Quo Vadis – Henryk Sienkievich (Ba Lan) – kì cuối

Vanhaiphong hết sức cám ơn dịch giả Nguyễn Hữu Dũng đã cấp bản dich truyện này để giới thiệu với độc giả. Ban biên tập cũng hết sức cám ơn các bạn đọc nhiệt tình đã theo dõi từ đầu đến cuối cuốn truyện dài nhưng rất hay này
Mời các bạn đọc tiếp truyện Aivanho của tác giả Walter Scott sẽ đăng từ kì sau

 

Vanhaiphong hết sức cám ơn dịch giả Nguyễn Hữu Dũng đã cấp bản dich truyện này để giới thiệu với độc giả. Ban biên tập cũng hết sức cám ơn các bạn đọc nhiệt tình đã theo dõi từ đầu đến cuối cuốn truyện dài nhưng rất hay này. Mời các bạn đọc tiếp truyện Aivanho của tác giả Walter Scott sẽ đăng từ kì sau

Cái chết của Petronius đã được phán quyết. Ngay chiều hôm sau người ta sẽ phái một viên xentunion mang tới lệnh bắt ông phải dừng lại ở Cumae chờ chiếu chỉ, rồi vài ngày sau, một điệp sứ khác sẽ mang tới cho ông bản án tử hình.

Với vẻ bình thản không một chút xao động, Petronius nghe hết mọi tin tức của người nô lệ giải phóng, rồi nói:

– Ngươi hãy mang về cho chủ ngươi một chiếc bình quý của ta mà ngươi sẽ được giao trước lúc lên đường. Hãy thưa lại với ngài rằng ta thành tâm cảm ơn ngài, vì như thế này ta có thể ra tay trước khi có bản án.

Và đột nhiên ông bật cười, như người vừa chợt nảy ra một dự định tuyệt diệu, vui sướng trước khi bắt tay vào thực hiện.

Ngay chiều hôm ấy, nô lệ của ông toả đi mời tất cả các vị cận thần nam và nữ đang có mặt tại Cumae đến dự tiệc ở cái biệt thự tuyệt đẹp của con người mẫu mực về trang nhã này.

Còn ông, suốt mấy giờ buổi chiều, ông ngồi viết trong thư viện, sau đó ông đi tắm, ra lệnh mặc cho mình một bộ vextiplic, rồi phong lưu, thanh nhã, tuyệt vời như các vị thần, ông ghé qua phòng tiệc xem xét việc chuẩn bị với con mắt của một nhà sành sỏi, sau đó ông ra vườn, nơi bọn tiểu đồng cùng các thiếu nữ Hi Lạp trẻ trung mua hoa ở vùng đảo về đang tết những vòng hoa hồng cho dạ tiệc.

Nét mặt ông không hề gợn một chút ưu tư. Gia nhân chỉ nhận biết được rằng bữa tiệc này sẽ là một cái gì đó đặc biệt, thông qua việc ông ra lệnh ban những phần thưởng khác thường cho những người khiến ông hài lòng và xử phạt nhẹ nhàng những kẻ không làm ông vừa ý, cùng những ai trước đó đã đáng bị quở phạt. Ông ra lệnh trả tiền trước một cách hào phóng cho bọn xướng ngâm và ca công. Và sau hết, ông ngồi trong vườn dưới bóng cây dẻ gai, nơi ánh mặt trời rọi qua tán lá đan thành những mảng sáng trên mặt đất, rồi cho gọi nàng Eunixe đến.

Nàng tới, vận bộ y phục màu trắng, với một nhành sim thơm trên mái tóc, trông tuyệt vời như một tiên nữ Kharyta. Ông cho nàng ngồi cạnh, rồi khẽ chạm mấy ngón tay vào thái dương nàng, ông ngắm nhìn nàng với một tình yêu mến nồng nàn, như cái nhìn của một người sành nghệ thuật chiêm ngưỡng một pho tượng thần được hiện hình dưới bàn tay của một bậc nghệ nhân trác việt.

– Eunixe, – ông bảo nàng, – em có biết rằng đã từ lâu em không còn là nô tỳ nữa?

Nàng ngước đôi mắt trầm tĩnh xanh thẳm như sắc da trời nhìn ông, khẽ lắc đầu phản đối:

– Em mãi mãi là nô tỳ, thưa ông chủ. – nàng đáp.

– Song có thể em không biết rằng, – ông Petronius tiếp lời, – cả toà biệt thự này cùng các nô tỳ đang tết vòng hoa nơi kia và tất cả mọi thứ khác, cả ruộng đồng lẫn gia súc, từ hôm nay sẽ thuộc về em.

Nghe thấy thế, Eunixe bỗng dịch ra xa ông, và bằng giọng nói âm vang một nỗi lo lắng bất chợt, nàng hỏi:

– Sao người lại nói với em điều ấy, thưa ông chủ?

Rồi nàng xích lại gần và đăm đắm nhìn ông, mắt chớp kinh hoàng. Giây lát sau, mặt nàng trắng bệch như màu vải trắng, còn ông vẫn tiếp tục mỉm cười, mãi sau mới buông một tiếng gọn lỏn:

– Phải!

Một giây im lặng bao trùm, chỉ có làn gió nhẹ khe khẽ xao động lá dẻ gai.

Ông Petronius hoàn toàn có thể cho rằng trước mặt ông đang là một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch trắng.

– Eunixe, – ông nói, – ta muốn được chết một cách thanh thản.

Thiếu nữ nhìn ông với nụ cười đau đớn, thì thầm:

– Em xin vâng, thưa ông!

Buổi tối, khách khứa, những kẻ hơn một lần được dự tiệc tại nhà ông Petronius và hiểu rằng so với những buổi tiệc ấy thì ngay cả đến tiệc của Hoàng đế cũng tỏ ra buồn chán và thô thiển – bắt đầu lũ lượt kéo tới, song không một ai thoáng có ý nghĩ rằng đây sẽ là bữa tiệc(1) cuối cùng. Quả tình cũng có nhiều người biết rằng trên đầu vị cận thần trang nhã này đang vần vũ những đám mây đen thất sủng của Hoàng đế, song chuyện ấy đã từng xảy ra biết bao nhiêu lần và cũng đã biết bao nhiêu lần ông Petronius biết cách xua tan những đám mây đen ấy chỉ bằng một hành động khôn khéo hoặc một lời nói mạnh bạo, khiến cho không một ai có thể ngờ rằng lần này mối nguy hiểm nghiêm trọng đang đe doạ ông. Vả chăng, nét mặt vui vẻ và nụ cười đầy vẻ vô lo của ông khiến người ta càng tin vào điều ấy. Trong những đường nét thiên thần của mình, nàng Eunixe tuyệt sắc, được ông thổ lộ rằng muốn được chết thanh thản, người mà mỗi lời ông nói đều là lời phán quyết, vẫn giữ được vẻ bình thản, duy chỉ trong đồng tử của nàng có một thứ ánh sáng khác lạ mà người ta có thể đọc thành nỗi hân hoan. Ở cửa vào phòng tiệc, những tiểu đồng tóc bọc trong lưới vàng đặt những vòng hoa hồng lên đầu khách, và theo phong tục, canh sao cho họ bước qua ngưỡng cửa bằng chân phải. Trong gian phòng lớn thoang thoảng mùi hoa đồng thảo; ánh sáng lung linh trong những chiếc đèn nhiều màu sắc làm bằng thuỷ tinh Alekxanđria. Đứng bên các ghế dài là những thiếu nữ Hi Lạp có nhiệm vụ xoa dầu thơm vào bàn chân cho khách. Kề bên tường, bọn nhạc công đàn tranh và các ca công thành Aten đang chờ hiệu lệnh của viên quản ca.

Những thức ăn đựng đầy trên bàn tiệc choáng lộn vẻ xa hoa, song cái vẻ lộng lẫy kia không gây cảm giác nặng nề cho một ai và cũng không khiến ai phải khó chịu, dường như tự nó đã toát lên vẻ trang nhã. Cùng với mùi hoa đồng thảo, sự vui vẻ và thoải mái tràn ngập trong phòng. Bước vào đây, khách không hề cảm thấy có sự cưỡng bức hay mối đe doạ nào treo lơ lửng trên đầu như cái không khí thường có trong các buổi tiệc của Hoàng đế, nơi mà ngay cả những lời tán dương không đủ độ tâng bốc hay không đúng chỗ đối với một khúc ca hay một bài thơ cũng có thể phải được trả giá bằng tính mạng. Tim các thực khách càng thêm phấn khích trước quang cảnh đèn nến sáng choang, những chiếc độc bình quý mỏng manh, những bình rượu nho ướp lạnh trong lớp vỏ tuyết trắng xoá, cùng các món sơn hào hải vị. Những câu chuyện bắt đầu râm ra như tiếng đàn ong bay quanh cây táo đang rộ hoa, chỉ thỉnh thoảng mới bị gián đoạn, bởi một dịp cười rộ lên vui vẻ, bởi tiếng xuýt xoa tán thưởng hay một cái hôn thành tiếng quá kêu được đặt lên một bờ vai trắng muốt.

Trong khi uống rượu nho, khách khứa đều gẩy từ mỗi cốc ra vài giọt rượu để hiến dâng lên các vị thần linh bất tử, cầu họ phù hộ cho chủ nhân. Có hề chi đâu chuyện nhiều người trong đám thực khách không hề tin vào thần thánh. Phong tục và tín ngưỡng buộc phải thế. Nằm bên cạnh Eunixe, ông Petronius tham gia vào những câu chuyện thời sự ở Roma, về những đám ly dị mới nhất, về tình ái, chuyện trăng hoa, về các cuộc đua xe, về chàng Xpikulux, người mới nổi bật trên đấu trường trong thời gian gần đây, về những quyển sách mới ra đời ở nhà Atraktux và Xezius. Vừa gẩy những giọt rượu nho, ông vừa nói rằng ông chỉ gẩy rượu dâng hiến bà chúa Sip, người lớn tuổi và vĩ đại nhất trong tất cả các thần, người duy nhất bất tử, vĩnh hằng, đầy quyền lực.

Câu chuyện của ông giống như một tia nắng mặt trời đang nhảy nhót, mỗi lúc lại chiếu vào một đối tượng mới, giống như một hơi gió mùa hạ làm xao động hoa lá trong vườn. Lát sau, ông gật đầu ra hiệu cho viên quản ca, và theo hiệu lệnh của anh ta, những cây đàn tranh khe khẽ lên tiếng, rồi những giọng hát trẻ trung hoà theo. Sau đó, các vũ nữ đảo Kox, những người đồng hương với nàng Eunixe, bắt đầu phô diễn những tấm thân hồng hào dưới lượt vải the trong suốt. Cuối cùng, một thầy bói Ai Cập tiên đoán tương lai cho khách dựa trên chuyển động của những con cá tráp sặc sỡ màu sắc cầu vồng đang bơi lội tung tăng trong một chiếc bình pha lê.

Khi họ đã chán những trò vui ấy, ông Petronius hơi nhổm người dậy trên chiếc gối Xyri của ông và cất tiếng nói với vẻ không mấy hào hứng:

– Thưa các bạn! Hãy lượng thứ cho tôi vì trong tối vui mà lại ngỏ lời cầu khẩn này cùng các bạn: xin mỗi vị hãy vui lòng nhận một chiếc tách này làm quà, và trước tiên, xin hãy để rơi vài giọt rượu dâng lên các vị thần cầu phúc cho tôi.

Những chiếc tách quý của ông Petronius lóng lánh ánh vàng, ánh ngọc và những hình trạm chổ tuyệt xảo, nên mặc dầu chuyện ban phát quà tặng là chuyện thường tình ở Roma, trái tim các thực khách vẫn tràn ngập nỗi hân hoan. Một số người bắt đầu cảm ơn và lớn tiếng ca tụng ông; số khác trầm trồ rằng cả đến thần Jupiter cũng chưa bao giờ ban phát cho các vị thần trên núi Olimpơ món quà nào quý đến thế; cũng có những kẻ còn ngần ngại chưa dám nhận một món quà vượt xa mọi mực thước thông thường.

Còn Petronius, ông nâng cao chiếc bình cổ quý giá vô song, rực rỡ muôn ánh hào quang như sắc cầu vồng và nói:

– Bình rượu này tôi xin dâng lên bà chúa Sip, cầu cho từ nay không một kẻ nào còn được chạm đôi môi vào đây, không một bàn tay nào còn được rót rượu từ chiếc bình này để dâng hiến nữ thần nữa!

Rồi ông ném mạnh chiếc bình quý xuống sàn nhà rải đầy hoa kỵ phù lam màu tím, và khi nó vỡ tan thành vô vàn mảnh vụn trước những cặp mắt bàng hoàng của những người chung quanh, ông nói tiếp:

– Các bạn thân mến! Hãy vui lên đi thay vì kinh ngạc! Sự già nua bất lực là bạn đồng hành buồn thảm của những năm tháng cuối cùng của đời người. Song tôi sẽ chỉ cho các bạn một tấm gương tốt cùng một lời khuyên tốt: các bạn đừng nên chờ đợi chúng, mà trước khi chúng kịp đến, hãy ra đi như tôi sẽ ra đi!

– Ngài muốn làm gì vậy? – vài giọng lo lắng hỏi.

– Tôi muốn được vui, được uống rượu nho, được nghe âm nhạc, được ngắm những đường nét thiên thần mà các bạn trông thấy cạnh tôi đây, rồi sau đó được thiếp đi với mái đầu mang vòng hoa này. Tôi đã có lời từ biệt với Hoàng thượng và không hiểu các bạn có muốn nghe những gì tôi đã viết cho Người hay chăng?

Nói đoạn, ông rút ra từ dưới chiếc gối màu tía ra một bức thư rồi cất tiếng đọc, bức thư đó như sau:

“Tâu Hoàng thượng, tôi biết rằng Hoàng thượng đang nóng lòng trông đợi nên tôi đến, rằng trái tim bạn bè trung thành của Người đang ngày đêm nhớ thương tôi. Tôi biết rằng Hoàng thượng sẵn lòng ban thưởng cho tôi bao bổng lộc và trao cho tôi chức tổng quản cấm quân, còn Tygelinux thì Người sẽ bắt hắn phải làm cái việc mà các thần đã muốn hắn phải làm khi sinh tạo hắn ra: làm một tên quản la trên đất đai của Hoàng thượng, những đất đai mà Người được hưởng quyền thừa kế sau khi đã đánh thuốc độc Đomixia. Song xin Người hãy lượng thứ cho tôi, vì thề có Hađex, chốn địa ngục đang thấp thoáng hình bóng của Thái hậu, hoàng hậu và hoàng đệ của Người cũng như hương hồn ông Xeneka, tôi không thể đến chầu Hoàng thượng được. Bạn thân mến của tôi ơi, đời người là một kho báu vô song, mà tôi là kẻ biết lựa tìm trong ấy những thứ ngọc ngà quý nhất. Song trong cuộc đời cũng có những thứ mà tôi không thể chịu đựng lâu hơn được nữa. Ồ, xin chớ vội nghĩ rằng tôi không chịu đựng nổi việc bạn đã giết cả mẹ lẫn vợ cùng em, việc bạn đã đốt trụi Roma và đẩy đi Ereb tất cả những người trung thực ở quốc gia này! Không phải đâu, thưa chắt đích tôn của thần Kronox! Cái chết vốn là khẩu phần chia theo đầu người, vả chẳng đâu có thể trông chờ ở bạn một hành động nào khác thế. Song, phải chịu hỏng tai thêm bao năm nữa vì tiếng hát của bạn, phải nhìn đôi giò khẳng khiu của bạn vung vẩy trong vũ điệu Pirei, phải nghe tiếng đàn của bạn, lời ngâm xướng của bạn cùng các bản trường ca của bạn – thì hỡi chàng thi sĩ tội nghiệp của vùng ngoại ô ơi, những điều ấy quả là vượt quá sức chịu đựng của tôi và khiến tôi muốn chết. Roma phải bịt tai khi nghe bạn, thế giới cười mỉa mai bạn, còn tôi, tôi không muốn và cũng không thể chín mặt ngượng vì bạn lâu hơn được nữa! Bạn thân yêu của tôi! Đối với tôi, tiếng gào hú của con chó ba đầu Xerber – dù là gần giống tiếng hát của bạn – vẫn còn dễ nghe hơn, vì lẽ chưa bao giờ tôi phải là bạn của nó và tôi cũng không có nghĩa vụ phải xấu hổ vì giọng của nó. Mạnh khoẻ nhé nhưng xin đừng ca hát, cứ giết chóc đi nhưng xin chớ làm thơ, hãy đầu độc nữa đi chứ đừng cố múa may, đốt phá tràn lan đi nhưng đàn tranh đừng gẩy – đó là lời chúc và cũng là lời khuyên bằng hữu cuối cùng mà arbiter elegantiarum gửi tới bạn”.

Các vị thực khách kinh hoàng, bởi họ hiểu rằng giá Nerô có bị mất cả quốc gia đi chăng nữa, thì đối với ngài ngón đòn ấy còn ít độc địa hơn. Họ cũng hiểu rằng người viết bức thư này sẽ phải chết và một nỗi lo sợ cho chính mình vây lấy họ, bởi vì họ đã nghe đọc bức thư kia.

Nhưng ông Petronius bật cười thoải mái và vui vẻ, dường như đó chỉ là một trò đùa vô tội nhất, rồi đưa mắt lướt qua những người có mặt, ông lại cất tiếng nói:

– Các vị hãy vui lên và hãy xua đuổi nỗi âu lo. Chẳng ai phải tự khoe là đã được nghe bức thư này, còn tôi, có lẽ khi nào rỗi rãi, tôi sẽ khoe nó với ông lão Kharon.

Rồi ông ra hiệu cho vị danh y Hi Lạp và chìa cánh tay cho ông ta. Chỉ trong nháy mắt, người thầy thuốc Hi Lạp đã quần một mảnh bằng vàng quanh tay ông và mở mạch máu ở khuỷu tay. Máu vọt ra, toé lên chiếc gối lót đầu và cả người Eunixe. Nàng đỡ lấy đầu ông Petronius, cúi xuống phía ông và nói:

– Người ơi, người nghĩ là em sẽ bỏ mặc người chăng? Dù các thần có ban cho em sự bất tử, dù Hoàng đế có nhường cho em quyền trị vì cả thế gian này chăng nữa, em cũng vẫn nguyện đi cùng người!

Petronius mỉm cười, hơi nhổm người lên, chạm môi vào đôi môi nàng rồi đáp:

– Em hãy đi cùng ta!

Rồi ông nói thêm:

– Em quả là yêu ta, hỡi nữ thần của ta!

Nàng chìa cho nhà danh y cánh tay hồng hào của mình, và giây lát sau, máu nàng bắt đầu tràn ra, hoà vào dòng máu của ông.

Ông Petronius ra hiệu cho người quản ca, tiếng đàn tranh và giọng hát lại vang lên, đầu tiên người ta ca bản Hormođiox, sau đó vang lên một khúc ca của Anakreontơ, trong đó thi sĩ phàn nàn rằng ông nhặt được trước cửa nhà mình một đứa trẻ lạnh tái đã khóc hết cả hơi, con đẻ của nữ thần Afrođyta, ông mang nó vào nhà, sưởi ấm, hong cho khô đôi cánh, thế mà đứa bé vô ơn ấy lại dùng một mũi tên vàng xuyên thủng trái tim ông để trả ơn, và từ đó ông mất đi sự yên tĩnh.

Còn họ, tựa người vào nhau, đẹp như hai thiên thần, vừa nghe hát vừa mỉm cười trong khi người họ cứ nhợt nhạt dần đi. Khi bài ca kết thúc, ông Petronius ra lệnh mang thêm rượu nho và thức ăn ra, rồi ông lại trò chuyện cùng các thực khách ngồi cạnh về những câu chuyện tầm phào nhưng dễ yêu mà người ta vẫn thường nói với nhau trong các bữa tiệc. Ông gọi nhà danh y Hi Lạp lại, ra lệnh tạm thắt lại mạch máu một lúc, vì ông cho rằng ông cảm thấy buồn ngủ và muốn được hiến cho thần ngủ Hipnox thêm một lần nữa trước khi thần chết Tanatox ru ông vào giấc ngủ thiên thu.

Ông thiếp đi, khi tỉnh dậy đầu người thiếu nữ đã ngả trên ngực ông như một đoá hoa màu trắng. Ông bèn tựa đầu nàng vào gối để ngắm nàng lần nữa. Sau đó, người ta lại mở mạch máu ra cho ông.

Đáp lại cái gật đầu của ông, các ca công bắt đầu ngân nga một bài ca khác cũng của Anakreontơ, đàn tranh chỉ khẽ đệm theo để không át mất lời ca. Petronius mỗi lúc thêm nhợt nhạt, song khi những thanh âm cuối cùng vừa lắng đi, ông còn ngoảnh lại nhìn các thực khách một lần cuối và nói:

– Các bạn ơi, hãy thừa nhận rằng, cùng với chúng tôi, đã chết đi cả…

Song ông chưa kịp nói hết, bằng một cử động cuối cùng, tay ông ôm lấy Eunixe, đầu ông ngật ra gối và qua đời.

Nhưng nhìn hai tấm thân trắng ngà tựa những pho tượng tuyệt vời ấy, các thực khách đều hiểu rõ rằng, cùng với hai con người kia đã chết đi những gì còn sót lại cho thế giới của họ, đó là thi ca và cái đẹp.

Chú thích:

(1) Nguyên văn: symposion (La Tinh) – bữa tiệc có tính chất giải trí, trong đó người ta có thể thảo luận về một chủ đề nào đó.

ĐOẠN KẾT

Thoạt đầu, cuộc nổi loạn của các chiến đoàn người Gan dưới sự thống lĩnh của Vinđekx không có vẻ gì nguy hiểm lắm. Hoàng đế mới có ba mươi mốt tuổi đời và không một ai dám ngờ rằng thế gian sẽ thoát khỏi cơn ác mộng đang khiến nó nghẹt thở. Người ta nhớ lại rằng trong các chiến đoàn, ngay từ những thời Hoàng đế trước, cũng đã hơn một lần xảy ra bạo động, nhưng chưa có cuộc bạo động nào kéo theo việc thay ngôi trị vì. Thời Tyberius, Đruxux đã dập tắt cuộc khởi loạn của các chiến đoàn Panon, còn Germannikux – các chiến đoàn sông Ranh. “Vả chăng ai là người có thể thay Nerô nắm quyền trị vì cơ chứ – người ta bảo nhau, – một khi các con cháu của Hoàng đế Auguxt thần thánh đều đã bị chết trong thời ngài trị vì?” Những kẻ khác trông lên pho tượng khổng lồ tạc hình ngài như dũng sĩ Herkulek bất giác nghĩ rằng không một sức mạnh nào có thể đánh gục nổi một thế lực nhường kia. Cũng có cả những kẻ đâm ra nhớ ngài kể từ khi ngài đi Akhai, bởi vì Heliux và Politetex, những kẻ mà ngài giao cho toàn quyền nhiếp chính đối với Roma và Italia, còn thống trị một cách đẫm máu hơn cả ngài.

Không một ai dám chắc vào tính mạng và của cải của mình. Luật lệ thôi không còn bảo vệ được ai nữa. Đã tắt ngấm đi nhân cách và phẩm hạnh, đã lỏng lẻo những giường mối gia đình, và những trái tim thảm hại không còn dám hi vọng nữa. Từ Hi Lạp vang dội tin tức về những thắng lợi của Hoàng đế và hàng nghìn vương miện mà ngài đoạt được, về hàng nghìn địch thủ mà ngài đã chinh phục. Thế giới có vẻ như một cuộc cuồng hoan duy nhất, đẫm máu và nực cười, nhưng đồng thời cũng nẩy sinh ý nghĩ rằng đã chấm dứt phẩm hạnh và những việc nghiêm túc, đã sang thời của vũ, của nhạc, của xa hoa và máu, và từ đây trở đi cuộc sống sẽ cứ trôi đi như thế. Chính Hoàng đế, kẻ mà cuộc nổi loạn đã mở đường cho những cuộc cướp đoạt mới, cũng chẳng hề quan tâm gì tới các chiến đoàn bạo loạn cùng Vinđekx, thậm chí ngài còn thường xuyên biểu lộ niềm vui sướng của mình về chuyện ấy. Ngài cũng chẳng muốn rời Akhai, và mãi tới khi Heliux mang tin tới cho ngài rằng nếu chậm hơn nữa có thể sẽ mất chính quyền, ngài mới lên đường đi Neapon.

Nhưng tại đấy, ngài lại chơi đàn và ca hát, bỏ ngoài tai những diễn biến ngày càng nghiêm trọng hơn của sự kiện. Tygelinux chỉ hoài công giải thích cho ngài rằng những vụ bạo động trước kia của các chiến đoàn không có thủ lĩnh, còn hiện nay cầm đầu vụ nổi loạn là một người thuộc dòng dõi của các vị vua Aquitan, hơn nữa lại là một chiến sĩ lừng danh và giàu kinh nghiệm. “Nơi đây, – Nerô nói, – dân chúng Hi Lạp đang lắng nghe ta, chỉ có họ mới biết lắng nghe, chỉ có họ mới xứng với tiếng hát của ta mà thôi”. Ngài bảo rằng nghĩa vụ số một của ngài là quang vinh và nghệ thuật. Nhưng khi có tin báo rằng Vinđekx đã tuyên cáo rằng ngài chỉ là một tên nghệ sĩ quèn, ngài liền bật dậy và lên đường quay về Roma. Những vết thương mà ông Petronius đã gây ra cho ngài, được hàn kín miệng trong thời gian ở Hy Lạp, nay lại há hoác ra trong trái tim ngài, ngài những muốn đòi công lý ở Nguyên lão viện trước một sự xúc phạm ghê gớm nhường kia.

Trên đường đi, ngài trông thấy một nhóm tượng đúc bằng đồng tạc một chiến sĩ người Gan bị một hiệp sĩ La Mã đánh gục, ngài bèn coi đó là một điềm lành, và kể từ đó, nếu như ngài có nhắc tới những chiến đoàn nổi loạn và Vinđekx thì chỉ để cười giễu họ mà thôi. Cuộc hành trình tiến vào thành phố của ngài làm lu mờ tất thẩy những gì người ta từng chứng kiến xưa nay. Ngài tiến vào trên chính cỗ xe mà hoàng đế Auguxt xưa kia đã từng ca khúc khải hoàn. Người ta đã phá bỏ một cánh cung hý trường để mở lối vào cho đám diễu hành. Viện Nguyên lão, các hiệp sĩ, những đám đông người không kể xiết ào ra đón ngài. Những bức tường thành rung lên trong tiếng kêu: “Xin kính chào Hoàng đế Auguxt, xin kính chào thần Herkulex! Xin kính chào thánh thượng, người vô song, vị thần của thế giới Olimpơ, của thế giới Pyty, vị thần bất tử”. Theo sau ngài, người ta mang những vòng chiến thắng, tên các thành phố mà ngài đã từng ca khúc khải hoàn và tên của các vị vô địch mà ngài đã từng chinh phục được kẻ trên những chiếc bảng lớn. Chính Nerô cũng thoả mãn trong cơn say sưa, ngài hỏi các cận thần, lễ ca khúc khải hoàn của chính Xêzar có ra gì chăng so với cuộc khải hoàn này của ngài? Ngài không sao nhét nổi vào đầu cái ý nghĩ rằng có kẻ nào đó trong đám người không bất tử lại dám vung tay lên chống lại vị bán thần vô địch như ngài. Ngài cảm thấy quả thực mình là người của thế giới Olimpơ, và do vậy ngài hoàn toàn bất khả xâm phạm. Nhiệt tình và sự điên cuồng của đám đông kích động cho cơn điên của chính ngài. Quả thực, trong cái ngày khải hoàn ấy, có thể nghĩ rằng không chỉ riêng Hoàng đế và thành phố mà cả thế giới cũng hoàn toàn mất trí.

Không ai nhìn thấy cái vực thẳm dưới những đống hoa và vòng hoa. Ngay trong buổi tối hôm ấy, những hàng cột và các bức tường của các thần miếu được viết đầy những dòng chữ, trong đó người ta kể ra những tội trạng của Hoàng đế, đe doạ ngài sẽ phải chịu một cuộc trả thù đã sắp tới gần và chế giễu ngài với cái danh nghĩa nghệ sĩ. Người ta truyền khẩu câu nói: “Hắn còn hát cho tới khi hắn đánh thức những con gà trống (Gallos)”. Những tin đồn đáng sợ bắt đầu lan truyền khắp thành phố và lớn lên đến những chừng mực khủng khiếp. Nỗi lo sợ chế ngự đám cận thần. Trong nỗi phấp phỏng không hiểu tương lai sẽ cho thấy điều chi, người ta không dám thốt ra những lời chúc tụng, những hi vọng, không dám cả đến cảm và nghĩ.

Riêng ngài vẫn chỉ sống tiếp tục với nhà hát và âm nhạc. Ngài quan tâm tới những nhạc cụ mới tìm thấy và chiếc đàn oorgan nước mà người ta mang ra thử ở Palatyn. Trong cái trí óc đã hoá thành trẻ con, không có năng lực để khuyên nhủ hay thực hiện một hành động nào, ngài vẫn hình dung rằng những dự kiến các cuộc viễn chinh vươn xa vào tương lai sẽ đảo ngược được nỗi nguy hiểm. Những kẻ gần ngài nhất, khi thấy ngài chỉ cố lo lắng, tìm tòi một cách biểu đạt chính xác nhất để miêu tả nỗi đe doạ thay vì cố gắng tìm biện pháp và quân đội, bắt đầu nản lòng. Những người khác nghĩ rằng ngài cố tìm cách làm điếc tai mình và chung quanh bằng những trích dẫn lê thê, chứ thực ra trong lòng ngài cũng đầy lo sợ và hoảng hốt.. Quả thực những việc làm của ngài cũng trở nên nóng nẩy thế nào ấy. Mỗi ngày lại có hàng nghìn dự định khác nhau lướt qua đầu óc ngài. Chốc chốc ngài lại bật dậy để chạy trốn mối tai ương, ngài ra lệnh đóng gói chất lên xe những chiếc đàn tranh và đàn luýt, ra lệnh cho các nữ tỳ ăn mặc như những nữ kỵ sĩ, nhưng đồng thời ngài bật dậy cũng để kéo các binh đoàn từ phương Đông trở về. Thỉnh thoảng ngài lại nghĩ rằng không phải bằng một cuộc chiến tranh mà bằng chính tiếng hát ngài có thể dẹp tan cuộc nổi loạn của các chiến đoàn Gan. Và tâm linh ngài sung sướng mỉm cười trước cảnh sẽ diễn ra sau lúc ngài dùng tiếng hát thu phục lòng binh lính: những người lính chiến đoàn sẽ vây quanh ngài, lệ dưng dưng trong mắt, còn ngài sẽ ngâm cho họ nghe đoạn epinicium, rồi sau đó, một thời hoàng kim sẽ bắt đầu đối với ngài cũng như đối với La Mã. Đôi khi ngài lại kêu gào đòi máu, đôi khi ngài lại tuyên bố sẽ thành lập đại đế chế ở Ai Cập; ngài nhớ lại các thầy bói đã tiên đoán cho ngài quyền trị vì tại Jerusalem, hoặc ngài xúc động khi nghĩ rằng ngài sẽ là một ca sĩ lang thang kiếm miếng bánh mì của thiên hạ, và các thành phố cùng các đất nước sẽ không còn thờ kính ngài như một vị Hoàng đế, chúa tể trái đất, mà như một ca công mà nhân loại chưa từng sản sinh ra nổi từ trước tới nay.

Và cứ thế ngài tung hoành, điên loạn, ca hát, thay đổi ý định, thay đổi các trích đoạn, biến cuộc sống của ngài và của thế gian thành một giấc mơ viển vông, vớ vẩn và kinh khủng nào đó, thành một chuyện cười chơi huyên náo hợp lại từ những ngôn từ phóng đại, những dòng thơ vớ vẩn, những tiếng rên rỉ, nước mắt và máu, trong lúc đám mây đen ở phía tây mỗi ngày một lớn dậy và mạnh lên. Quá mức rồi, hài kịch của lũ hề rõ ràng đã tới lúc hạ màn.

Khi tin tức về Ganba và việc Tây Ban Nha tham gia cuộc khởi loạn vang tới tai ngài, ngài nổi cơn điên. Ngài đập đổ các cốc tách, lật đổ bàn tiệc và ra những mệnh lệnh mà cả Heliux lẫn Tygelinux cũng không dám thực hiện. Giết sạch những người xứ Gan sinh sống tại Roma, sau đó đốt thành phố một lần nữa, thả hết dã thú từ các chuồng thú ra, dời đô đến Alekxanđria – đối với ngài thẩy đều là những việc vĩ đại, đáng thán phục và dễ thực hiện. Song những ngày quyền lực vô biên của ngài đã qua đi rồi, và ngay cả những kẻ cùng cộng tác với ngài gây nên những tội ác xưa kia cũng bắt đầu nhìn ngài như nhìn một thằng điên.

Cái chết của Viđekx cùng sự bất hoà giữa các chiến đoàn có vẻ khiến cho cán cân ngả trở lại về phía ngài. Lại những tiệc rượu mới, những cuộc khải hoàn mới, những bản án mới được tuyên cáo tại Roma, thì đột nhiên một đêm kia, một kị sĩ cưỡi con ngựa sùi bọt mép từ trại cấm binh phóng vội tới, báo tin rằng ngay trong thành phố binh lính cũng đã dựng cờ khởi nghĩa và đã tuyên bố rằng Granba là Hoàng đế.

Hoàng đế đang ngủ khi người báo tin phóng đến, ngài tỉnh dậy, vô vọng gọi bọn vệ sĩ đêm đêm vẫn canh gác cửa phòng. Trong cung điện đã hoàn toàn trống rỗng. Chỉ còn bọn nô lệ đang cướp phá tại những góc xa nhất những gì có thể cướp được dễ dàng. Nhưng sự xuất hiện của ngài đã khiến chúng hoảng sợ, ngài lang thang một mình suốt trong cung, khiến cung điện tràn ngập những tiếng kêu kinh hoàng và tuyệt vọng.

Cuối cùng những nô lệ giải phóng: Faon, Xpirux và Epafrođyt cũng tới cứu ngài. Họ muốn ngài đi trốn và bảo rằng không còn một giây phút nào để phí hoài nữa, song ngài hãy vẫn còn ảo vọng. Thế nếu như ngài khoác áo tang để lên tiếng trước nguyên lão viện thì liệu viện nguyên lão có thể nào từ chối được chăng những giọt lệ cùng bài nói của ngài? Thế nếu như ngài sử dụng toàn bộ nghệ thuật hùng biện, toàn bộ tài diễn thuyết và khả năng diễn viên, thì liệu có kẻ nào trên đời có thể cưỡng nổi ngài chăng? Lẽ nào người ta lại chẳng phong cho ngài chí ít cũng chức tổng quản toàn Ai Cập.

Vốn quen với những lời tán tụng, bọn họ hãy còn chưa dám phản đối thẳng thừng, họ chỉ cảnh cáo rằng trước khi ngài kịp tới Forum, có thể dân chúng đã xé xác ngài thành muôn mảnh, và doạ rằng, nếu ngài không ngồi ngay lên ngựa thì họ sẽ bỏ mặc ngài.

Faon hứa sẽ giấu ngài trong toà biệt thự của y nằm bên ngoài cổng thành Nomentan. Lát sau họ cùng lên ngựa và dùng áo choàng trùm kín đầu phóng về cuối thành phố. Đêm đã nhạt. Trên đường phố đang bao trùm một không khí náo động báo trước sự trọng đại của thời điểm. Binh lính đi lẻ tẻ hoặc thành từng toán nhỏ tản mác khắp thành phố. Đến gần trại binh, trông thấy một xác chết, ngựa của Hoàng đế đột ngột nhảy dạt sang một bên. Chiếc áo trùm đột ngột tuột khỏi đầu người cưỡi ngựa, và người lính đang đi lướt qua cạnh ngài vào giây phút ấy nhận ra vị chúa tể, song bối rối vì cuộc chạm trán bất ngờ, anh ta lại chào ngài theo tư thế quân nhân. Phóng qua gần trạm cấm binh, họ nghe thấy những tiếng kêu chào đón Ganba. Rốt cuộc Nerô cũng hiểu ra rằng giờ chết đang tới gần. Ngài bị chế ngự bởi một nỗi kinh hoảng và sự cắn rứt lương tâm. Ngài nói rằng ngài trông thấy trước mặt một thứ bóng đen mang hình thù một đám mây đen kịt, trong đám mây đó nhô ra những bộ mặt người mà ngài nhận ra đó là mẹ, là vợ, là em trai. Răng ngài đánh lập cập vì sợ hãi, tuy vậy cái linh hồn diễn viên hài kịch của ngài hình như vẫn còn nhận ra một vẻ đẹp nào đó trong cái đáng sợ của giờ phút ấy. Là một vị chúa tể toàn quyền của trái đất để rồi bị mất đi tất cả – chuyện ấy đối với ngài là một tuyệt đỉnh của bi kịch. Và trung thành với bản thân mình, ngài đóng cho đến phút chót vai chính trong vở bi kịch ấy. Ngài nổi cơn say trích cú và một nỗi thèm khát si mê để những người có mặt phải ghi nhớ những vần thơ ấy cho hậu thế. Chốc chốc ngài lại nói rằng ngài muốn chết và ngài gọi tên Xpikulux, kẻ giết người dẻo tay nhất trong hàng ngũ các đấu sĩ. Chốc chốc ngài lại đọc thơ: “Mẹ ta, phu nhân ta và cha ta đang gọi ta chịu chết!”. Tuy nhiên trong lòng ngài thỉnh thoảng vẫn bừng lên những ánh chớp hi vọng trống rỗng và ngây thơ. Ngài vừa biết rằng cái chết sắp đến vừa không chịu tin vào nó.

Họ thấy cổng thành Nomentan đang mở. Đi tiếp nữa, họ lướt qua gần Oxtrianum, nơi ông Piotr đã từng thuyết giảng và rửa tội. Đến rạng sáng họ về tới biệt thự của Faon.

Đến đó, các nô lệ giải phóng không giấu ngài thêm nữa, rằng đã tới lúc phải chết, ngài bèn ra lệnh đào cho mình một cái hố và nằm ra đất để người ta có thể đo thật chính xác. Nhưng khi nhìn thấy đất bị hất lên, ngài lại kinh hoàng. Cái mặt bự mỡ của ngài tái nhợt, trán ngài đầm đìa những giọt mồ hôi mang hình những giọt sương mai. Ngài bắt đầu lần lữa. Bằng một giọng nói run rẩy của các nghệ sĩ, ngài tuyên bố rằng chưa tới lúc, rồi ngài lại đọc thơ. Cuối cùng ngài yêu cầu được thiêu xác. “Một nghệ sĩ nhường này đang chết!” – ngài lặp lại dường như kinh ngạc.

Trong khi ấy, một điệp sứ của Faon phóng về báo tin viện nguyên lão đã tuyên án và parricida sẽ phải được xử tội theo phong tục cổ xưa.

– Phong tục đó thế nào? – Ngài hỏi với đôi môi trắng nhợt.

– Người ta sẽ xóc chàng nạng vào người rồi hành cho đến kỳ chết, xác sẽ quăng xuống sông Tyber. – Epafrođyx đáp gọn lỏn.

Ngài bèn phanh áo choàng chỗ ngực:

– Thế là đến lúc rồi! – Ngài nói và ngước nhìn trời.

Rồi ngài lặp lại lần nữa:

– Một nghệ sĩ nhường này đang chết!

Đúng vào lúc ấy vang lên tiếng vó ngựa. Đó là một viên xenturion dẫn đầu một toán lính để lấy đầu Ahenobarbux.

– Nhanh lên kia! – bọn nô lệ giải phóng kêu lên.

Nerô đặt lưỡi dao vào cổ, nhưng ngài chọc dao bằng bàn tay run sợ và rõ ràng không bao giờ ngài dám đâm sâu lưỡi dao. Khi ấy Epafrođyx đột ngột đẩy mạnh tay ngài, lưỡi dao thọc lên đến tận đầu, đôi mắt ngài lồi hẳn ra ngoài, kinh khủng, to thô lố đầy kinh hoàng.

– Tôi mang tới cho Người sự sống đây! – viên xentunion tiến vào và kêu to lên.

– Chậm mất rồi.- Nerô đáp lại bằng giọng khàn đặc.

Rồi ngài thêm:

– Đó mới là lòng trung thành.

Trong nháy mắt cái chết đã bao trọn đầu ngài. Máu từ cái cổ to bự phun thành một dòng đen kịt lên những đoá hoa vườn. Hai chân ngài bắt đầu dũi dũi đất. Và ngài yên nghỉ.

Hôm sau, nàng Akte trung thành quấn xác ngài vào những tấm vải quý và thiêu trên đống lửa rắc đầy các loại hương liệu.

Và thế là qua đi Nerô, như đã qua đi cơn lốc, giông bão, hoả hoạn, chiến tranh hay một cơn ác mộng, còn nhà thờ lớn của ông Piotr cho tới nay vẫn đang ngự trị thành đô và thế giới từ trên cao nguyên Vatykan.

Và ngày nay, dựa theo cổng thành Kapen cũ, mọc lên một nhà thờ nho nhỏ với dòng chữ đã hơi bị nhoà nhạt: “Quo Vadis, Domine?”.

HẾT

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder