“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được biên tập trong sách giáo khoa môn văn 12 với ý tưởng giới thiệu về thể loại văn chính luận. Tác phẩm này đã nhiều lần được lựa chọn làm đề thi đại học khối C và D trong các kỳ tuyển sinh đại học. Vanhaiphong trân trọng giới thiệu bài viết dưới đây với hy vọng tăng cường thêm tư liệu giúp các em học sinh trong kỳ tuyển sinh 2014 đang gần kề.
“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được biên tập trong sách giáo khoa môn văn 12 với ý tưởng giới thiệu về thể loại văn chính luận. Tác phẩm này đã nhiều lần được lựa chọn làm đề thi đại học khối C và D trong các kỳ tuyển sinh đại học. Vanhaiphong trân trọng giới thiệu bài viết dưới đây với hy vọng tăng cường thêm tư liệu giúp các em học sinh trong kỳ tuyển sinh 2014 đang gần kề.
Trong lịch sử dân tộc ta, trước bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2.9.1945, đã có “Bài thơ thần” với bốn câu chữ Hán ra đời thời Lý Thường Kiệt năm 1077 và bản Bình Ngô Đại Cáo do Nguyễn Trãi soạn thảo năm 1428 cũng được cho là những bản Tuyên ngôn độc lập. “Bài thơ thần” được tạm dịch là:
– Sông núi nước Nam thì vua Nam ở
– Cương giới đã ghi rành rành trên sách trời
– Cớ sao lũ giặc bạo ngược kia dám tới xâm phạm
– Chúng bây hãy chờ xem, thế nào cũng chuốc lấy bại vong.
“Bài thơ thần” được phát ra giữa lúc đêm khuya, từ đền thờ hai vị thần là Trương Hống và Trương Hát (nguyên là tướng của Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục), lúc quân ta bị giặc Tống tấn công ở mặt trận sông Như Nguyệt (nay là sông Cầu) đang gặp rất nhiều khó khăn. Sau khi nghe bài thơ cho là từ “Thần” phát ra, với lòng tin vào chiến thắng, quân ta đã chuyển sang phản công, làm cho giặc Tống núng thế, phải chấp nhận đề nghị ngưng chiến của vua Lý Thánh Tông, rồi sau đó phải rút về nước. Bốn câu trong “Bài thơ thần” thể hiện ý niệm độc lập dân tộc thời sơ khai là nước phải do vua làm chủ và do sách trời đã định nên không ai có thể làm khác.
Bản Bình Ngô Đại Cáo là bản Tuyên cáo về việc đánh thắng giặc Minh. Do vị vua đầu tiên của nhà Minh đóng đô ở Kim Lăng thuộc nước Ngô cũ nên nhà Minh gọi là nhà Ngô. Sau 10 năm kháng chiến dưới cờ nghĩa của Lê Lợi, tướng giặc Minh là Vương Thông cùng 10 vạn quân đã xin đầu hàng và phải đến “Hội thề Đông quan” quỳ gối xin thề là không bao giờ dám xâm phạm nước ta nữa – ý tưởng về nước độc lập do vua làm chủ trong Bình Ngô Đại Cáo so với “Bài thơ thần” có bước phát triển mới. Nước độc lập không phải quyết định từ sách trời mà do sức đấu tranh của con người. Đó là do vua tập hợp được sức mạnh của toàn dân trong đó có các nhân tài hào kiệt của đất nước và có mưu lược khôn khéo. Bình Ngô Đại Cáo là Tuyên ngôn về nước Đại Việt ta có khả năng độc lập tự chủ và có quyền phải được độc lập tự chủ.
Liền sau ba ngày, khi cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước, ngày 2-9-1945 trước lúc quân Đồng Minh chưa kịp đổ bộ vào Việt Nam, tại vườn hoa Ba Đình, trong cuộc mít-tinh của mấy chục vạn dân Hà Nội, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Bản Tuyên ngôn độc lập này có những nét độc đáo, với nhiều ý nghĩa.
– Nếu bốn câu thơ Thần và bản Bình Ngô Đại Cáo được suy ra để cho rằng nó có ý nghĩa là những bản Tuyên ngôn độc lập, thì bản Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 thật sự là một bản Tuyên ngôn độc lập do Bác Hồ soạn thảo.
Đây là bản Tuyên ngôn độc lập có nội dung, bản chất rất mới. Nó đánh dấu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi mang tính nhân dân rất sâu sắc, thực sự là “đem sức ta tự giải phóng cho ta”. Giành độc lập là để dân làm chủ. Việc Chính phủ lâm thời ra đời với bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, làm cho các lực lượng quân Đồng Minh đổ bộ vào Việt Nam sau đó phải tiếp xúc với chính quyền cách mạng, không còn cách nào khác.
Đáng lưu ý là mở đầu, từ bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, bản Tuyên ngôn 2-9 đã nêu ra một chân lý lịch sử: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, “đó là lẽ phải không ai chối cãi được”. Nêu ra như vậy là từ dự báo về thực dân Pháp, đế quốc Mỹ còn đến xâm lược Việt Nam, khi đó sẽ lộ bộ mặt phi nghĩa, trái với đạo lý từ chính các Tuyên ngôn năm 1776 và năm 1791 đã đề ra.
Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 đã tập trung vạch trần tội ác của thực dân Pháp trong hơn 80 năm cai trị nước ta. Kể riêng trong năm năm, Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật. Khi Việt minh kêu gọi Pháp cùng liên minh chống Nhật, thực dân Pháp không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt minh. Khi thua chạy còn giết số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng… Trong lúc đó, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau những lời lên án mạnh mẽ đó, đã tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam, kêu gọi toàn dân đoàn kết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Tuyên ngôn đã khẳng định; sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, không phải từ tay Pháp như vậy là Việt Nam không còn là của Pháp nên Pháp không thể nói là đã mất Việt Nam. Không mất Việt Nam thì đặt vấn đề giành lại Việt Nam là vô lý.
Trong Tuyên ngôn có một nhận xét khái quát: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, khẳng định thực tế đó cho thấy dân ta lập nên chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là việc đương nhiên, không thể để một xã hội bị hỗn loạn nếu không có chính quyền nào quản lý.
Tuyên ngôn nêu các nước Đồng Minh đã công nhận nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam. Trong năm nước Đồng Minh, trừ Liên Xô còn lại là Mỹ – Anh – Pháp và Trung Hoa dân quốc (của quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch) đều có mưu đồ thâm độc đối với cách mạng Việt Nam. Nêu như thế này là để làm rõ cơ sở pháp lý quốc tế trong cuộc đấu tranh chống lại mưu đồ xâm lược Việt Nam về sau này.
Tuyên ngôn Độc lập đã kết thúc với một quyết tâm sắt đá:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.
Bản Tuyên ngôn độc lập do Bác Hồ soạn thảo có nội dung rất phong phú, thể hiện sự hiểu biết ở trình độ cao, với tầm nhìn bao quát về thời đại cùng những dự báo đúng đắn sâu sắc. Tuyên ngôn cũng thể hiện một lập trường kiên định về độc lập tự do của dân tộc, vừa có tính chiến đấu cách mạng rất mạnh mẽ với lập luận khôn khéo, vững chắc, bằng lời văn súc tích rõ ràng.
Tuyên ngôn độc lập là tuyên ngôn về thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8-1945, một sự kiện nổi bật có vị trí trung tâm trong các sự kiện lịch sử của Việt Nam trong thế kỷ 20.
Nó bắt nguồn từ thảm họa của một dân tộc bị mất nước. Nó chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật trong 87 năm. Nó đánh đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm. Nó mở ra thời đại mới, nước độc lập dân làm chủ.
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám với việc ra đời bản Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 đã tạo ra thế và lực mới để đánh thắng giặc Pháp, giặc Mỹ trong 30 năm. Từ đó, thế đứng của nước Việt Nam ta trên thế giới ngày càng được nâng cao, rất có lợi cho công cuộc xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế.
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám với bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 đã chứng minh tính đúng đắn về con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam là giành độc lập cho dân tộc để mưu cầu tự do hạnh phúc cho dân.
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám kết thúc với bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 cùng những thắng lợi tiếp theo còn có ý nghĩa quốc tế to lớn. Nó trực tiếp tạo ra chỗ dựa đáng tin cậy cho cuộc cách mạng của nhân dân Lào và Campuchia anh em và góp phần làm thay đổi cục diện chính trị ở Đông Nam Á. Nó cổ vũ và cung cấp kinh nghiệm thành công cho nhân dân các nước thuộc địa đấu tranh giành độc lập. Nó cắt đứt một vòi hút máu của con bạch tuộc đế quốc làm cho thế lực đế quốc phải điều chỉnh chính sách thực dân.
Nó làm cho Việt Nam trở thành một trong những dân tộc tiên phong cách mạng trong phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Theo CAO