Chúa, lão sắp về đến nơi yên ổn, nơi mà chẳng có mũi tên hòn đạn nào bay tới được. Lão là người già và đang nhanh chóng đến gần nơi đó, nơi mà Chúa đã giành ghế cho lão. Còn cậu, Bennet ạ, cậu sẽ ở lại đây, trong cái thế giới này với cái chết đang chờ đón cậu, và nếu như bọn chúng không treo cậu lên trước khi cậu sống hết tuổi đời, thì có nghĩa là tinh thần thượng võ chân chính của dân Anh đã tắt rồi.
– Lão là tên ngu ngốc, ba hoa nhất trong rừng Tustall này. – Hatch nói, rõ ràng ông ta hoang mang vì câu sấm truyền của lão già – Cầm lấy khí giới đi, hãy làm công việc của mình trước khi đức Cha Olives Oates đến đây và hãy im cái mồm đi lấy một lúc. Lão mà nói bằng ấy lời với vua Henry V, thì chắc tai lão được kêu vang hơn nhiều, so với những đồng tiền xoẻng xoẻng trong túi lão đấy.
Bỗng trong không khí một mũi tên xé gió như con ong bò vẽ bay tới. Nó cắm vào lưng lão già cung thủ vào khoảng giữa hai xương bả vai, xuyên ngập qua làm lão ngã sấp mặt vào luống cải bắp. Hatch kêu lên một tiếng và nhảy lùi, sau đó gập người chạy vào nhà tìm kẻ ẩn náu, còn Dick Shelton nấp vào bụi cây tử đinh hương, ép cây rìu cán dài vào vai, căng dây cung và ngắm về phía cửa rừng.
Chẳng có chiếc lá nhỏ nào lay động. Các con cừu bình yên gặm cỏ, bày chim đã đậu trên các cành cây. Nhưng lão già thì đang nằm với mũi tên ló ra trên lưng. Hatch đứng nép vào cây cột ở bậc thang nhà, còn Dick ép người xuống đát, nép vào sau bụi cây hoa, đang sẵn sàng chiến đấu.
– Cậu có nhìn thấy tên nào không? – Hatch kêu lên.
– Không một cành cây nào lay động cả – Dick trả lời.
– Để lão ta nằm thế thì thật xấu hổ – Bennet nói và ngập ngừng tiến về phía trước, mặt ông ta trắng bệch – hãy nhìn kĩ khu rừng, cậu Shelton! Đừng có rời mắt khỏi đấy nhé. Cầu Chúa phù hộ cho chúng ta! Những mũi tên ghê thật.
Bennet nâng người cung thủ già lên tựa vào đầu gối mình. Lão còn chưa chết, khuôn mặt giật giật, cặp mắt đầy đau đớn giày vò, lúc mở, lúc nhắm.
– Lão có nghe thấy tôi nói không, Lão Nich? – Hatch hỏi – Lão có ý nguyện gì nhắn nhủ trước khi chết không, ông bạn già ơi?
– Hãy rút mũi tên ra và để cho tôi chết, hãy vì Đức Mẹ! – Appleyard hổn hển nói – Tôi sẽ chết cùng với nuớc Anh xưa cũ. Rút mũi tên ra đi!
– Cậu Dick- Bennet nói – Cậu hãy lại gần đây và rút khéo mũi tên ra. Lão ấy sẽ đi ngay. Lão già bất hạnh đầy tội lỗi…
Dick đặt cây rìu cán dài, lấy sức kéo mũi tên ra. Luồng máu phụt ra theo. Người cung thủ già nhỏm lên, gọi tên Đức Chúa rồi vật ra chết.
Bennet Hatch quì chân giữa đám cải bắp, sốt sắng cầu nguyện cho một linh hồn đang bay đi nhưng rõ ràng trong khi cầu nguyện, tư tưởng của ông ta đang lo lắng vào chuyện khác. Ông ta không rời mắt khỏi góc rừng mà từ đó mũi tên đã bay ra. Cầu nguyện xong, ông ta nhỏm dậy, tháo cái găng tay thép ra, chùi khuôn mặt nhợt nhạt và ướt đầm vì sợ hãi.
– Bây giờ đến lượt tôi. – Ông ta nói.
– Đứa nào đã giết ông ấy, Bennet? – Richard Shelton hỏi, tay vẫn giữ chặt cây cung.
– Chỉ có Chúa Trời mới biết được. Tôi cùng với lão ta, đã tống cổ ra khỏi nhà cửa vườn tược không ít hơn bốn chục người Thiên Chúa giáo. Lão ta đã trả công cho món nợ đời, lão càu nhàu bất hạnh… Rất có thể là tôi cũng sắp phải trả. Ngài Daniel cai trị hết sức khắc nghiệt.
– Mũi tên kỳ lạ – Cậu bé nói, xoay xoay mũi tên trong tay
– Ừ, quả lạ lùng – Bennet thốt lên – mũi tên đen với lông chim cũng màu đen. Một mũi tên độc ác! Người ta nói rằng màu đen là màu báo trước sự chôn cất. Có cái gì viết trên đó kìa… Lau máu đi, cậu đọc hết chưa?
– Của Jhon – trả – thù – cho – tất – cả. Gửi cho Appleyard – Shelton đọc – Thế nghĩa là thế nào?
– Tình hình tồi tệ. – Người tuỳ tùng của Daniel cúi đầu. – Jhon – trả – thù – cho – tất – cả! Cả cái danh hiệu của thằng khốn kiếp này nữa, Nhưng bọn mình đứng đây làm gì, làm bia cho bọn cung thủ hay sao? Hãy cầm lấy chân lão, cậu Shelton, còn tôi sẽ nâng vai để đưa lão về nhà. Cú đánh thật là khủng khiếp giành cho đức Cha Olives Oates đây! Đức cha sẽ bệch ra như tờ giấy và sẽ cầu nguyện, vung tay vẩy chân như cái cối xay gió cho mà xem.
Hai người nâng lão cung thủ già, đưa vào căn nhà mà lão vẫn sống một mình. Họ đặt lão trên sàn nhà để khỏi dây máu ra đệm rồi cố gắng kéo cho thẳng tay chân người chết.
Nhà của Appleyard sạch sẽ và trống trải. Một chiếc giường phủ khăn xanh, chiiếc tủ, một hòm lớn, hai chiếc ghế nhẵn, một cái bàn gấp đặt cạnh lò sưởi. Đấy là tất cả đồ đạc hiện có. Trên tường có treo cây cung và bao tên của người chiến binh già. Hatch liếc nhìn quanh với vẻ tò mò.
– Lão Nich có tiền – Bennet Hatch nói- Lão ta đã dành dụm được khoảng sáu chục pound. Giá mà tìm được chúng thì tốt quá! Khi cậu mất một người bạn cũ, cậu Shelton ạ, thì niềm an ủi hơn cả là trở thành người thừa kế của anh ta. Cậu hãy xem, cái hòm ghê không! Tớ đánh cuộc là trong ấy có hàng đống tiền vàng. Cái lão cung thủ này, lão ta lấy tiền rất nhẹ mà trao đi thì khó khăn lắm. Chúa ban phước cho linh hồn lão! Hầu như gần bảy chục năm lão đã quanh quẩn trên trái đất và đã kiếm được cho mình khá nhiều tiền của, mà bây giờ lão đang nằm ngửa kia. Lão cằn nhằn khốn khổ này. Bây giờ lão cần gì nữa đâu và nếu tài sản của lão rơi vào những người bạn tốt thì lão sẽ vui vẻ hơn trên Thiên đường.
– Dừng lại, Hatch! – Dick nói – Ngài hãy có lòng tôn kính đôi mắt dã không còn nhìn thấy nữa. Chẳng lẽ ngài lại định cướp bóc của người chết hay sao? Ngài hãy xem, lão sẽ tức giận và nhỏm dậy!
Hatch làm dấu thánh mấy lần. Tuy má đã bắt đầu đỏ nhưng ông ta không muốn từ bỏ ý nghĩ của mình. Cái hòm sẽ chẳng yên ổn, nhưng bất ngờ cánh cửa vào vuờn kêu lên ken két, cửa mở ra và một người mắt đen hồng hào cao lớn, khoảng năm chục tuổi bước vào nhà, mặc bộ áo dài và thắt dây lưng bằng dải đen.
– Appleyard – Người mới vào nhà bắt đầu nói nhưng bỗng nhiên im bặt. Ave Maria! – Ông ta thốt lên – Cầu các vị Thánh ban phúc cho chúng ta! Trò đùa gì thế này?
– Một trò đùa tồi tệ, ngài tu sĩ ạ! – Hatch trả lời, cố làm ra vui vẻ – Chúng đã bắn Appleyard ngay cạnh cửa nhà riêng của lão và bây giờ lão đang đi vào cổng luyện ngục. Ở đó, nếu người ta nói đúng, thì lão chẳng cần đến than, đến nến…
Olives khó khăn lắm mới lê được tới cái bàn gấp thô thiển và ngồi lên nó, nhợt nhạt và run rẩy.
– Đấy, toà án của Đức Chúa! Ôi, cú đòn đáng sợ làm sao – Ông ta thốt lên qua hàng nước mắt và vội vàng lẩm bẩm nguyện cầu. Hatch thành kính tháo mũ sắt đặt xuống gối.
– Vì sao bọn chúng giết lão, Bennet? – Sau khi định thần, vị tu sĩ hỏi – Ai là kẻ thù đã giết lão ta?
– Mũi tên đây, ngài Olives ạ. Ngài hãy xem nó viết những gì trên đó – Dick nói.
– Một cái tên như thế này phát âm ra càng thấy kinh tởm! – Vị linh mục thốt ra – Jhon – trả – thù – cho – tất – cả.! Hoàn toàn thích hợp với tên lóng của bọn tà đạo. Cả cái mũi tên đen độc ác… Tôi không ưa cái mũi tên này. Cần phải bàn bạc Bennet ạ Có thể là đứa nào được nhỉ? Cậu hãy nghĩ đi. Thằng nào trong vô số cái bọn thù hằn chúng ta có khả năng chống đối chúng ta can đảm như vậy? Thằng Simnel à? Tôi không tin lắm. Bọn Walsinghams ư? Không, bọn chúng không dám đi tới bước ấy. Chúng nó còn đang hy vọng chiến thắng chúng ta với sự giúp đỡ của pháp luật khi mà thời thế thay đổi. Có thể là bọn Simon Maisesbury chăng? Cậu nghĩ thế nào hở Bennet?
– Thế ngài không nghi ngờ rằng đó có thể là Ellis Duckworth hay sao, thưa ngài?
– Không đâu, Bennet. Không bao giờ thế cả – Vị linh mục lại thốt lên – Một cuộc nổi loạn, Bennet ạ, không bao giờ bắt đầu từ bên dưới, tất cả những người khôn ngoan và có lý trí đều nhất trí với nhau về quan điểm ấy. Khi mà các chàng Dick, chàng Tom, Harry – các loại bố cu mẹ đĩ – chộp lấy cây rìu thì cậu hãy chăm chú liếc nhìn và tìm xem vị công tuớc nào có lợi lộc trong chuyện ấy. Bây giờ ngài Daniel lại hùa với phe của nhà Vua, không có ân sủng gì với các cận thần của phe York. Chính là bọn này mang cú đòn đến cho chúng ta, Bennet ạ. Các chi tiết thì tớ còn chưa hiểu nhưng cái chính thì đã rõ ràng rồi.
– Xin ngài tha lỗi, ngài Olives! Nhưng ngài nói không đúng – Bennet cãi – Đám cháy đang bắt đầu trên đất nước và tôi từ lâu đã ngửi thấy mùi cháy khét. Lão già tội lỗi bất hạnh Appleyard cũng đã ngửi thấy mùi này. Dân chúng căm thù cánh ta đến nỗi nổi loạn chẳng cần gì đến các dòng họ vua Lancster hay York. Ngài là người phục vụ giáo đường và ngài Daniel luôn luôn quay theo chiều gió đã tước đọat, đánh đập, treo cổ quá nhiều. Họ đã thử kiện tụng các ngài về những việc đó, nhưng tôi không rõ ra sao mà pháp luật cứ luôn tỏ ra nằm về phía chúng ta. Ngài hãy nghĩ xem, công việc rồi sẽ kết thúc ở đâu? Không đâu, xin ngài thứ lỗi, ngài Olives ạ! Con người bị đánh đập và tước đoạt đã giấu kín lòng phẫn nộ và trong một ngày bất hạnh nào đó, khi một cơn gió xấu xa thổi vào họ, họ sẽ cầm lấy cây cung và đặt vào các ngài những mũi tên dài hàng mét .
– Cậu hoàn toàn nói láo, Bennet ạ! Và thật may cho cậu là tớ chẳng để ý gì đến những trò ba hoa của cậu – Olives nói – Cậu là cái thùng rỗng Bennet ạ, là thằng ba hoa, là cái mõ làng! Cậu có cái mồm rộng đến mang tai. Hãy nhớ lấy. Tôi hết sức khuyên cậu đừng quên điều đó.
– Tôi cóc thèm nói gì nữa. Cứ để mọi việc mặc các ngài.
Vị linh mục đứng dậy, rời khỏi bàn và rút từ trong chiếc túi đeo trước ngực ra một cục xi, một mẩu nến, đá lửa và bùi nhùi. Bennet nhìn một cách khó chịu khi ông ta đặt dấu niêm phong của Daniel lên tủ và cái rương. Khi các dấu niêm phong đã dán xong, cả ba người đàng hoàng ra khỏi nhà, đi tới chỗ buộc ngựa của mình.
– Đã đến lúc chúng ta cần lên đường, ngài Olives ạ – Bennet nói trong khi giúp vị linh mục đút chân vào bàn đạp.
– Thay đổi rất nhiều rồi, Bennet ạ. Tôi muốn để Appleyard coi lâu đài, nhưng lão ta đã bị giết. Chúa an ủi cho linh hồn lão! Tôi chỉ còn có cậu. Tôi muốn rằng trong những ngày mũi tên đen hoành hành này, quanh tôi có một người bạn trung thành. “Mũi tên bay dưới đáy…” Thánh kinh nói như vậy, tiếp theo là gì tôi quên mất rồi. Tôi là một thày tu chểnh mảng, bị chất quá nặng với mọi công việc thế gian. Nhanh lên, nhanh lên thôi Hatch. Các kỵ sĩ có lẽ đã ở nhà thờ cả rồi…
Cả ba phóng vùn vụt trên đường, gió thổi bay tung những chiếc áo choàng linh mục. Sau lưng họ từng đám mây đen chậm chạp kéo lên đã che phủ mặt trời. Họ thúc ngựa ngang qua ba ngôi nhà nhỏ của làng Tunstall, rẽ vào chỗ ngoặt và nhìn thấy nhà thờ. Gần nhà thờ quây tụm hơn chục nóc nhà, sau đó bắt đầu là đồng cỏ. Ở ngay cổng vào nghĩa địa đã có khoảng hai chục người tụ họp, một số đã ngồi trên yên ngựa, số khác đứng quanh các con ngựa của họ. Trang bị của đám này qua quít và chẳng ai giống ai, người thì giáo, kẻ vác rìu cán dài, người khác mang cung, trên mình ngựa bùn đất của buổi cày còn chưa khô. Đó là những “con nghẽo” gày còm nhất của cư dân bản hạt vì những người mạnh khoẻ và ngựa dùng được thì từ lâu đã đi cùng với Daniel rồi.
– Thề có cây thánh giá Hollywood, đội ngũ này không đến nỗi tồi, ngài Daniel sẽ hài lòng đây. – Vị thày tu vừa nói vừa đếm các chiến binh.
– Ai đi kia? Đứng lại nếu mi là người ngay thẳng! – Bennet bất ngờ kêu lên.
Một kẻ nào đó đang đến sân nhà thờ bằng lối đi giữa những cây du. Khi nghe tiếng gọi giật của Hatch, người lạ mặt thôi nép mình mà ba chân bốn cẳng chạy bổ vào rừng. Mọi người đứng ở cổng bây giờ mới nhìn thấy người lạ mặt này và xôn xao cả lên. Những người đứng dưới đất đâm nhào đến chỗ ngựa, số đã ngồi trên yên lập tức truy đuổi, nhưng họ phải chạy vòng quanh nhà thờ và nghĩa địa nên lập tức nhận thấy con mồi đã chuồn được khỏi đám người. Hatch chửi rầm lên, muốn phóng qua hàng rào nhưng con ngựa không chịu nhảy khựng lại, khiến kỵ sĩ bay vù ra khỏi yên. Mặc dù ông ta lập tức nhỏm dậy tóm lấy yên ngựa, nhưng thời gian đã bị bỏ qua và kẻ chạy trốn đã ở xa đến mức không còn hy vọng gì đuổi kịp.
Chỉ có Dick Shelton hành động thông minh hơn cả. Thay cho việc đuổi theo kẻ chạy trốn, cậu tháo chiếc nỏ sắt đeo ở lưng, căng dây và đặt mũi tên vào lẫy, sau đó quay sang phía Bennet hỏi xem có cần bắn không.
– Bắn đi! Bắn đi! – Vị tu sĩ kêu lên đầy vẻ giận dữ và khát máu – Xuyên vào nó đi, cậu Dick – Olives nói – hãy cho nó rơi bộp xuống như quả táo thối ấy.
Kẻ chạy trốn chỉ còn vài bước nhảy là thoát vào khu vực yên ổn, nhưng ở phía cuối đồng cỏ, sườn dốc ngược lên cao làm anh ta phải chạy chậm lại. Hoàng hôn đang xuống nên ngắm vào người đang chạy thật không dễ dàng. Khi ngắm bắn, Dick cảm thấy có cái gì đó như lòng thương hại và quả thực mà nói, cậu mong cho mũi tên không trúng đích. Mũi tên vù vù bay đi…
Người đang chạy vấp và ngã lăn ra. Hatch mừng rỡ kêu lên và xung quanh cũng bắt đầu kêu gào. Nhưng cơn mừng rỡ hơi sớm, người nọ đã nhỏm dậy lẹ làng, vẫy mũ nhạo báng chào tạm biệt và khuất kín vào mấy bụi cây rừng.
– Cầu cho dịch hạch làm khô xác nó đi! – Bennet kêu lên – Nó có đôi chân của kẻ trộm và nó chạy nhanh như thằng ăn cắp. Tuy nhiên cậu đã bắn nó bị thương, cậu Shelton ạ. Nó đã cắp mất của cậu mũi tên mà tôi chẳng thấy tiếc chút nào.
– Nó làm cái gì ở gần nhà thờ thế nhỉ? – Ngài Olives hỏi – Có lẽ nó đã làm cái gì đó rất đê tiện. Clipsby, anh bạn, hãy tụt khỏi ngựa và tìm cho kỹ một tí quanh đám cây du xem nào.
Clipsby nhanh chóng quay lại với tờ giấy gì đó trên tay.
– Tờ giấy này được ghim vào cửa nhà thờ -Anh ta nói trong khi đưa tờ giấy cho viên linh mục – Tôi không tìm thấy gì nữa cả, thưa ngài.
– Xin thề với sự linh thiêng của nhà thờ Đức Mẹ của chúng ta chứ – ngài Olives bật lên – Cái này là một tội phạm thánh! Chỉ nhà Vua và các Tể tướng mới đựoc quyền cho phép dân dán các thông báo vào cửa nhà thờ. Vậy mà bất kì một thằng lang thang khoác áo cộc xanh nào cũng dám ghim giấy vào cửa nhà thờ ư? Không, đó hoàn toàn là tội phạm thánh. Người ta đã thiêu trên giàn lửa khối thằng còn chưa mắc đến tội như vậy! Nhưng nó viết cái gì ở đây thế nhỉ? Trời tối nhanh quá. Richard! Cậu có đôi mắt trẻ trung, cậu hãy đọc cho tôi nghe mẩu giấy này với.
Dick Shelton cầm tờ giấy và đọc thành tiếng. Đó là một bài thơ thô kệch, ghép vần theo lối cổ, được một người vừa thoát nạn mù chữ viết bằng những chữ to như gà mái ghẹ.
“Ta buông bốn mũi tên
Để trả thù bốn kẻ
Quân độc ác chó đẻ!
Một mũi tên không còn
Nó đã xuyên vào tim
Lão già đê tiện.
Mũi thứ hai đang tìm
tới mày, Bennet ạ.
Đích mũi tên thứ ba:
Lão thày tu khốn kiếp
Vì tội đã giết
Harry Shelton.
Mũi thứ tư sẽ tìm
Thằng khơi nguồn tội ác
Daniel đê mạt.
Mũi tên đen xuyên ngập
Vào bốn quả tim đen
Không bao giờ nó trượt
Chẳng tha thằng nào hết”‘
Jhon – trả – thù – cho – tất – cả
từ rừng xanh và đồng đội
“Nhân tiện chỗ chúng tao còn ối tên dự trữ và đống dây thừng khá tốt để giành cho phe đảng của chúng mày.”
– Thời tốt lành đâu mất cả rồi? Lòng tốt bụng của đàn chiên Gia Tô giáo đâu cả rồi? – Olives đau khổ thốt lên – Các ngài ơi, chúng ta đang sống trong một thế giới tồi tệ, càng ngày nó càng trở nên xấu xa hơn. Tôi sẵn sàng thề trước cây thập tự Hollywood, rằng tôi không có tội lỗi gì trong việc giết hại nhà hiệp sĩ vinh quang, mà bọn chúng cáo buộc bằng những lời của trẻ con còn hôi sữa! Mà cũng không có ai giết ông ta cả, đó là điều nghĩ sai… Hãy còn có những nhân chứng đang sống cả mà.
– Ngài nói điều đó thật là uổng công – Bennet lên tiếng – một câu chuyện không cần thiết.
– Không! Bennet, cậu không đúng. Cậu hãy biết vị trí của cậu, Bennet tốt bụng ạ. Tôi sẽ chứng minh sự vô tội cho cậu thấy. Tôi hoàn toàn không muốn vì nhầm lẫn mà mang tiếng giết người. Tôi sẽ gọi tất cả những người làm chứng đến để thấy rằng tôi trong sạch trong chuyện này. Vào lúc đó tôi thậm chí không có mặt ở lâu đài Moat, Người ta đã cử tôi đi nơi khác vì công việc, khi chưa đến lúc mười giờ.
– Ngài Olives – Bennet ngắt lời – Vì ngài không thoải mái dừng cuộc thuyết giáo này, tôi sẽ áp dụng biện pháp của mình… Goffe, thổi tù và gọi tất cả ngồi lên yên ngựa. Trong khi tiếng tù và rền rĩ rúc lên, Bennet đi tới sát bên vị thày tu đang ngạc nhiên và hằm hằm nói thầm vào tai lão điều gì đó.
Người linh mục hoảng sợ liễc nhìn Dick Shelton và Dick cũng nhận thấy cái nhìn ấy. Cậu đang suy nghĩ về chuyện này vì Harry Shelton chính là bố của cậu nhưng cậu không nói một lời, thậm chí vẻ mặt không hề rung động.
Hatch và Olives bàn bạc về sự thay đổi của tình hình. Quyết định để lại lâu đài Moat mười người không chỉ để bảo vệ lâu đài mà chừng ấy còn để bảo vệ vị linh mục trên đường xuyên qua rừng về lâu đài.
Vì Bennet cần thiết phải ở lại, mọi người giao nhiệm vụ chỉ huy đội quân tăng viện cho Dick. Chẳng còn sự lựa chọn nào khác nữa.
Đội quân bao gồm những nông dân vô học, không thiện chiến và vụng về nhưng họ yêu mến Dick. Cậu vốn là người can đảm và sáng suốt sớm hơn lứa tuổi. Dầu rằng cả tuổi niên thiếu cậu sống ở nơi núi rừng hoang dã nhưng linh mục Olives đã dạy cậu học đọc, học viết. Còn Benet Hatch dậy cậu nắm vững nghệ thuật chỉ huy và sử dụng vũ khí.
Bennet luôn quan tâm tới Dick, ông ta ở trong số những người tàn nhẫn với kẻ thù nhưng trung thành một cách thô kệch với bạn bè. Và bây giờ, khi Olives đang khuất trong một căn nhà gần đó để viết các dòng chữ đẹp đẽ, rõ ràng của mình về các sự kiện sau cùng gửi cho Daniel, Bennet đi tới chỗ cậu học trò để chúc cậu đạt nhiều thành tích.
– Cậu hãy đi theo con đường dài để vòng tránh, cậu Shelton ạ. Hãy tránh xa cây cầu nếu như cậu quý cái mạng sống của mình. Hãy cứ để cho năm chục bước trước cậu luôn luôn có một người trung thành. Quan sát cho thận trọng khi còn chưa qua khỏi rừng và nếu bọn khốn kiếp tấn công vào các cậu thì hãy chuồn đi, tiếp nhận chiến đấu là khờ đấy vì các cậu quá ít người. Mà hãy chuồn về phía trước cậu Shelton ạ, chứ đừng lùi lại sau nếu như cậu muốn sống. Cậu hãy nhớ rằng ở đây, Tunstall này chẳng có ai giúp đỡ cậu đâu, Shelton ạ! Vì rằng cậu đang đi tới cuộc chiến đấu vĩ đại vì nhà vua, mà tớ thì ở lại đây nơi hiểm nguy cũng đang đe doạ tính mạng, tớ lưu ý cậu nên thận trọng với ngài Daniel! Tới đó cậu hãy cố tìm lấy tình bạn ở những người có thế lực và hãy nhớ cầu nguyện cho Bennet Hatch. Trên thế gian này không ít thằng đểu cáng và tồi tệ hơn tớ đâu. Chúc cậu thành đạt!
– Chúa phù hộ cho ngài! – Dick trả lời. Ngài luôn luôn quan tâm tới tôi theo tình bằng hữu và tôi không quên điều ấy đâu.
– Cậu hãy nghe nhé – Hatch bối rối nói thêm. – Nếu như cái thằng Jhon – trả – thù – cho – tất – cả nó xuyên mũi tên vào tớ thì cậu hãy quyên lấy mười xu vàng… Không, tốt hơn là lấy một đồng vàng… để cầu nguyện sự bình yên cho linh hồn tội lỗi của tớ, không thì tớ lo là sẽ chẳng hay ho gì ở nơi địa ngục.
– Ý nguyện của ngài sẽ được thực hiện – Dick trả lời – Nhưng ngài dã lo lắng uổng công đấy, bạn của tôi ạ. Ở nơi mà tôi với ngài sắp gặp lại thì rượu vang sẽ cần hơn lời cầu nguyện.
– Cầu Chúa cho được như thế. Cậu Dick! Nhưng Olives đang đi kia kìa. Nếu lão ta cũng khéo léo sử dụng cây cung như sử dụng cây bút lông chim, thì hẳn sẽ thêm được một chiến binh lừng lẫy.
Olives trao cho Dick tập thư đã niêm phong, bên ngoài có ghi: “Gửi ông chủ hết sức đáng kính của chúng tôi – Ngài hiệp sĩ Daniel Brackley. Chuyển gấp”.
Dick đút tập thư vào sau ngực áo, ra lệnh cho đội quân của mình, và hành quân từ làng sang hướng tây.
(Mời xem tiếp kì 2)