Sơn Nam – tranh của Phạm Văn Châu
Có những người chưa nằm xuống đã rơi vào quên lãng. Có những người đã ra đi nhưng cứ mãi ám ảnh lòng ta…
Có những người chưa nằm xuống đã rơi vào quên lãng. Có những người đã ra đi nhưng cứ mãi ám ảnh lòng ta…
Sơn Nam – tranh của Phạm Văn Châu
Sau hơn một năm tốt nghiệp đại học và đi làm báo, bằng số tiền dành dụm được cùng sự hỗ trợ của gia đình, cơ quan và bạn bè, tôi mua được một căn nhà cấp bốn gần năm mươi mét vuông trong một con hẻm đường Vườn Lài, quận Tân Bình, nay thuộc quận Tân Phú của TP.HCM. Thời điểm ấy là cuối năm 1993, giá nhà đất còn rẻ, nơi tôi mua lại cách xa trung tâm thành phố hơn mười cây số, thuộc vùng ngoại ô, đất đai còn mênh mông, dân cư thưa thớt, nên giá càng rẻ hơn.
Nhiều người mừng cho tôi mới ra trường chỉ sống nhờ lương và nhuận bút làm báo làm thơ mà mua được xe được nhà ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có người cứ hỏi tôi tại sao mua nhà xa như vậy, không cố gắng chút nữa để được ở gần trung tâm thành phố. Biết làm sao được khi khả năng mình chỉ tới đó, với lại về đây có một số bạn bè văn nghệ kẻ trước người sau tụ hội cũng vui, như các nhà thơ Đoàn Vị Thượng, Nguyễn Vân Thiên và nhạc sĩ Trần Quang Minh. Bốn người chúng tôi sáng sáng hay gặp nhau uống cà phê trên đường Địa Đạo (nay đổi thành Phú Thọ Hoà) mà mọi người gọi vui là nhóm “Minh Thượng Thiên Hoàng”!
Tuy ở xa trung tâm nhưng giới văn nghệ Sài Gòn và các tỉnh thành cũng thường lên chơi với chúng tôi. Một lần nhân dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn – TP.HCM, nhà văn Sơn Nam, người mà tôi hay gọi bằng “bố” hoặc “bố già” nửa vui nửa tôn kính, muốn tôi chở ông lên thăm vùng địa đạo Phú Thọ Hoà gần nhà tôi.
Nhà văn suốt đời chỉ biết đi bộ này khi ngồi sau xe thì không bao giờ ngớt chuyện. Chở ông đi, đường dù xa mấy cũng ngắn lại. Ông nói chậm rãi mà có duyên và sâu sắc, thỉnh thoảng còn pha trò. Mặc dù tôi là người rất mê lịch sử nhưng khi nghe những gì ông kể về vùng đất tôi đang ở thì tôi mù tịt và giật mình về sự thiếu hiểu biết của mình, lại càng khâm phục cái trí nhớ hiếm có của bậc trưởng lão làng văn Sài Gòn và Nam Bộ.
Đến địa đạo Phú Thọ Hoà, nhà văn Sơn Nam săm soi rất kỹ. Đây là địa đạo đầu tiên của Sài Gòn và Nam Bộ, được đào từ năm 1947 thời chống Pháp, xung quanh là một vùng cây cối rậm rạp có địa thế hiểm yếu về quân sự. Ông hỏi tôi biết ai là những người đầu tiên có sáng kiến đào địa đạo dài 700 mét này không? Chuyện này thì tôi biết.
Đó là Trung tướng Lê Thanh, Đại tá Lâm Quốc Đăng và ông Nguyễn Văn Tiểng lúc ấy giữ chức Bí thư Chi bộ xã Phú Thọ Hoà. Nhưng người đầu tiên và trực tiếp chỉ huy đào địa đạo này là Chi đội trưởng 12 Nguyễn Thượt, tức là Lâm Quốc Đăng, cái tên xuất phát từ biệt danh “Thần đèn rừng” nổi tiếng thời đánh Mỹ. Nhà văn Sơn Nam lại hỏi có biết ai là người quan tâm, đề nghị phục hồi địa đạo để được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia. Chuyện này thì tôi chịu. Bậc tiền bối giương mắt kính cười bảo: “Ông Nguyễn Văn Linh đó!”.
Từ địa đạo Phú Thọ Hoà, nhà văn Sơn Nam bảo tôi cùng ông sang viếng mộ cổ của người giàu hàng đầu Sài Gòn là bá hộ Xường nằm đối diện phía bên kia đường. Dân gian đất phương Nam đầu thế kỷ XX có câu “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hoả”. Sỹ tức Huyện Sỹ, tên thật Lê Phát Đạt, ông ngoại hoàng hậu Nam Phương. Phương là Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, một tay sai khét tiếng của thực dân Pháp.
Hoả là chú Hoả, tên thật Hứa Bổn Hoà, đại gia bất động sản số 1 Sài Gòn gắn liền giai thoại “Con ma nhà họ Hứa”. Còn Xường chính là bá hộ Xường, tên thật Lý Tường Quán, đại điền chủ và thương gia gốc Hoa, giàu lên nhờ kinh doanh thịt cá xuất khẩu và xây nhà cho thuê ở Chợ Lớn, nhưng sau khi ông qua đời thì tài sản kếch xù đã bị con cháu tiêu pha hết sạch. Nhà văn Sơn Nam bảo với tôi rằng, sống ở đời đừng nghĩ làm giàu để gia sản lại cho con cháu, bài học của bá hộ Xường đáng để cho ta soi vào. May mà còn khu mộ cổ được xây cất chắc chắn này nên người ta mới nhớ đến bá hộ Xường. Dù không hoành tráng nhưng đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ thuộc loại quý hiếm còn sót lại của Sài Gòn.
Giống như khi tôi “tháp tùng” ông lần đầu ra Hà Nội và lên Đền Hùng đất Tổ, đến đâu nhà văn Sơn Nam cũng săm soi rất kỹ từng hòn đá, cục gạch, cái cây, hoa văn. Nhìn gương mặt ông tươi tỉnh, thỉnh thoảng giương giương mục kỉnh nhìn cái gì đó, tôi biết ông mãn nguyện. Tôi tiếp tục chở “bố già” ra cái quán quen thuộc trên đường Địa Đạo mà nhóm “Minh Thượng Thiên Hoàng” chúng tôi hay ngồi.
Ông nói vùng này vẫn còn vẻ đẹp tương đối hoang sơ, nhưng với tốc độ đô thị hoá nhanh chóng thì chừng hơn mười năm nữa sợ nhiều thứ sẽ mất đi. Mới uống vài miếng nước chanh, bố Sơn Nam chợt đứng phắc dậy đi đi lại lại, ngắm ngắm nghía nghía con đường Địa Đạo phủ xanh bóng mát cây bàng hai bên. Cuối đông đầu xuân, bàng lưa thưa lá đỏ. Dù bề ngang chỉ 12m và chiều dài chưa tới 2km nhưng bấy giờ Địa Đạo là con đường huyết mạch và được rải nhựa hiếm hoi của vùng này.
Ngắm nghía thoả thích, trở vào quán bố Sơn Nam hỏi tôi rằng có biết đường Địa Đạo ngày xưa là cái gì không. Tôi cười nhìn ông với vẻ cam chịu. Ông ngồi xuống với dáng vẻ quan trọng: “Hoa Phong cổ luỹ thời nhà Nguyễn đấy”. Rồi ông rút từ trong giỏ ra cuốn sách “Ấn tượng 300 năm” do Nhà xuất bản Trẻ vừa ấn hành, lấy bút hí hoáy ghi: “Cháu Phan Hoàng nên đọc quyển sách này vì đây là tâm huyết của người hơn 70 tuổi”. Tác phẩm ông viết được xuất bản nhân dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn – TP.HCM (1698-1998).
Nhận món quà bất ngờ và dòng chữ chân tình của bố già, tôi hết sức xúc động, ngay đêm đó về nhà tôi đọc một mạch hết cuốn sách. Dù chỉ hơn một trăm trang nhưng “Ấn tượng 300 năm” của nhà văn hoá Sơn Nam cung cấp một lượng kiến thức cô đọng và sâu rộng về quá trình hình thành Sài Gòn và Nam Bộ, đặc biệt trong đó có những bí ẩn về Hoa Phong cổ luỹ hiếm người biết.
Theo khảo cứu của ông, trước khi danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh mở cuộc hành quân bình định vùng biên giới Tây Nam năm 1700, đã cho thuộc tướng là lão Cầm đốc suất quân lính xây luỹ Hoa Phong ở Sài Gòn. Trong sách Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức ca ngợi luỹ Hoa Phong là một trong 20 thắng cảnh của đất Gia Định:
“Lâm ngoại Hoa Phong thuỷ ngoại thôn,Tướng quân tiền khứ, thuỷ do tồn…”Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan đã dịch thoát thành 4 câu lục bát:“Ngoài rừng có luỹ Hoa PhongCó dòng nước nhỏ lượn quanh xóm làngTướng quân xưa đã không cònMà nền đất cũ chưa mòn chiến công”
Tướng quân xưa chính là Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, bậc tiền hiền có công lớn trong việc tạo lập vùng đất Sài Gòn – Nam Bộ.
Trong sách “Ấn tượng 300 năm”, nhà văn Sơn Nam còn cho biết thêm: “Đại Nam nhất thống chí ghi luỹ Hoa Phong dài phỏng định 6 ki-lô-mét (1.187 trượng). Sau này, luỹ được nối thêm với luỹ Tây Hoa. Năm 1731, người Lào là Sa Tốt cầm đầu một nhóm người Chân Lạp khá đông tràn đến Bến Lức (Long An), kéo qua Vườn Trầu (Hóc Môn), may nhờ Trần Đại Định (con của Trần Thắng Tài, Biên Hoà) chận được, đắp thêm luỹ (luỹ Tây Hoa). Lực lượng của chúa Nguyễn kéo đến, phá tan giặc. Lão Cầm là thuộc tướng của Nguyễn Hữu Cảnh chăm sóc việc đắp luỹ Hoa Phong, có lẽ là viên chức cỡ nhỏ. Lúc đi tham quan di tích chống Pháp chống Mỹ do quận Tân Bình tổ chức, nhìn vào vách văn phòng phường 19 (vào năm 1984) tình cờ thấy trên bản đồ ghi “luỹ ông Dầm”. Tôi suy luận, ông Dầm là lão Cầm nói trại ra, vì huý kỵ”.
Quan sát tinh tế, tỉ mỉ và suy luận có cơ sở khoa học, đó là phong cách của nhà văn hoá Sơn Nam, không chỉ riêng di tích Hoa Phong cổ luỹ mà toàn bộ những khảo cứu về lịch sử, văn hoá của ông về Sài Gòn và Nam Bộ. Phong cách ấy của bậc tiền bối cũng để lại trong tôi bài học quý giá trên bước đường chữ nghĩa. Và không chỉ trong công việc mà đối với những người ông yêu mến cũng vậy.
Trong đời mình, Sơn Nam có nhiều mối tình, có nhiều vợ, nhưng tôi chỉ được biết đến mối tình cuối của ông, đó là một phụ nữ nghèo bán bia, nhỏ hơn ông khoảng 30 tuổi. Hai người tình cờ gặp nhau, yêu nhau và thuê nhà chung sống với nhau ở gần chợ Gò Vấp. Tình muộn nhưng thật đẹp, dù cuộc sống rất khó khăn, chủ yếu nhờ nhuận bút của ông. Ông yêu quý bà, bà cũng hết mực thương yêu, chăm sóc ông những năm tháng cuối đời, cho tới khi ông vĩnh biệt cõi trần thì người phụ nữ này cũng âm thầm biến mất. Chẳng biết bây giờ bà sống như thế nào, nhưng tôi tin từ nơi yên nghỉ vĩnh hằng ở Bình Dương ông vẫn nhớ bà khôn nguôi.
Một người nghĩa tình như Sơn Nam thì không quên bất cứ ai và bất cứ mảnh đất nào mà ông từng gắn bó, cũng như Sài Gòn – Nam Bộ mãi mãi sẽ lưu dấu về ông.Với tốc độ đô thị hoá nhanh chóng, ngày nay Sài Gòn khác nhiều so với lúc kỷ niệm 300 năm mà tôi chở nhà văn Sơn Nam lên thăm vùng Phú Thọ Hoà, tất nhiên càng khác rất xa thời Nguyễn Hữu Cảnh ra lệnh cho lão Cầm xây đắp Hoa Phong cổ luỹ. Phong cảnh đổi khác nhưng hồn cốt Sài Gòn không khác. Hồn cốt tạo nên nền tảng và giá trị khác biệt của Sài Gòn – TP.HCM vẫn nằm trong tâm thức, tính cách con người và từng di tích, kỷ vật, trang sách mà thế hệ sau phải có trách nhiệm bảo tồn, phát huy. Để lưu giữ được hồn cốt tinh hoa ấy, tôi nghĩ mỗi người Sài Gòn cần có trong mình một ý thức Sơn Nam, một tình yêu Sơn Nam, một trách nhiệm Sơn Nam và trên hết là một tinh thần văn hoá Sơn Nam.
Không hiểu sao mỗi khi nghĩ về Sơn Nam, tôi hay liên tưởng đến hình ảnh con người cần mẫn gom nhặt bụi vàng tinh hoa để dâng hiến cho Sài Gòn và Nam bộ, cũng chính là dâng hiến cho nền văn hoá vĩnh cửu của dân tộc này. Với tôi, ông là huyền thoại, một huyền thoại của đất phương Nam.
Bụi vàng Sơn Nam
1.
Trong suy nghĩ nôm na sông rạch
trong giấc mơ hào khí miệt vườn
ông đâu muốn nép mình phía nam ngọn núi
Bằng nguồn sữa người đàn bà láng giềng tốt bụng
bằng lưng vốn chữ nghĩa đam mê trời cho
thủng thẳng bơi vào dòng xoáy văn chương
ông nuôi mộng làm ngọn núi phương nam
lưu giữ từng hạt vàng phù sa mang hình mồ hôi nước mắt
lưu giữ từng mùi hương rừng pha mùi máu tổ tiên
2.
Chong ngọn đèn dầu soi mùa len trâu
nheo mắt lắng nghe chuyện xưa tích cũ
ông biết mình cần gì làm gì
ông thấu hiểu mình nên đi đâu về đâu
trên đất nước lời ru bị chia cắt bởi lòng tham như Tây đầu đỏ
Mặc thị trường chữ nghĩa nhân bản vô tính
ông tự vạch một chân trời
ngược về hình bóng cũ
như người thợ nhẫn nại tài hoa
bới tìm lớp lớp đất đá mỏ quặng thời gian
Bến Nghé xưa
Sài Gòn xưa
Nam Bộ xưa
sàng lọc và tinh chế
trao lại mai sau từng hạt bụi vàng
3.
Nửa đời bơi xuồng
nửa đời cuốc bộ
một thời bưng biền
một thời phố xá
bụi vàng đầy dần
núi vàng cao dần
theo từng trang sách của ông
Những trang sách vàng ròng làm giàu tâm hồn bao thế hệ
không nuôi nổi người thợ chăm chỉ tài hoa tới khi trở về đãi cát phía hư vô
4.
Chẳng thể nằm mãi Bình Dương
chuyện trò gốc cây cục đá
lưu luyến một mảnh tình riêng
theo chân người thương Gò Vấp
nhớ cánh chim quyên xuống đất
hương rừng lãng đãng Cà Mau
đến hội vọc nước giỡn trăng
ghé ngang Tiền Giang cạn chén
trốn Sài Gòn về Bàu Láng
dạo chơi hai cõi U Minh
4.
Cùng ông lang thang phố phường Hà Nội
lâm râm khấn vái liệt tổ đền Hùng
ông truyền cho tôi tình yêu nguồn cội
cảm hứng sinh tồn trận bút trường văn
Lần giở từng trang âm vang ký ức
xuôi về sông rạch lục tỉnh trọng nghĩa khinh tài
tôi lại thấy thấp thoáng bóng ông
kính cận
mũ diềm
túi xách
tùng tơng cuốc bộ góp nhặt bụi vàng.
P.H
(nguồn phunuonline)
Nhà văn hoá Sơn Nam: Một huyền thoại của đất phương Nam – Có những người chưa nằm xuống đã rơi vào quên lãng. Có những người đã ra đi nhưng cứ mãi ám ảnh lòng ta…
Ảnh: Nhà văn Sơn Nam – tranh của Phạm Văn Châu Sau hơn một năm tốt nghiệp đại học và đi làm báo, bằng số tiền dành dụm được cùng sự hỗ trợ của gia đình, cơ quan và bạn bè, tôi mua được một căn nhà cấp bốn gần năm mươi mét vuông trong một con hẻm đường Vườn Lài, quận Tân Bình, nay thuộc quận Tân Phú của TP.HCM. Thời điểm ấy là cuối năm 1993, giá nhà đất còn rẻ, nơi tôi mua lại cách xa trung tâm thành phố hơn mười cây số, thuộc vùng ngoại ô, đất đai còn mênh mông, dân cư thưa thớt, nên giá càng rẻ hơn. Nhiều người mừng cho tôi mới ra trường chỉ sống nhờ lương và nhuận bút làm báo làm thơ mà mua được xe được nhà ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có người cứ hỏi tôi tại sao mua nhà xa như vậy, không cố gắng chút nữa để được ở gần trung tâm thành phố. Biết làm sao được khi khả năng mình chỉ tới đó, với lại về đây có một số bạn bè văn nghệ kẻ trước người sau tụ hội cũng vui, như các nhà thơ Đoàn Vị Thượng, Nguyễn Vân Thiên và nhạc sĩ Trần Quang Minh. Bốn người chúng tôi sáng sáng hay gặp nhau uống cà phê trên đường Địa Đạo (nay đổi thành Phú Thọ Hoà) mà mọi người gọi vui là nhóm “Minh Thượng Thiên Hoàng”! Tuy ở xa trung tâm nhưng giới văn nghệ Sài Gòn và các tỉnh thành cũng thường lên chơi với chúng tôi. Một lần nhân dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn – TP.HCM, nhà văn Sơn Nam, người mà tôi hay gọi bằng “bố” hoặc “bố già” nửa vui nửa tôn kính, muốn tôi chở ông lên thăm vùng địa đạo Phú Thọ Hoà gần nhà tôi.
Nhà văn suốt đời chỉ biết đi bộ này khi ngồi sau xe thì không bao giờ ngớt chuyện. Chở ông đi, đường dù xa mấy cũng ngắn lại. Ông nói chậm rãi mà có duyên và sâu sắc, thỉnh thoảng còn pha trò. Mặc dù tôi là người rất mê lịch sử nhưng khi nghe những gì ông kể về vùng đất tôi đang ở thì tôi mù tịt và giật mình về sự thiếu hiểu biết của mình, lại càng khâm phục cái trí nhớ hiếm có của bậc trưởng lão làng văn Sài Gòn và Nam Bộ. Đến địa đạo Phú Thọ Hoà, nhà văn Sơn Nam săm soi rất kỹ. Đây là địa đạo đầu tiên của Sài Gòn và Nam Bộ, được đào từ năm 1947 thời chống Pháp, xung quanh là một vùng cây cối rậm rạp có địa thế hiểm yếu về quân sự. Ông hỏi tôi biết ai là những người đầu tiên có sáng kiến đào địa đạo dài 700 mét này không? Chuyện này thì tôi biết. Đó là Trung tướng Lê Thanh, Đại tá Lâm Quốc Đăng và ông Nguyễn Văn Tiểng lúc ấy giữ chức Bí thư Chi bộ xã Phú Thọ Hoà. Nhưng người đầu tiên và trực tiếp chỉ huy đào địa đạo này là Chi đội trưởng 12 Nguyễn Thượt, tức là Lâm Quốc Đăng, cái tên xuất phát từ biệt danh “Thần đèn rừng” nổi tiếng thời đánh Mỹ. Nhà văn Sơn Nam lại hỏi có biết ai là người quan tâm, đề nghị phục hồi địa đạo để được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia. Chuyện này thì tôi chịu. Bậc tiền bối giương mắt kính cười bảo: “Ông Nguyễn Văn Linh đó!”. Từ địa đạo Phú Thọ Hoà, nhà văn Sơn Nam bảo tôi cùng ông sang viếng mộ cổ của người giàu hàng đầu Sài Gòn là bá hộ Xường nằm đối diện phía bên kia đường. Dân gian đất phương Nam đầu thế kỷ XX có câu “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hoả”. Sỹ tức Huyện Sỹ, tên thật Lê Phát Đạt, ông ngoại hoàng hậu Nam Phương. Phương là Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, một tay sai khét tiếng của thực dân Pháp. Hoả là chú Hoả, tên thật Hứa Bổn Hoà, đại gia bất động sản số 1 Sài Gòn gắn liền giai thoại “Con ma nhà họ Hứa”. Còn Xường chính là bá hộ Xường, tên thật Lý Tường Quán, đại điền chủ và thương gia gốc Hoa, giàu lên nhờ kinh doanh thịt cá xuất khẩu và xây nhà cho thuê ở Chợ Lớn, nhưng sau khi ông qua đời thì tài sản kếch xù đã bị con cháu tiêu pha hết sạch. Nhà văn Sơn Nam bảo với tôi rằng, sống ở đời đừng nghĩ làm giàu để gia sản lại cho con cháu, bài học của bá hộ Xường đáng để cho ta soi vào. May mà còn khu mộ cổ được xây cất chắc chắn này nên người ta mới nhớ đến bá hộ Xường. Dù không hoành tráng nhưng đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ thuộc loại quý hiếm còn sót lại của Sài Gòn. Giống như khi tôi “tháp tùng” ông lần đầu ra Hà Nội và lên Đền Hùng đất Tổ, đến đâu nhà văn Sơn Nam cũng săm soi rất kỹ từng hòn đá, cục gạch, cái cây, hoa văn. Nhìn gương mặt ông tươi tỉnh, thỉnh thoảng giương giương mục kỉnh nhìn cái gì đó, tôi biết ông mãn nguyện. Tôi tiếp tục chở “bố già” ra cái quán quen thuộc trên đường Địa Đạo mà nhóm “Minh Thượng Thiên Hoàng” chúng tôi hay ngồi. Ông nói vùng này vẫn còn vẻ đẹp tương đối hoang sơ, nhưng với tốc độ đô thị hoá nhanh chóng thì chừng hơn mười năm nữa sợ nhiều thứ sẽ mất đi. Mới uống vài miếng nước chanh, bố Sơn Nam chợt đứng phắc dậy đi đi lại lại, ngắm ngắm nghía nghía con đường Địa Đạo phủ xanh bóng mát cây bàng hai bên. Cuối đông đầu xuân, bàng lưa thưa lá đỏ. Dù bề ngang chỉ 12m và chiều dài chưa tới 2km nhưng bấy giờ Địa Đạo là con đường huyết mạch và được rải nhựa hiếm hoi của vùng này. Ngắm nghía thoả thích, trở vào quán bố Sơn Nam hỏi tôi rằng có biết đường Địa Đạo ngày xưa là cái gì không. Tôi cười nhìn ông với vẻ cam chịu. Ông ngồi xuống với dáng vẻ quan trọng: “Hoa Phong cổ luỹ thời nhà Nguyễn đấy”. Rồi ông rút từ trong giỏ ra cuốn sách “Ấn tượng 300 năm” do Nhà xuất bản Trẻ vừa ấn hành, lấy bút hí hoáy ghi: “Cháu Phan Hoàng nên đọc quyển sách này vì đây là tâm huyết của người hơn 70 tuổi”. Tác phẩm ông viết được xuất bản nhân dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn – TP.HCM (1698-1998). Nhận món quà bất ngờ và dòng chữ chân tình của bố già, tôi hết sức xúc động, ngay đêm đó về nhà tôi đọc một mạch hết cuốn sách. Dù chỉ hơn một trăm trang nhưng “Ấn tượng 300 năm” của nhà văn hoá Sơn Nam cung cấp một lượng kiến thức cô đọng và sâu rộng về quá trình hình thành Sài Gòn và Nam Bộ, đặc biệt trong đó có những bí ẩn về Hoa Phong cổ luỹ hiếm người biết. Theo khảo cứu của ông, trước khi danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh mở cuộc hành quân bình định vùng biên giới Tây Nam năm 1700, đã cho thuộc tướng là lão Cầm đốc suất quân lính xây luỹ Hoa Phong ở Sài Gòn. Trong sách Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức ca ngợi luỹ Hoa Phong là một trong 20 thắng cảnh của đất Gia Định: “Lâm ngoại Hoa Phong thuỷ ngoại thôn,Tướng quân tiền khứ, thuỷ do tồn…”Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Phan đã dịch thoát thành 4 câu lục bát:“Ngoài rừng có luỹ Hoa PhongCó dòng nước nhỏ lượn quanh xóm làngTướng quân xưa đã không cònMà nền đất cũ chưa mòn chiến công” Tướng quân xưa chính là Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, bậc tiền hiền có công lớn trong việc tạo lập vùng đất Sài Gòn – Nam Bộ. Trong sách “Ấn tượng 300 năm”, nhà văn Sơn Nam còn cho biết thêm: “Đại Nam nhất thống chí ghi luỹ Hoa Phong dài phỏng định 6 ki-lô-mét (1.187 trượng). Sau này, luỹ được nối thêm với luỹ Tây Hoa. Năm 1731, người Lào là Sa Tốt cầm đầu một nhóm người Chân Lạp khá đông tràn đến Bến Lức (Long An), kéo qua Vườn Trầu (Hóc Môn), may nhờ Trần Đại Định (con của Trần Thắng Tài, Biên Hoà) chận được, đắp thêm luỹ (luỹ Tây Hoa). Lực lượng của chúa Nguyễn kéo đến, phá tan giặc. Lão Cầm là thuộc tướng của Nguyễn Hữu Cảnh chăm sóc việc đắp luỹ Hoa Phong, có lẽ là viên chức cỡ nhỏ. Lúc đi tham quan di tích chống Pháp chống Mỹ do quận Tân Bình tổ chức, nhìn vào vách văn phòng phường 19 (vào năm 1984) tình cờ thấy trên bản đồ ghi “luỹ ông Dầm”. Tôi suy luận, ông Dầm là lão Cầm nói trại ra, vì huý kỵ”. Quan sát tinh tế, tỉ mỉ và suy luận có cơ sở khoa học, đó là phong cách của nhà văn hoá Sơn Nam, không chỉ riêng di tích Hoa Phong cổ luỹ mà toàn bộ những khảo cứu về lịch sử, văn hoá của ông về Sài Gòn và Nam Bộ. Phong cách ấy của bậc tiền bối cũng để lại trong tôi bài học quý giá trên bước đường chữ nghĩa. Và không chỉ trong công việc mà đối với những người ông yêu mến cũng vậy. Trong đời mình, Sơn Nam có nhiều mối tình, có nhiều vợ, nhưng tôi chỉ được biết đến mối tình cuối của ông, đó là một phụ nữ nghèo bán bia, nhỏ hơn ông khoảng 30 tuổi. Hai người tình cờ gặp nhau, yêu nhau và thuê nhà chung sống với nhau ở gần chợ Gò Vấp. Tình muộn nhưng thật đẹp, dù cuộc sống rất khó khăn, chủ yếu nhờ nhuận bút của ông. Ông yêu quý bà, bà cũng hết mực thương yêu, chăm sóc ông những năm tháng cuối đời, cho tới khi ông vĩnh biệt cõi trần thì người phụ nữ này cũng âm thầm biến mất. Chẳng biết bây giờ bà sống như thế nào, nhưng tôi tin từ nơi yên nghỉ vĩnh hằng ở Bình Dương ông vẫn nhớ bà khôn nguôi. Một người nghĩa tình như Sơn Nam thì không quên bất cứ ai và bất cứ mảnh đất nào mà ông từng gắn bó, cũng như Sài Gòn – Nam Bộ mãi mãi sẽ lưu dấu về ông.Với tốc độ đô thị hoá nhanh chóng, ngày nay Sài Gòn khác nhiều so với lúc kỷ niệm 300 năm mà tôi chở nhà văn Sơn Nam lên thăm vùng Phú Thọ Hoà, tất nhiên càng khác rất xa thời Nguyễn Hữu Cảnh ra lệnh cho lão Cầm xây đắp Hoa Phong cổ luỹ. Phong cảnh đổi khác nhưng hồn cốt Sài Gòn không khác. Hồn cốt tạo nên nền tảng và giá trị khác biệt của Sài Gòn – TP.HCM vẫn nằm trong tâm thức, tính cách con người và từng di tích, kỷ vật, trang sách mà thế hệ sau phải có trách nhiệm bảo tồn, phát huy. Để lưu giữ được hồn cốt tinh hoa ấy, tôi nghĩ mỗi người Sài Gòn cần có trong mình một ý thức Sơn Nam, một tình yêu Sơn Nam, một trách nhiệm Sơn Nam và trên hết là một tinh thần văn hoá Sơn Nam. Không hiểu sao mỗi khi nghĩ về Sơn Nam, tôi hay liên tưởng đến hình ảnh con người cần mẫn gom nhặt bụi vàng tinh hoa để dâng hiến cho Sài Gòn và Nam bộ, cũng chính là dâng hiến cho nền văn hoá vĩnh cửu của dân tộc này. Với tôi, ông là huyền thoại, một huyền thoại của đất phương Nam.
|
Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE