
Người dịch: Ngô vĩnh Viễn & Bùi Phụng
“Al lahhh!” khi bọn hải tặc tràn lên mép tàu của anh. Chúng được vũ trang bằng kiếm và hoả mai. Anh đã tập hợp đồng đội của mình,và cuộc tấn công thứ nhất bị đẩy lùi, nhưng cuộc tấn công thứ hai đã đè bẹp họ và anh đã quyết định thà chết còn hơn bị đưa lên thuyền địch. Anh luôn khiếp sợ bị bắt sống và phải làm nô lệ chèo galleon – chuyện bình thường đối với người đi biển bị bắt.
Khi kho thuốc súng nổ, sự chấn động đã xé rách đáy tàu của anh và làm hư hỏng một phần con thuyền galleon. Trong lúc lộn xộn, anh đã bơi được tới sà-lúp và trốn thoát cùng bốn người trong đoàn thủy thủ. Những người không bơi được tới chỗ anh, anh đành phải từ bỏ họ và anh vẫn còn nhớ những tiếng kêu cứu, gọi tên Chúa của họ.
Nhưng hôm ấy, Chúa đã quay mặt khỏi những con người đó. Bởi vậy họ đã chết hoặc bị bắt làm nô lệ chèo thuyền. Và Chúa đã quay bộ mặt của Người về phía Blackthorne và bốn người. Họ đã tới được Cagliari (Một cảng ở Ý, thủ đô của Sadinia, trên bờ biển miền Nam ) ở Sacdinia. Từ đó họ lần đường về, không một xu dính túi.
Chuyện đó cách đây tám năm. Cũng năm ấy, nạn dịch lại bùng nổ. Dịch, đói và nổi loạn của những người thất nghiệp chết đói. Em trai cùng gia đình đã bị chết . Đứa con trai đầu lòng của anh cũng chết. Nhưng đến mùa đông, nạn dịch hết, anh dễ dàng kiếm được một con tàu mới và ra biển để dựng lại cơ đồ.
Thoạt tiên cho Công ty thương mại Bacbari Anh. Rồi một chuyến đi tới miền Tây Ấn Độ săn người Spain. Sau đó, giàu hơn một chút, anh đi biển cho Kees Veerman, người Holland trong chuyến đi thứ hai, tìm một lối đi Đông Bắc huyền thoại tới Cathay và những hòn đảo Hương liệu của châu Á mà người ta cho là tồn tại ở Biển Băng, phía Bắc của nước Nga Sa hoàng. Họ tìm kiếm trong hai năm rồi Kees Veerman chết ở vùng biển Bắc Cực với tám mươi phần trăm thủy thủ đoàn.
Blackthorne quay trở lại, dẫn những người còn lại về nhà. Rồi, ba năm trước đây, anh đã được Công ty Đông Ấn – Holland mới thành lập đến yêu cầu dẫn đoàn thám hiểm đầu tiên của họ tới Tân Thế Giới.
Họ thì thầm bí mật là đã có được, với tổn phí khổng lồ, một hải trình lậu của Portugal, mà người ta cho là đã tìm được những bí mật của eo Magellan và họ muốn chứng minh điều đó. Tất nhiên lái buôn Holland thích dùng một trong những hoa tiêu của họ hơn, nhưng không một người nào có thể so sánh được về chất lượng với những người Anh đã được Tritiny House độc quyền đào tạo và cái giá trị ghê gớm của hải trình này buộc họ phải đánh bạc với Blackthorne.
Nhưng là một lựa chọn hoàn hảo: anh là một hoa tiêu theo đạo Tin Lành tốt nhất hiện nay, mẹ anh là người Holland và anh nói tiếng Holland thông thạo. Blackthorne đã hăng hái nhận lời và nhận mười lăm phần trăm tổng số tiền lợi tức, và theo phong tục, anh đã long trọng thề trước Chúa, trung thành với Công ty, thề đưa hạm đội đi và mang nó trở về.
Lạy Chúa tôi, mình sẽ đem con tàu Erasmus về, Blackthorne nghĩ. Và cùng với những người còn sống. Lúc này họ đang đi qua quảng trường, anh rời mắt khỏi con tàu nô lệ và thấy ba Samurai gác nắp hầm. Họ đang ăn bằng bát và đũa gỗ một các khéo léo, Blackthorne đã thấy họ dùng nhiều lần nhưng mình thì không làm được.
“Omi-san!” , anh ra hiệu muốn tới nắp hầm, chỉ để hét một tiếng xuống cho các bạn. Chỉ một giây lát thôi.
Nhưng Omi lắc đầu, nói điều gì anh không hiểu và tiếp tục đi, xuống phần đất bồi, qua cái vạc, đi tiếp tới cầu tàu. Blackthorne ngoan ngoãn đi theo. Mỗi lần một thứ thôi, anh tự nhủ. Hãy kiên nhẫn.
Khi tới cầu tàu Omi quay lại, gọi những người gác ở nắp hầm, Blackthorne thấy họ mở nắp hầm và nhìn xuống. Một người vẫy gọi, những người làng lấy thang và một tha, tng nước mới khiêng xuống. .Họ khiêng lên chiếc thùng không. Và cả thùng vệ sinh nữa.
Đó! Nếu mình kiên nhẫn và chơi ván bài của họ với quy luật của họ, mình có thể giúp đỡ đồng đội của mình, anh hài lòng nghĩ như vậy. Nhiều nhóm Samurai đứng tụ tập gần thuyền galleon. Một ông già cao lớn đứng tách riêng. Xét ở sự kính trọng mà cái lão Daimyo Yabu để lộ ra, cái cách những người khác nhảy dựng lên mỗi khi ông ta làm điều gì nhỏ nhất, Blackthorne lập tức nhận ra tầm quan trọng của ông ta. Ông ta có phải là vua của họ không? anh tự hỏi. Omi khúm núm quỳ. Ông già hơi cúi chào, đưa mắt nhìn anh.
Cố gắng lẩm bẩm thật nhẹ nhàng, Blackthorne quỳ và đặt hai tay xuống cát như Omi đã làm, cúi chào thấp như Omi.
“Konnichi wa, Sama”, anh nói lễ độ.
Anh lại thấy ông già khẽ cúi chào.
Giờ đây có cuộc đối thoại giữa Yabu, ông già và Omi. Yabu nói với Mura.
Mura chỉ vào chiếc galleon:
“Anjin-san, tới đó.”
“Tại sao?”
“Đi! Nào, đi!”
Blackthorne thấy nỗi kinh hoàng tăng lên:
“Tại sao?”
“Isogi!” Omi ra lệnh, vẫy tay vè phía thuyền galleon.
“Không, tôi không…”
Tức khắc theo lệnh của Omi, bốn Samurai lao vào Blackthorne, tóm chặt hai cánh tay anh. Mura đưa ra cuộn dây thừng và trói giật tay anh lại sau.
“Đồ con hoang!” Blackthorne thét lên.
“Tao không lên cái con tàu nô lệ bị Chúa nguyền rủa đó!”
“Mẹ kiếp! Để nó đấy! Này, lũ khỉ uống nước tè kia, buông cái thằng con hoang ấy ra! Kinjiru, neh? Nó là hoa tiêu phải không? Anjin, ka?”
Blackthorne hầu như không tin được tai mình. Tiếng chửi mắng ồn ào bằng tiếng Portugal từ boong tàu galleon phát ra.
Rồi anh thấy người đàn ông đó đi xuống. Cũng cao lớn như anh và trạc tuổi anh nhưng tóc đen, mắt đen, mặc quần áo thuỷ thủ một cách cẩu thả, thanh trường kiếm giắt một bên, mấy khẩu súng lục giắt thắt lưng. Một cây thánh giá nạm đá quý đeo ở cổ. Anh ta đội chiếc mũ cát, miệng cười toác:
“Có phải anh là hoa tiêu không? Hoa tiêu Holland?”
“Đúng”, Blackthorne trả lôi.
“Tốt. Tốt. Tôi là Vasco Rodrigues, hoa tiêu của tàu galleon này!”
Anh ta quay sang phía ông già, nói tiếng Nhật tiếng Bồ lung tung cả lên, gọi ông già là Monkey Sama (Ngài Khỉ) thỉnh thoảng là Toda Sama, nhưng cách phát âm nghe như Toady Sama (Ngài Cóc cụ). Hai lần anh ta rút súng chỉ vào Blackthorne rồi lại nhét vào thắt lưng, tiếng Nhật của anh ta pha âm sắc rất nặng của tiếng thông tục Portugal mà chỉ những người đi trên biển mới hiểu.
Hiromatsu nói ngắn gọn, bọn Samurai buông Blackthorne ra, Mura cởi trói cho anh.
“Như vậy tốt hơn. Này, hoa tiêu, con người này như một ông vua. Tớ bảo ông ta tớ chịu trách nhiệm về cậu, tớ sẽ bắn bể sọ cậu nếu cậu say!” Rodrigues cúi chào Hiromatsu , rồi hớn hở nhìn Blackthorne:
“Cúi chào Bastard Sama (Ngài Con hoang) đi.”
Như trong mơ, Blackthorne làm theo.
“Cậu làm giống như một thằng Nhật”, Rodrigues nói với nụ cười nhăn nhở.” Cậu thực là hoa tiêu chứ?”
“Vĩ độ của Lizard là bao nhiêu?” (Mỏm ở Tây Nam England, ở Tây Nam Cornwall)
“Bốn mươi chín độ, năm mươi sáu phút Bắc – phải coi chừng đá ngầm ở New và Tây New.”
“Lạy Chúa, cậu là hoa tiêu!” Rodrigues nồng nhiệt bắt tay Blackthorne.
“Lên tàu. Có thức ăn, rượu mạnh, rượu vang, rượu grộc và tất cả các hoa tiêu đều phải yêu hoa tiêu, tinh trùng của trái đất, Amen! Đúng không?”
“Đúng”, Blackthorne nói yếu ớt.
“Khi tớ nghe nói bọn này sẽ mang một hoa tiêu về, tớ nói tốt. Đã bao nhiêu năm nay tớ chưa có cái sung sướng được nói chuyện với một hoa tiêu thứ thiệt. Lên tàu đi. Làm thế nào các cậu lên qua Malasca được vậy? Làm sao cậu có thể tránh được sự tuần tiễu Đại Dương Ấn Độ của bọn mình, hả? Cậu đã ăn cắp hải trình của ai vậy?”
“Các cậu mang mình đi đâu?”
“Osaka. Chính Chúa Công Hành Pháp Vĩ Đại muốn gặp cậu.”
Blackthorne cảm thấy nỗi kinh hoàng trở lại.
“Ai?”
“Toranaga! Chúa của tám tỉnh, chẳng hiểu chúng ở cái chỗ chết tiệt nào! Vị Daimyo chính của Nhật Bản-một Daimyo như một ông vua hoặc Chúa phong kiến nhưng lại ghê hơn. Tất cả bọn chúng đều là bạo quân.”
“Ông ta muốn ở gì tớ?”
“Tớ cũng không biết, nhưng chính vì thế mà chúng tớ đến đây và nếu Toranaga muốn gặp cậu, hoa tiêu ạ, ông ta sẽ gặp cậu. Họ nói, ông ta có hàng triệu tên cuồng tín mắt lé này, những kẻ sẽ chết vì được vinh dự chùi đít cho ông ta nếu ông ta thích!
“Toranaga muốn đem người hoa tiêu về,
“Vasco, phiên dịch của anh ta đã nói. Mang người hoa tiêu và hàng hóa về. Đưa Toda Hiromatsu đi để xem tàu và – ồ đúng rồi, hoa tiêu, tất cả đều bị tịch thu, tớ nghe thấy thế, tàu của cậu và mọi thứ trong đó!”
“Tịch thu?”
“Có thể là tin đồn. Bọn Nhật đôi khi tay này thì tịch thu, tay kia thì trả lại – hay giả vờ là họ không bao giờ ra lệnh như thế. Thật là khó hiểu cái lũ con hoang lùn mắc dịch này!”
Blackthorne cảm thấy những con mắt lạnh lùng của những người Nhật xoáy vào mình, anh cố gắng giấu sự sợ hãi của mình.
Rodrigues dõi theo cái nhìn của anh.” Phải, chúng nó đã bồn chồn rồi đó. Thời gian nói chuyện đủ rồi. Lên tàu đi.” Anh ta quay đi nhưng Blackthorne ngăn lại.
“Còn bạn của mình, thủy thủ của mình thì sao?”
“Hả?”
Blackthorne kể cho anh ta nghe ngắn gọn về cái hầm. Rodrigues hỏi Omi bằng thứ tiếng Nhật bồi.
“Nó nói họ không sao đâu. Này, bây giờ cả cậu lẫn mình đều không thể làm gì được đâu. Cậu phải đợi thôi – cậu không bao giờ có thể nói nổi một tên Nhật đâu. Chúng có sáu mặt, ba lòng.” Rodrigues chào Hiromatsu như một cận thần Châu Âu.
“Đây là cách thức chúng tớ làm ở Nhật Bản. Y như ở triều đình gian dâm Philip II vậy, Chúa hãy đem cái thằng Spain đó tới mồ sớm.” Anh ta dẫn đường lên sàn tàu trước sự ngạc nhiên của Blackthorne, không có dây xích, cũng không có nô lệ.
“Làm sao thế? Cậu ốm à?” Rodrigues hỏi.
“Không. Mình nghĩ đây là một con tàu nô lệ.”
“Ở Nhật Bản không có như vậy. Ở hầm mỏ của họ cũng không có. Lũ điên, nhưng thế đó. Cậu không bao giờ thấy một lũ điên như vậy, mà tớ thì đã đi khắp thế giới ba lần rồi . Bọn tớ có những người chèo thuyền Samurai. Họ là lính, lính của thằng già thủ dâm – mà cậu không bao giờ thấy những tên nô lệ nào chèo thuyền khá hơn, hoặc ai đánh nhau giỏi hơn.” Rodrigues cười.
“Chúng để đít vào mái chèo, tớ đẩy chúng ra xem những thằng thủ dâm này có chảy máu không, chúng không bao giờ rời chỗ. Bọn mình đi từ Osaka – hơn ba trăm dặm đường biển trong bốn mươi tiếng. Bọn mình sắp quăng dây. Cậu chắc không bị sao chứ?”
“Không. Không sao.”
Blackthorne nhìn con tàu Erasmus. Nó bỏ neo cách đó một trăm mã.
“Hoa tiêu ơi, không còn dịp nào lên boong nữa, phải không? Họ không để cho tôi trở lại tàu, tôi không có quần áo, họ đã niêm phong cả lại lúc tôi đến. Cậu làm ơn”
Rodrigues nhìn chăm chú con tàu.
“Cậu mất cột buồm khi nào?”
“Ngay trước khi mình cập bờ ở đây.”
“Vẫn còn cái dự trữ trên boong chứ?”
“Ừ.”
“Cảng xuất phát của nó ở đâu?”
“Rotterdam.”
(Kho tư liệu của Hội NVHP)