
– Thế là may cho anh ta đấy, – Petronius đáp – vì anh ta không phải nghe những bài thơ ấy, mặc dù tôi không dám cãi rằng chuyện ấy rất có thể sẽ kết thúc bằng một điều bất hạnh. Râu Đỏ muốn phái một viên xenturion(7) mang tới cho anh ta lời khuyên bằng hữu, khuyên anh ta hãy tự mở phanh mạch máu mình ra…Tiếp kì 4
– Thế là may cho anh ta đấy, – Petronius đáp – vì anh ta không phải nghe những bài thơ ấy, mặc dù tôi không dám cãi rằng chuyện ấy rất có thể sẽ kết thúc bằng một điều bất hạnh. Râu Đỏ muốn phái một viên xenturion(7) mang tới cho anh ta lời khuyên bằng hữu, khuyên anh ta hãy tự mở phanh mạch máu mình ra. (Tiếp kì 4)
Những tên da đen lực lưỡng nhấc kiệu lên, khênh đi, đằng trước là bọn nô lệ được gọi là pedisequi. Suốt một hồi lâu, Petronius im lặng, đưa hai bàn tay thơm mùi mã tiên thảo lên mũi, dường như ông đang cân nhắc điều gì, sau đó ông lên tiếng:
– Cậu chợt nghĩ rằng, nếu như nữ thần rừng của anh không phải là nô tỳ, thì nàng có thể bỏ nhà ông Plauxius sang ở nhà anh. Anh sẽ bao bọc nàng trong tình ái và sẽ vung của cải xung quanh nàng như cậu đã từng làm đối với nàng Khowryzotemix đáng tôn kính của cậu, người mà, nói riêng với anh nhé, cậu cũng đã ngán nàng như nàng ngán cậu vậy.
Markux lắc đầu.
– Không à? – Petronius hỏi – Cùng lắm thì cũng có thể dựa vào hoàng đế, và anh có thể tin rằng, nhờ ảnh hưởng của cậu, gã Râu Đỏ của chúng ta sẽ đứng về phía anh.
– Cậu không hiểu Ligia! – Vinixius đáp
– Vậy thì anh hãy cho phép tôi được hỏi, anh hiểu cô ta chứ? Hiểu bằng cách nhìn à? Anh đã nói chuyện với cô ta chưa nào? Anh đã thổ lộ tình yêu với cô ta rồi chứ?
– Đầu tiên cháu nhìn thấy nàng bên bể nước phun, rồi sau đó cháu còn gặp nàng hai lần nữa. Cậu biết chứ, hồi còn ở nhà ông Aulux, cháu ở trong một vila riêng dành cho khách, cháu cũng không thể ngồi ăn chung với gia đình họ vì tay cháu bị dập thương. Mãi đến buổi tối hôm cháu nói là sẽ ra đi, cháu mới được gặp Ligia trong bữa ăn tối và cháu cũng không thể thốt ra nổi một lời nào với nàng. Cháu phải ngồi nghe ông Aulux kể lể về những chiến công mà ông ta đã lập nên ở Brytania, rồi về sự phá sản của các tiểu trang trại ở Italia. Nói chung, cháu không biết liệu cái ông lão Aulux ấy có biết nói về chuyện gì khác nữa hay không, và cũng xin cậu chớ nghĩ rằng chúng ta sẽ có thể tránh khỏi điều đó, trừ phi cậu muốn nghe nói về tính nhu nhược của thời nay. Trong chuồng của nhà họ có gà gô song họ chẳng giết bao giờ, xuất phát từ nguyên lý là mỗi con gà gô bị thịt sẽ làm gần lại thêm cái ngày tận số của La Mã hùng cường. Lần thứ hai cháu gặp nàng bên cạnh bể chứa nước ngoài vườn, với một cây lau vừa rứt đứt cầm trong tay, nàng nhúng đầu có lá xuống nước và vẩy nước tưới cho những khóm diên vĩ mọc gần đấy. Cậu hãy nhìn đầu gối cháu đây! Thề trên chiếc khiên của Heraklex, cháu xin thưa với cậu rằng, đầu gối cháu không hề run rẩy khi hàng đoàn quân Parlơ vừa hú lên vừa ùa tới các đội quân(1) của chúng cháu, thế mà cháu đã run lên bên cạnh bồn chứa nước ấy. Và bối rối như một thị đồng hãy còn mang bùa khánh(2) trên cổ, cháu chỉ còn biết dùng ánh mắt khẩn cầu tình thương, mà rất lâu không thốt ra nổi một lời.
Petronius nhìn chàng với một vẻ gần như ghen tỵ:
– Sung sướng thay! – ông nói – Dù thế giới, dù cuộc đời có tệ hại đến đâu đi nữa, trong đó vẫn còn có một điều tốt lành vĩnh hằng: tuổi thanh xuân.
Rồi một lát sau ông hỏi:
– Thế anh không nói gì với nàng ư?
– Có chứ ạ! Sau khi hơi định thần lại, cháu nói rằng cháu vừa từ châu Á trở về, rằng cháu bị dập thương cánh tay ở ngay cạnh thành đô và đau đớn vô cùng, song đến lúc phải từ giã ngôi nhà hiếu khách này cháu mới hiểu được ra rằng, tại đây, sự đau đớn còn giá trị hơn nhiều so với lạc thú nơi khác, và bệnh tật còn đáng quý hơn nhiều so với sức khỏe ở chốn khác. Nghe những lời cháu nói nàng cũng bối rối, và cúi đầu xuống, nàng dùng ngọn lau vẽ gì đó lên mặt cát vàng. Rồi nàng đưa mắt nhìn những hình vẽ ấy một lần nữa, rồi nhìn cháu, dường như muốn hỏi điều chi đó, và bỗng nhiên nàng bỏ chạy như một nàng tiên chạy trốn thần Đồng Nội ngẩn ngơ.
– Hẳn mẳt nàng đẹp lắm?
– Hệt như biển vậy, thưa cậu, còn cháu thì chìm trong mắt nàng như chìm trong biển vậy. Xin cậu hãy tin lời cháu, Arkhipelag còn kém thẳm xanh hơn. Một lát sau, thằng bé Plauxius chạy tới hỏi điều gì đó, song cháu không sao hiểu được là nó muốn hỏi gì.
– Hỡi nữ thần Atena! – Petronius thốt lên – xin hãy tháo gỡ cho đứa trẻ này mảnh băng bịt mắt mà thần ái tình Erox đã buộc vào, bằng không nó sẽ bị va vỡ đầu vào cột đền thờ nữ thần Venux mất thôi.
Rồi ông quay sang Vinixius:
– Còn anh, hỡi cái chồi xuân trên cây đời, hỡi cái lộc nõn đầu tiên của dây nho! Thay vì đến nhà Plauxius, lẽ ra ta phải mang anh đến nhà Galoxius, nơi có trường dậy dỗ những đứa trẻ chưa hiểu mùi đời.
– Cậu muốn gì vậy?
– Thế nàng vẽ cái gì trên mặt cát? Có phải tên của thần tình ái Amor, hay một trái tim bị mũi tên xuyên thủng, hay một cái gì đó khiến anh có thể hiểu được rằng các vị đương thần Xatyr đã thì thầm vào tai nàng tiên nữ ấy những điều bí mật của cuộc đời rồi? Sao anh lại có thể không nhìn những hình vẽ ấy cơ chứ?
– Cháu đã khoác áo toga sớm hơn là cậu nghĩ cơ đấy, – Vinixius đáp – và trước khi thằng bé Aulux chạy tới, cháu đã chăm chú ngắm nghía những đường nét kia, vì cháu biết rằng, ở Hy Lạp cũng như ở La Mã, không ít nàng trinh nữ thường vạch lên cát lời thổ lộ mà môi họ không muốn thốt ra… Song cậu hãy đoán thử xem nàng đã vẽ gì nào?
– Nếu như là cái gì khác những điều cậu nghĩ thì cậu xin chịu.
– Một con cá.
– Anh nói sao?
– Cháu nói: một con cá! Phải chăng điều đó có nghĩa là cho tới nay trong huyết quản nàng chỉ tuần hoàn rặt một thứ máu lạnh thì cháu không rõ. Hẳn là cậu, người vừa gọi cháu là cái chồi xuân trên cây đời biết cách hiểu rõ hơn cháu cái dấu hiệu này.
– Anh cháu thân yêu ơi(3)! Chuyện đó thì phải hỏi Plinius! Ông ta vốn sành về cá mà. Giá như cụ Apixius còn sống thì hẳn cụ già cũng có thể mách bảo anh đôi điều về chuyện ấy, vì rằng trong đời mình, cụ đã từng xơi một số cá nhiều hơn số cá có thể chứa trong vịnh Neapon.
Đến đây câu chuyện bị gián đoạn, bởi họ được kiệu qua những phố xá tấp nập, ồn ào cản trở câu chuyện. Qua Vieux Apolinix, họ rẽ sang Forum Romanum, nơi trong những ngày đẹp trời, trước khi mặt trời lặn, tụ tập đủ mọi dân tộc để dạo chơi giữa các hàng cột, kể hoặc hóng nghe tin tức thời sự, ngắm nhìn những chiếc kiệu với những nhân vật nổi tiếng được cáng qua, rồi ghé thăm các hiệu kim hoàn, các hiệu sách, các hiệu đổi tiền, hiệu đồ đồng cùng tất cả những cửa hiệu khác, vô số cửa hiệu trong các ngôi nhà chiếm một phần của Bãi Chợ đối diện với đồi Kapitol. Một nửa Forum nằm ngay dưới chân cung điện đã ngập trong bóng râm, song những hàng cột của các đền đài phía trên hãy còn đang rực lên trong ánh mặt trời trên nền trời xanh màu thanh thiên. Những đền đài nằm thấp hơn trải bóng râm lên những phiến đá cẩm thạch. Khắp nơi nhan nhản đền thờ, đến nỗi mắt người lạc trong ấy như lạc giữa rừng. Các ngôi đền và những hàng cột ấy dường như đang chen chúc nhau, chồng chất lên nhau, né sang trái sang phải, chòi lên đồi, ép sát vào bờ tường lâu đài hoặc ép vào nhau, trông giống như những thân cây cao và thấp; to và mảnh; vàng và trắng; cái cuộn theo kiểu lon, cái được kết thúc bằng một khối vuông giản dị kiểu Đoryx. Trên cả khu rừng ấy lấp lánh những bản triglif nhiều mầu sắc, từ dưới các xà mái nhô ra hình tạc các vị thần; trên đỉnh, những cỗ xe có cánh bằng vàng trông như đang muốn lao lên khoảng không, lao vào cái màu thanh thiên thanh bình đang treo lơ lửng trên thành phố chật ních những đền đài nọ. Ở giữa Bãi Chợ và viền quanh nó là cả một dòng sông người: những đám người ngồi trên các bậc thềm của đền thờ hai anh em thần Kaxtor và Ponlukx, những đám người đi dạo dưới các vòm của đền thờ Juliux Xezar, lượn quanh đền thờ của nữ thần Vexta; trên cái phông khổng lồ bằng cẩm thạch này, nom hệt như những đàn bướm hay bọ sừng đông nghìn nghịt. Từ phía trên cao, từ phía thánh đường thờ Jovi Optimo Maximo, qua những bậc thềm đồ sộ đang tràn về đây những làn sóng người mới; bên các diễn đàn người ta lắng nghe những diễn giả ngẫu nhiên nào đó diễn thuyết; đây đó dậy lên tiếng rao hàng của bọn buôn hoa quả, bọn bán rượu nho hay thức uống có pha nước quả vả, tiếng bọn lừa đảo đang mời mọc người mua những loại thần dược; tiếng lũ thầy bói, tiếng bọn thầy địa lý chuyên dò kho của ngầm và tiếng bọn thầy bói chuyên đoán mộng. Đây đó xen giữa những hỗn âm của những lời trò chuyện và tiếng gọi nhau, vang lên những thanh âm của đàn xixtrum xambux của Ai Cập hoặc tiếng sáo Hy Lạp. Nơi này nơi khác, những con bệnh thành kính hoặc ưu phiền, đang mang lễ vật tới tế hiến các đền thờ. Chen lấn giữa đám người, trên những phiến đá lát, những đàn bồ câu nom giống như các vết sẫm nhiều màu sắc, linh động, đang thèm thuồng nhặt ngũ cốc mà người ta ném cho, thỉnh thoảng lại ồn ã đập cánh bay vụt lên để rồi lại sà xuống những khoảng thưa người. Đôi lúc, đám người dạt ra trước những chiếc kiệu, trong đó có thể thấy những khuôn mặt đàn bà trang nhã hoặc đầu của các nguyên lão và các hiệp sĩ với những đường nét đã bị cuộc đời hủy hoại khiến cho méo mó đi. Đám dân chúng gồm nhiều dân tộc khác nhau tên họ kèm theo cả biệt danh, với lời nhạo báng hay câu ca tụng. Thỉnh thoảng, xuyên qua những đám người hỗn độn ấy lại có các toán binh lính đang bước đều hay những đội vigin canh giữ trật tự công cộng. Bốn chung quanh, có thể nghe thấy tiếng Hy Lạp cũng nhiều như tiếng Latinh.
Vinixius, người xa thành phố đã lâu, thú vị nhìn ngắm cái quần hợp nọ của loài người bên cái Forum Romanum vừa như đang ngự trị trên những làn sóng của thế giới vừa như bị chìm ngập trong những làn sóng ấy, khiến ông Petronius đoán được ý nghĩa của chàng nên gọi đó là “cái tổ của dân Quiryt không có mặt dân Quiryt”(4). Quả vậy, cư dân bản xứ hầu như biến mất trong cái đám người gồm hết thảy mọi chủng người và đủ loại dân tộc này. Ở đây thấy có cả người Êtiopi, lẫn những người cao lớn tóc màu sáng từ phương bắc xa xôi – người Brytania, người Gan và người German. Có cả các cư dân mắt xếch của Xericum, lẫn những người từ Eufrat và từ Ind với bộ râu cằm nhuộm ngả sang màu gạch: có cả người xứ Xiry từ bờ Oront với những cặp mắt đen huyền dịu ngọt, lẫn những cư dân khô khẳng như xương của các sa mạc A Rập, người Do Thái với bộ ngực lép, người Ai cập với nụ cười thản nhiên muôn thuở trên nét mặt cùng người Numidi và người Afri; có người Hy Lạp từ Helađa, những người bình quyền với dân La Mã trong việc cai trị thành bang nhưng lại nắm thêm cả khoa học, nghệ thuật, trí thông minh lẫn thói quỷ quyệt: có người Hy Lạp từ vùng đảo và từ Tiểu Á, từ Ai Cập và từ Italia, từ mãi xứ Galia Narbonxka về. Giữa đám nô lệ dái tai bị đục lỗ, không thiếu mặt đám dân tự do và rỗng tuếch mà hoàng đế đùa bỡn, nuôi ăn và thậm chí sắm mặc, cùng những lữ khách tự do bị sự dễ dãi của đời sống và viễn ảnh tiền tài lôi kéo tới cái thành bang khổng lồ này, không thiếu bọn chuyên mua đi bán lại cùng các giáo sĩ Xerapix với nhành lá cọ trong tay, các thầy tu thờ nữ thần Izyđa, vị thần được người ta hiến tế nhiều hơn cả thần Jupiter Kapiton, có các tín đồ Kibela cầm nhánh lúa vàng, cả tín đồ của những vị thần lang thang, có các vũ nữ phương đông đội những chiếc mũ sặc sỡ, có những kẻ bán bùa phép cùng những người thổi kèn gọi rắn, có các thầy phù thủy Khanđeya, và cuối cùng là bọn vô nghề nghiệp, cứ hàng tuần lại kéo tới các vựa lúa thành Roma để kiếm ngũ cốc, choảng nhau vì vé xổ số trong hí trường, trú đêm trong những căn nhà không ngừng sụp đổ ở các khu phố bên kia sông Tyber, còn những ngày nắng ấm thì ngụ trong các tầng hầm ngoại vi, trong những tửu quán tồi tàn bẩn thỉu của khu Xubura, trên cầu Milviux hay trước dinh thự của những người giàu có, nơi thi thoảng người ta vứt ra cho chúng những thức ăn thừa trên bàn ăn của đám nô lệ.
Những đám đông ấy biết rõ Petronius. Tai Vinixius nghe không ngớt những tiếng: “Hie est” – “Ông ta đấy”. Người ta thích ông vì tính hào phóng, và ông đặc biệt nổi tiếng khi người ta biết rằng ông đã lên tiếng trước mặt hoàng đế để chống lại án tử hình dành cho đám gia nô – nghĩa là toàn bộ nô lệ không phân biệt giới tính và tuổi tác – nhà quan Penđanius Xekunđa, chỉ vì một người trong bọn họ, trong một phút tuyệt vọng, đã giết chết gã chủ tàn bạo nọ. Mặc dù Petronius đã lớn tiếng nhắc đi nhắc lại rằng với ông chuyện đó chẳng hề có chút nghĩa lý gì, rằng ông nói chuyện với hoàng đế một cách hoàn toàn riêng tư, chỉ với cương vị arbiter elegantiarum, người mà mĩ cảm bị phẫn nộ bởi hành vi giết chóc man rợ nọ, hành vi chỉ có thể xứng đáng với bọn Xkyth nào đó chứ không xứng với người La Mã. Tuy vậy, kể từ lúc ấy dân chúng, vốn phẫn nộ vì vụ hành quyết ấy, vẫn yêu mến Petronius.
Song ông không mảy may quan tâm tới tình cảm đó. Ông vẫn luôn nhớ rằng, công chúng cũng đã từng yêu mến cả Brytanik, người đã bị Nerô đánh thuốc độc lẫn Agrypina – người đã bị y ra lệnh hạ sát, cả Oktavia – người đã bị bóp chết tại Panđataria sau khi bị phanh mạch máu ra trong làn hơi nóng bỏng, cả Rubenius Plautô – người đã bị đày biệt xứ, và cả Trazeas – người mà chưa biết ngày nào người ta sẽ mang tới cho bản án tử hình. Có lẽ nên coi tình yêu mến của dân chúng là một điềm gở, mà tuy là người hay phê phán nhưng Petronius lại mê tín. Ông bỉ báng đám dân chúng gấp đôi: với tư cách là một nhà quý tộc và với tư cách một nhà thẩm mỹ. Những kẻ luôn toát ra nồng nặc mùi đậu rang mà họ mang trong hầu bao, những kẻ lúc nào cũng khản tiếng và đẫm mồ hôi vì chơi trò đoán ngón tay ăn tiền ở các góc phố và các sân sau trong mắt ông không đáng được gọi là người.
Hoàn toàn không thèm đáp lại những tiếng hoan hô cùng những nụ hôn gió mà người ta gửi cho ông từ bốn xung quanh, ông kể cho Markux nghe chuyện Peđanius, nhân đó giễu cợt luôn sự thay đổi như con quay của bọn hạ lưu đường phố, ngay hôm sau vụ phẫn nộ ghê gớm ấy đã nhiệt thành hoan hô Nerô khi hắn đi tới đền thờ Jupiter Xlator.
Đến trước hiệu sách Avirunux, ông ta lệnh dừng kiệu lại, và bước xuống kiệu, ông mua một bản chép tay trang trí rất đẹp đưa cho Vinixius.
– Đây là quà tặng anh, – ông nói.
– Xin đa tạ cậu! – Vinixius đáp. Rồi nhìn nhan đề, chàng hỏi: – Salyricon? Sách mới đây, của ai thế thưa cậu?
– Của cậu đấy. Nhưng cậu không muốn đi theo vết Rufinux, người mà cậu đã hứa là sẽ kể chuyện cho anh nghe, cũng không muốn theo vết Fabryxius Veyento, vì thế nên chẳng ai biết được điều ấy, còn anh cũng chớ nói với ai nhé.
– Cậu bảo là cậu không làm thơ nữa, – Vinixius vừa liếc qua ruột sách vừa nói, – ấy vậy mà ở đây cháu lại thấy văn xuôi ken đầy những dòng thơ.
– Nếu anh đọc thì anh hãy chú ý đến bữa tiệc Trymalkhion. Còn nếu nói về thơ thì cậu tởm thơ từ khi Nerô bắt đầu viết anh hùng ca. Anh biết đấy, muốn được nôn cho nhẹ người, Vetelius đã dùng đũa ngà ngoáy vào cuống họng, những kẻ khác thì dùng lông chim hồng hạc nhúng dầu ô liu hay nước sắc cây tử mẫu, còn cậu thì cậu chỉ cần đọc thơ Nerô là có hiệu quả ngay tức khắc. Rồi sau đó, cậu có thể ngợi ca thứ thơ đó, nếu như không phải với một lương tâm trong sạch thì cũng là với một cái dạ dày sạch sẽ.
Nói đến đây, ông cho dừng kiệu trước hiệu kim hoàn của lão Idomen, và sau khi giải quyết xong chuyện mấy viên ngọc chạm, ông ra lệnh cáng thẳng tới nhà ông Aulux.
– Dọc đường cậu sẽ kể anh nghe chuyện Rufinux để minh chứng cho anh thế nào là lòng tự tôn của tác giả, – ông nói.
Song ông chưa kịp bắt đầu kể thì họ đã rẽ sang Vieux Patrixius và lát sau đã tới trước cửa nhà Aulux. Một tên nô lệ trẻ tuổi và lực lưỡng mở cánh cổng dẫn vào gian tiền sảnh, trên cổng, con chim khách bị nhốt trong lồng the thé kêu lên đón họ: “Salve”(5)
Trên đường từ hiên trong – được gọi là ostium – vào chính sảnh, Vinixius hỏi:
– Cậu có để ý thấy tên gác cổng ở đây không bị xích hay không?
– Một cái nhà lạ lùng, – Petronius thấp giọng đáp. – Chắc anh biết rằng người ta ngờ bà Pomponia Grexyna tin theo một thứ tín ngưỡng đông phương, thờ một tay Crextox nào đó. Hình như chính ả Kryxpinila đã góp tay vào chuyện đó. Ả ta không thể nào tha thứ nổi cho bà Pomponia cái tội là chỉ có mỗi đức ông chồng mà cũng đủ cho bà ta suốt đời. Univiva(6)! … Ngày nay, ở La Mã, tìm một đĩa nấm sữa xứ Noricum còn dễ dàng hơn! Bà ta đã bị tòa án gia tộc xử…
– Cậu nói phải, quả là một cái nhà kì dị. Để rồi cháu sẽ kể cậu nghe những gì cháu đã được nghe và thấy nơi đây.
Lúc này, họ đã vào tới gian chính sảnh thông thiên. Tên nô lệ trông coi phòng này – được gọi là atriensis – phái viên xướng danh đi báo tin khách đến, còn đám tôi tớ thì đẩy tới cho họ những chiếc ghế ngồi cùng các đôn đặt chân. Petronius, vốn chưa hề đặt chân tới đây và đinh ninh rằng trong ngôi nhà khô khan này hẳn bao giờ cũng bao trùm một sự buồn tẻ vĩnh cửu, lúc này ngắm nhìn chung quanh với vẻ ngạc nhiên có nhuốm phần thất vọng, bởi gian phòng này lại gây cho người ta cảm giác vui tươi. Từ phía trên cao, qua một lỗ thông thiên lớn, một luồng ánh sáng rực rỡ chiếu xuống, vỡ ra thành hàng ngàn tia lửa trên đài nước phun. Một cái bể vuông vắn có vòi nước phun ở giữa – được gọi là impluvium – dùng để hứng nước mưa rơi qua lỗ thông thiên trong những ngày xấu trời, được viền quanh bằng những khóm thu mẫu đơn và huệ. Đặc biệt, hẳn là trong nhà này huệ rất được ưa chuộng, bởi chúng mọc thành những khóm lớn, cùng với những bụi diên vĩ màu trắng, màu đỏ và cả màu ngọc lam, với những cánh hoa tinh tế dường như được làn bụi nước dát bạc. Giữa những đám rêu ẩm ướt trong đó giấu kín các chậu huệ, giữa các vòm lá, ẩn hiện những pho tượng đồng tạc hình trẻ con và các loài thủy cầm. Trong một góc, một con nai cũng bằng đồng nghiêng cái đầu xanh màu gỉ đồng xuống nước như đang muốn uống. Sàn nhà trong gian chính sảnh được trang trí hoa văn, còn các bức tường thì một phần được ghép bằng cẩm thạch đỏ, một phần được vẽ hình cây cối, chim cá cùng thiên sứ, hấp dẫn mắt nhìn bởi sự phối trí hài hòa của màu sắc. Khung cửa dẫn sang các gian bên cạnh được trang trí bằng vỏ đồi mồi, thậm chí bằng cả ngà voi nữa. Giữa các cửa, dọc theo các bức tường, là tượng các vị tổ tiên của ông Aulux. Khắp nơi đều lộ rõ vẻ sung túc thanh bình không xa hoa mà thanh cao và đầy tự tin.
Mặc dù sống trong cảnh lộng lẫy và trang nhã hơn nhiều, song Petronius vẫn không sao tìm được ở đây một thứ gì có thể khiến ông không vừa ý. Ông quay sang định trao đổi điều đó với Vinixius thì vừa hay một tên nô lệ – velarius – kéo tấm rèm che giữa chính sảnh với văn phòng, và từ trong nhà hiện ra ông Aulux Plaxius đang vội vã bước tới.
Đó là một người đang tiến gần tới những ngày mãn chiều xế bóng của cộc đời, với mái đầu điểm màu sương, nhưng vẫn còn khoẻ mạnh, với khuôn mặt đầy nghị lực, hơi ngắn, song cũng hơi giống một cái đầu chim đại bàng. Lúc này, trên nét mặt ông lộ vẻ ngạc nhiên, thậm chí lo lắng về cuộc viếng thăm bất ngờ của người bạn, kẻ thân cận và tin cẩn của Nerô.
Là người rất hiểu biết và sắc sảo, Petronius lập tức nhận ra điều đó, nên ngay sau những lời thăm hỏi xã giao đầu tiên, ông liền nói với vẻ hùng hồn và khoáng đạt rất xứng với ông, rằng ông đến đây chỉ để đa tạ sự chăm sóc mà con trai người chị ruột của ông đã được hưởng trong ngôi nhà này, rằng nguyên do duy nhất của cuộc viếng thăm này là lòng biết ơn, thêm vào đó là tình quen biết từ lâu với ông Aulux.
Về phía mình, ông Aulux khẳng định rằng Petronius là một vị khách quí, còn nếu nói về lòng biết ơn, thì chính ông mới là kẻ phải hàm ơn, mặc dù có lẽ Petronius hẳn không đoán ra được lý do của sự biết ơn ấy.
Quả thực, Petronius không sao đoán ra. Ngước đôi mắt màu hạt dẻ lên trời, ông cố gắng nhớ lại một điều gì đó mình đã làm giúp ông Aulux hoặc một người nào khác, song ông chẳng nhớ ra một điều gì cả, có chăng là chuyện mà ông định nói với Vixinius. Dĩ nhiên, dù ông không chủ tâm thì cũng rất có thể là đã có một chuyện gì đó xảy ra, nhưng nói cho cùng đó chỉ là chuyện mà ông hoàn toàn không chú ý.
– Tôi rất quý trọng và đánh giá cao Vezpazian, – ông Aulux nói, – người mà ngài đã cứu mạng cái lần mà chẳng may anh ta thiếp đi trong lúc đang nghe thơ của hoàng đế.
– Thế là may cho anh ta đấy, – Petronius đáp – vì anh ta không phải nghe những bài thơ ấy, mặc dù tôi không dám cãi rằng chuyện ấy rất có thể sẽ kết thúc bằng một điều bất hạnh. Râu Đỏ muốn phái một viên xenturion(7) mang tới cho anh ta lời khuyên bằng hữu, khuyên anh ta hãy tự mở phanh mạch máu mình ra.
– Còn ngài, thưa ngài Petronius, ngài đã cười giễu hoàng thượng.
– Đúng vậy, mà chính ra thì ngược lại: tôi bảo với hoàng thượng rằng, nếu như chàng Orfeus biết dùng tiếng ca để ru ngủ những loài dã thú, thì sự thắng lợi của hoàng đế cũng chẳng kém nào, bởi người đã ru ngủ được Vexpazian. Có thể phê phán Ahenobarbux, với điều kiện là trong một lời chỉ trích nhỏ phải chứa đựng một điều tán tụng lớn. Auguxta(8) của chúng ta, nàng Poppea, thì hẳn là người thấu hiểu điều đó một cách tuyệt diệu.
(Còn tiếp)
(Nguồn VNTQ)