Rodrigues lại cười trong khi vẫn chèo.” Nếu sự thật cần được biết, chúng nó cũng làm tớ vãi tiểu! Nhưng nếu cậu muốn giàu nhanh thì cậu phải làm việc với chúng bởi vì cái gì chúng cũng có. Cậu chắc không việc gì chứ?”
“Ừ. Cám ơn. Cậu nói sao? Samurai có tất cả mọi thứ?
“Ừ. Cả nước này bị chẻ thành những đẳng cấp giống như ở Ấn Độ. Samurai đứng đầu, nông dân quan trọng thứ hai”, Rodrigues nhổ toẹt ra ngoài thuyền.” Chỉ nông dân mới có thể có đất. Hiểu không? Nhưng Samurai là chủ mọi sản phẩm. Chúng có tất cả thóc gạo, đó là hoa lợi quan trọng nhất và chúng trao lại một phần cho nông dân. Chỉ Samurai mới được phép mang vũ khí. Bất cứ ai tấn công một Samurai, nếu người đó không phải là
Samurai đều là phản loạn, bị trừng phạt bằng cái chết tức thời. Bất cứ ai thấy một cuộc tấn công như vậy mà không báo cáo ngay cũng phải chịu trách nhiệm tương đương, vợ họ và thậm chí cả con họ nữa. Cả gia đình sẽ bị giết chết nếu một.người không báo cáo chuyện này. Đức Mẹ Đồng Trinh ơi, chúng là lũ quỷ con của Satan, cái bọn Samurai đó! Tớ đã thấy những đứa bế bị băm thành mảnh vụn.” Rodrigues khạc một tiếng và nhổ.
“Cho dù như vậy, mới chỉ là đôi điều cậu biết được, thì đây vẫn là thiên đường trên mặt đất.”
Anh ta lại nhìn về con tàu galleon cho chắc chắn, rồi cười
“Ừ, cậu Ingeles ạ, một con thuyền đi quanh cảng thật không còn gì bằng, hả?”
Blackthorne cười. Năm tháng trôi khỏi con người anh khi anh say mê trong tiếng sóng vỗ, mùi biển mặn, hải âu cất tiếng gọi và bay lượn trên đầu, cảm giác tự do, cảm giác đã tới nơi sau thời gian xa vắng biền biệt.
“Tớ cứ nghĩ cậu không giúp tớ về con tàu Erasmus!”
“Đó là chỗ phiền với tất cả bọn Ingeles. Không có kiên nhẫn. Nghe đây này, ở đây cậu không hỏi bọn Nhật cái gì hết – Samurai hay ai ai nữa, chúng nó cùng một giuộc cả. Cậu mà hỏi, chúng nó sẽ do dự rồi lại hỏi người trên chờ quyết định. Ở đây cậu phải hành động. Tất nhiên, – tiếng cười sảng khoái của anh ta lan trên mặt sóng, – đôi khi cậu bị giết nếu cậu hành động lầm.”
“Cậu chèo giỏi lắm. Trước lúc cậu tới, tớ còn đang lúng túng không biết dùng chèo như thế nào.”
“Cậu không nghĩ tớ để cậu một mình chứ? Tên cậu là gì?”
“Blackthorne. John Blackthorne.”
“Cậu đã bao giờ đến miền Bắc chưa, Ingeles? Đến miền cực Bắc ấy?”
“Tớ đi cùng Kees Veerman trên chiếc Der Lifle tám năm trước đây. Đó là chuyến đi thứ hai của ông tìm con đường Đông Bắc. Sao cơ?”
“Tớ muốn nghe chuyện đó – và tất cả những nơi cậu từng đặt chân đến. Theo cậu, họ có tìm được đường không? Con đường phía Bắc châu Á, Đông hay là Tây?”
“Có chứ. Cậu và khối Spain đều đi lộ trình phía Nam, vì vậy bọn tớ cũng phải thế. Có, chúng mình sẽ tìm thấy. Hoặc những người Holland. Sao cơ?”
“Cậu đã dẫn tàu qua biển Barbary, phải không?”
“Ừ. Sao?”
“Cậu biết cả Tripoli?”
“Hầu hết các hoa tiêu đều đến đó. Sao?”
“Tớ nghĩ tớ đã gặp cậu một lần. Đúng, ở Tripoli. Người ta chỉ cậu cho tớ. Hoa tiêu Ingeles nổi tiếng đi cùng nhà thám hiểm Holland, Kees Veerman vào Biển Băng. Đã có lần cậu là thuyền trưởng với Drake, hả? Ở Amada? Lúc đó cậu bao nhiêu tuổi?”
“Hai mươi tư. Cậu làm gì ở Tripoli lúc đó?”
“Tớ dẫn một tàu từ England. Tàu tớ bị mắc ở Ấn Độ Dương với tên hải tặc Morrow – tên nó là Henry Morrow. Nó đốt tàu của tớ sau khi cướp sạch và đề nghị tớ làm hoa tiêu – người của hắn vô dụng, hắn nói thế – cậu biết nó là thế nào rồi đó. Hắn muốn đi từ đó tóm được bọn tớ bọn tớ đang ở vùng Hispaniola
(Hispaniola hòn đảo lớn thứ hai ở Tây Ấn Độ được Colombo phát hiện năm 1492)
Khi hắn đi về phía Nam Main (một con sông ở Trung và tây Tây Đức) rồi quay lại qua Đại Tây Dương định chặn con tàu Spain chở vàng gần Canari, rồi thẳng qua eo Malacca từ Tripoli, nếu không gặp thì sẽ làm những chuyến khác rồi lại quay về phía bắc tới Anh. Hắn ta đề nghị sẽ thả các chiến hữu của tớ, cho họ thức ăn và thuyền chở về nếu tớ làm với họ. Tớ nói:
“Được chứ, sao lại không? Miễn là chúng ta không lấy tàu Portugal và ông để tôi lên bờ gần Lisbon và đừng ăn cắp hải trình của tôi.”
“Chúng tớ bàn tới bàn lui như thường lệ – cậu biết rồi đấy. Rồi tớ thề trước Đức Mẹ Đồng Trinh, cả hai cùng thề trên thánh giá và thế đó.Bọn tớ có một chuyến đi tốt đẹp và một gã thương nhân Spain béo phệ đã lần được vết của bọn tớ.”
“Khi bọn tớ đi khỏi Lisbon, lão yêu cầu tớ ở lại tàu, đưa cho tớ bức thông điệp bình thường của nữ hoàng Bess, nào là bà sẽ trả một món tiền thật hậu hĩnh cho bất cứ một hoa tiêu Portugal nào về với bà và dạy những người khác kỹ xảo tại Trinity House và cho năm nghìn guineas(đồng tiền vàng của Anh, phát hành từ năm 1813, trị giá 21 shillings) để lấy hải trình của đường Magellan hoặc mũi Hảo Vọng ( Good Hope – mũi ở Tây – Nam Nam Phi phía nam Cape Town)” .
Nụ cười của anh ta rộng mở, răng trắng; và khỏe, hàng ria đen và râu tỉa đẹp đẽ.
“Tôi không có.”
“Ít nhất tớ cũng nói với hắn như thế. Morrow giữ lời, như tất cả hải tặc nên giữ. Hắn cho tớ lên bờ cùng những hải trình của tớ – tất nhiên, hắn đã sao lại chúng mặc dù bản thân hắn không biết đọc, biết viết và hắn cũng chia phần tiền thưởng cho tớ. Cậu có bao giờ đi biển với hắn không, Ingeles?”
“Không. Nữ hoàng phong tước hầu cho ông ấy vài năm trước đây. Tớ chưa bao giờ phục vụ trên một con tàu nào của ông ấy. Tớ cũng mừng là ông ấy tốt với cậu.”
Họ đã tới gần tàu Erasmus. Những Samurai đang nhìn xuống họ một cách tọc mạch.
“Đó là lần thứ hai tớ dẫn tàu cho những kẻ ngoại đạo. Lần thứ nhất thì không được may mắn.”
“Thế hả?”
Rodrigues gác mái chèo, con thuyền lượn khéo léo sang mạn tàu và bám vào dây thừng.
“Đi lên, nhưng để việc nói năng cho tớ.”
Blackthorne bất đầu trèo lên trong khi người hoa tiêu kia buộc thuyền an toàn. Rodrigues nhảy lên boong đầu tiên. Anh chào như một triều thần.
“Konnichina tất cả lũ Sama ăn cỏ!”
Có bốn Samurai trên boong. Blackthorne nhận ra một trong bốn tên đó là tên gác cửa hầm. Bàng hoàng, tất cả bọn họ đều chào anh chàng Portugal. Blackthorne cũng bắt chước y hệt, thấy mình rất vụng về, ao ước mình chào đúng qui cách hơn.
Rodrigues bước thẳng về phía thang dẫn từ khoang này tới khoang khác. Dấu niêm phong vẫn còn nguyên. Một Samurai ngăn anh ta lại.
“Kinjiru, gomen nasai. – Xin lỗi, cấm.”
“Kinjiru, hả?” Anh chàng Portugal nói, rõ ràng không hề bối rối gì hết
“Tôi là Rodrigues san, Anjin cho Toda Hiromatsu Sama. Cái dấu niêm phong này”, anh
nói, tay chỉ vào dấu son với những chữ kỳ quặc viết lên trên.
“Toda Hiromatsu Sama, ka?”
“Iyé” tên Samurai nói, lắc đầu,
“Kasigi Yabu Sama!”
“Iyé?” Rodrigues nói.” Kasigi Yabu Sama? Ta là người của Hiromatsu Sama, là một ông vua lớn hơn cái thằng thủ dâm của ngươi và Sama Cóc Cụ là người của Toranaga Sama, lão thủ dâm Sama lớn nhất thế giới. Phải không?” Anh rạch dấu niêm phong khỏi cửa, một tay buông xuống súng, kiếm đã rút ra khỏi bao một nửa, anh khẽ nói với Blackthorne
“Chuẩn bị rời tàu” và cau có nói với tên Samurai,
“Toranaga Sama!” Anh lấy tay trái chỉ vào cờ trên vai mình.” Wakarima ka?” Những tên Samurai trù trừ, kiếm của chúng đã sẵn sàng. Blackthorne chuẩn bị nhào sang bên kia.
“Toranaga Sama!” Rodrigues đá vào cửa, then tung ra, cửa bật mở.” Wakari masu ka?”
“Wakari masu, Anjin-san.” Bọn Samurai nhanh chóng cất kiếm đi, cúi chào, xin lỗi và lại cúi chào, Rodrigues nói giọng khàn khàn
“Thế tốt”, dẫn đường xuống dưới.
“Jesuma, Rodrigues”, Blackthorne nói khi họ đã ở boong dưới.
“Cậu có luôn luôn làm như thế này mà thoát được không?”
“Thỉnh thoảng lắm tớ mới làm”, anh chàng Portugal nói, lau mồ hôi đọng ở lông mày,
“Và ngay lúc đó tớ cũng ước giá mình đừng bao giờ bắt đầu làm điều đó.”
Blackthorne tựa vào vách ngăn.
“Mình cảm thấy như bị ai đá vào bụng.”
“Đó là cách duy nhất. Mình phải hành động như một ông vua.”
“Dù thế nữa, cũng không biết thế nào mà nói với một tên Samurai. Chúng nguy hiểm như một lão thầy tu cắm nến ở lỗ đít ngồi trên hòm thuốc súng đầy một nửa.”
“Toda Hiromatsu là cố vấn chính của Toranaga – lão là một Daimyo lớn hơn cái gã Daimyo ở địa phương đây. Chính vì thế mà chúng mới chịu.”
“Ông ta như thế nào, Toranaga ấy?”
“Chuyện dài, Ingeles ạ.” Rodrigues ngồi trên bục, tháo ủng, xoa mắt cá chân.
“Tớ suýt nữa gãy chân vì cái cửa chấy rận của cậu.”
“Nó có khóa đâu. Lý ra cậu chỉ việc mở nó ra.”
“Tớ biết. Nhưng như vậy không có hiệu quả bằng. Lạy Đức Mẹ Đồng Trinh, cậu còn phải học nhiều!”
“Cậu dạy tớ nhé?”
Rodrigues đi ủng vào.
“Cái đó còn tùy”, anh nói.
“Tùy gì?”
“Chúng ta còn phải xem, phải không nào? Cho đến giờ, toàn là tớ nói, mà điều đó là đúng thôi – tớ thích hợp, cậu không. Chẳng bao lâu nữa sẽ đến lượt cậu. Phòng nào là phòng của cậu?”
Blackthorne ngấm nghía anh ta một giây. Mùi dưới boong tàu nằng nặng.
“Cám ơn đã giúp tớ lên.”
Anh dẫn đường ra đuôi tàu. Cửa phòng anh không khóa. Cabin đã bị lục tung, những thứ mang đi được đã bị mất. Không có sách vở, quần áo hay dụng cụ, chăn mền gì hết. Cả két đi biển của anh cũng bị bật khóa. Và trống rỗng.
Giận tái người, anh bước vào cabin lớn, Rodrigues theo dõi chăm chú. Ngay cả khoang bí mật cũng bị phát hiện và cướp bóc.
“Chúng đã lấy đi tất cả mọi thứ. Đồ chấy rận mắc dịch.”
“Cậu mong đợi khác thế ư?”
“Tớ không biết. Tớ nghĩ – với dấu niêm phong…”
Blackthorne đến phòng bọc sắt. Nó trống trơn, ngay cả kho súng đạn. Cái khoang chỉ còn chứa những kiện vải len.
“Chúa nguyền rủa tất cả lũ Nhật Bản!” Anh quay lại cabin của mình và đóng sầm két đi biển.
“Chúng đâu?” Rodrigues hói.
“Cái gì?”
“Hải trình của cậu. Hải trình đi biển của cậu đâu?”
Blackthorne nhìn xoáy vào anh ta.
“Không hoa tiêu nào lo quần áo hết. Cậu tới để tìm hải trình có phải không?”
“Phải.”
“Tại sao cậu ngạc nhiên như vậy, Ingeles? Tại sao cậu nghĩ là tớ lên tàu này để giúp cậu lấy mấy cái quần rách? Chúng cũng tả tơi lắm rồi, cậu sẽ phải cần áo quần mới. Tớ có rất nhiều cho cậu. Nhưng hải trình đâu?”
“Biến rồi. Tớ để chúng ở két đi biển của tớ.”
“Tớ sẽ không ăn cắp chúng đâu, Ingeles ạ. Tớ chỉ muốn đọc chúng thôi. Và chép lại nếu cần. Tớ sẽ nâng niu nó như của bản thân mình, bởi thế cậu không việc gì phải lo lắng.” Giọng anh ta đanh lại.
“Tìm chúng đi, Ingeles, chúng ta còn ít thì giờ lắm.”
“Không tìm được. Chúng biến mất rồi. Tớ để chúng trong két đi biển của tớ.”
“Cậu không thể để chúng ở đó được – nhất là khi tới một cảng ngoại quốc. Cậu không quên nguyên tắc đầu tiên của một hoa tiêu – cất giấu chúng cẩn thận, chỉ để lộ những cái giả thôi. Nhanh lên!”
“Chúng bị đánh cắp rồi!”
“Tớ không tin cậu. Nhưng tớ thừa nhận cậu đã giấu nó rất kỹ. Tớ đã tìm hai tiếng đồng hồ liền mà không thấy được cái của cậu.”
“Cái gì?”
“Tại sao cậu lại ngạc nhiên vậy, Ingeles? Đầu cậu để ở dưới đít à? Tất nhiên, tớ từ Osaka đến đây để điều tra hải trình của cậu!”
“Cậu đã lên boong rồi à?”
“Đức Mẹ ơi!” Rodrigues nói một cách sốt ruột.”Ừ, tất nhiên, hai, ba tiếng đồng hồ trước đây cùng với Hiromatsu , lão muốn xem. Lão bật niêm phong rồi, sau khi chúng tớ đi, cái tên Daimyo địa phương này lại niêm phong lại. Nhanh lên, lạy Chúa.” Anh ta nói thêm:
“Cát đang chảy hết dần rồi.”
“Chúng bị đánh cắp!” Blackthorne kể cho anh ta nghe họ đã đến như thế nào, anh đã tỉnh dậy trên bờ thế nào. Rồi anh đá cái két đi biển sang bên kia, tức giận những kẻ đã ăn cướp tàu của anh.
“Chúng bị đánh cắp! Tất cả bản đồ của tớ! Tất cả hải trình của tớ! Tớ có vài bản sao ở Anh, nhưng hải trình của chuyến đi này đã mất và cả…!” Anh dừng lại.
“Và cả hải trình Portugal? Nào Ingeles, phải là hải trình Portugal.”
“Ừ, hải trình Portugal, nó cũng biến nốt.” Phải bình tĩnh, anh nghĩ. Chúng mất rồi và thế là hết. Ai lấy chúng? Bọn Nhật ư? Hay chúng đưa nó cho lão thầy tu? Không có hải trình, không bản đồ, anh làm sao về được tới nhà? Anh sẽ không bao giờ về được nhà…”
“Không đúng. Anh vẫn có thể tìm được đường về nếu cẩn thận hết sức và may mắn… Đừng lố bịch nữa! Anh đã đi nửa đường vòng quanh trái đất, trên đất thù, trong tay thù, anh không có hải trình, không hải đồ.” Ôi, xin Chúa ban cho con sức mạnh!”
Rodrigues theo dõi anh chăm chú. Cuối cùng anh ta nói
“Tôi chia buồn cùng cậu, Ingeles. Tôi biết cậu đang cảm thấy thế nào – nó cũng xảy đến với tôi một lần. Hắn ta cũng là người Ingeles, tên trộm, cầu cho tàu của nó và cả nó bị đốt trong ngọn lửa địa ngục đời đời. Nào, chúng ta trở lại đi.”
*
Omi và những người khác đợi ở cầu tàu cho đến khi chiếc galleon lượn vòng mũi biển và mất hút. Phía Tây, những lớp đêm đã ngoạm bầu trời đỏ rực. Phía Đông, đêm đã nối trời và biển vào nhau không còn chân trời.
“Mura, đem tất cả đại bác trở lại tàu mất bao lâu?”
“Nếu làm suốt đêm thì đến trưa mai, thưa Omi-san. Nếu chúng ta bắt đầu lúc rạng sáng, chúng ta sẽ xong trước lúc mặt trời lặn. Làm việc ban ngày an toàn hơn.”
“Làm việc hết đêm. Đem lão thầy tu tới hầm ngay.”
Omi liếc nhìn Igurashi, tỳ tướng chính của Yabu, vẫn đang ngó ra mũi biển, mặt hắn căng thẳng, các thớ thịt trong lòng mắt rỗng của hắn bị che đi một cách ma quái.
“Xin mời ông ở lại, Igurashi-san. Nhà tôi nghèo nhưng có lẽ cũng làm ông được thoải mái.”
“Cám ơn”,Igurashi nói, lưng quay lại anh ta.
“Nhưng chủ chúng ta nói trở về Yedo ngay, vậy tôi sẽ trở về ngay.” Nỗi quan tâm của hắn càng tăng.
“Tôi ước giá được đi đến chiếc galleon đó.”
“Vâng.”
“Tôi không thích thấy Yabu-san trên tàu chỉ có hai người. Tôi không thích như vậy.”
“Vâng.”
Hắn chỉ chiếc Erasmus.” Con tàu quỷ quái, thế đó! Nhiều của cải đến thế, rồi không còn gì.”
“Chắc là tất cả mọi thứ? Lãnh chúa Toranaga hẳn là vui, hết sức vui với quà tặng của Chúa Yabu?”
“Cái thằng khỉ gió chuyên đi cướp các tỉnh đầy vẻ quan trọng hóa, thậm chí nó không để ý đến số lượng bạc nó sẽ lấy cắp được của chủ chúng ta. Đầu óc ông để đâu?”
“Tôi nghĩ chính nỗi lo ngại về sự nguy hiểm có thể xảy ra với Chúa của chúng ta đã thúc đẩy ông đưa ra một nhận xét như thế.”
“Ông nói đúng, Omi-san. Không có một ý định nhục mạ nào. Ông rất thông minh và giúp đỡ chủ chúng ta nhiều. Có lẽ ý kiến của ông về Toranaga cũng đúng.”
Igurashi nói, nhưng hắn suy nghĩ, hãy cứ hưởng của cải mới nhận được của người đi, thằng ngu ngốc khốn khổ.
Ta biết chủ của ta hơn ngươi, cái thái ấp được tăng lên của ngươi cũng chẳng ích lợi gì đâu. Sự tiến bước của ngươi là để đáp lại con tàu, bạc, và vũ khí. Nhưng bây giờ chúng tiêu tan hết cả rồi. Và cũng tại ngươi mà chủ ta đang trong hiểm họa.
Ngươi đã gửi thư và nói:
“Hãy xem bọn rợ trước”, để nhử người. Lý ra chúng ta đã có thể đi hôm qua. Phải, và như vậy thì chủ ta lúc này đã an toàn cùng với tiền và vũ khí. Ngươi có phải là một tên phản bội không? Ngươi hành động cho bản thân ngươi, cho người cha ngu ngốc của ngươi hay cho một kẻ thù? Cho Toranaga, có lẽ? Không sai.”
“Ngươi có thể tin ta, Omi, thằng trẻ con nếm cứt, ngươi và chi tộc Kasagi của ngươi không tồn tại lâu trên mặt đất này đâu. Ta sẽ nói thẳng vào mặt ngươi, nhưng lúc ấy ta sẽ phải giết ngươi và ta sẽ xóa tan niềm vui của chủ ta. Người sẽ nói khi nào, chứ không phải là ta.”
“Cám ơn tấm lòng hiếu khách của ông, Omi-san”, hắn nói.
“Tôi mong sớm được gặp ông, nhưng bây giờ tôi phải đi.”
“Ông có thể giúp tôi một việc được không? Cho tôi gửi lời hỏi thăm cha tôi. Tôi xin cảm ơn ông lắm.”
“Tôi rất hân hạnh làm điều đó. Ông cụ là một người tốt. Mà quên, tôi chưa chúc mừng ông về thái ấp mới của ông.”
“Ông thật tử tế quá.”
“Xin cảm ơn ông một lần nữa, Omi-san.” Hắn giơ tay chào thân mật , chỉ tay về phía quân của mình và dẫn đội kị binh ra khỏi làng.
Omi đi về phía hầm. Gã thầy tu ở đó. Omi có thể thấy được gã đang giận dữ. Omi hy vọng gã làm một điều gì lộ liễu công khai để có thể nện cho một trận.
“Thầy tu, hãy nói với bọn rợ chuẩn bị lên, từng đứa một. Bảo với chúng nó rằng Chúa Yabu nói chúng có thể sống lại trong thế giới của con người.” Omi cố làm cho lời nói của mình đơn giản.
“Nhưng chỉ vi phạm luật một chút thôi là hai tên sẽ bị đưa lại xuống hầm. Chúng phải biết cư xử và tuân thủ mọi mệnh lệnh. Rõ chưa?”
“Rõ.”
Omi bắt gã thầy tu nhắc lại. Khi biết chắc gã hiểu đúng, anh ta mới bắt gã nói xuống hầm.
Mọi người lên, từng người một. Tất cả đều sợ hãi. Một số người phải dìu. Một người quá đau và thét lên mỗi khi có ai sờ vào cánh tay.
“Chín người cơ mà?”
“Một người chết. Xác anh ta ở dưới đó, dưới hầm”, gã thầy tu nói. Omi suy nghĩ một lát.
“Mura, hãy đốt cái xác đó và giữ tro cùng với nắm tro của tên rợ kia. Để những người này vào ngôi nhà trước đây. Cho họ nhiều rau và cá. Xúp lúa mạch và trái cây. Tắm cho họ. Mùi khắm quá. Ông thầy tu bảo với họ nếu họ cư xử tốt và biết vâng lời, thức ăn sẽ tiếp tục.”
Omi theo dõi và lắng nghe kỹ. Anh ta thấy họ đều phản ứng một cách biết ơn. Anh ta khinh bỉ nghĩ, ngu ngốc làm sao! Ta chỉ tước của họ hai ngày và cho họ một chút cỏn con và bây giờ họ sẽ ăn cứt, họ thực sự sẽ ăn cứt
“Mura, bảo họ cúi chào đúng cách rồi dẫn họ đi.”
Rồi anh quay về phía gã thầy tu.
“Thế nào?”
“Tôi đi đây. Về nhà tôi. Rời Anjiro.”
“Tốt hơn hết là ông nên đi, lánh xa mãi mãi, ông và tất cả những cố đạo như ông. Có lẽ lần sau, một người trong bọn các ông tới thái ấp của ta thì đó là vì một số nông dân hoặc chư hầu theo đạo Thiên Chúa của ta phạm tội phản quốc”, Omi nói, dùng sự đe dọa và thủ đoạn cổ điển mà những Samurai chống Thiên Chúa giáo dùng để khống chế việc lan tràn bừa bãi chủ thuyết ngoại bang vào trong thái ấp của họ, vì các cố đạo người nước ngoài được bảo vệ, còn các tín đồ Nhật Bản của họ thì không.”
“Những người Thiên Chúa Nhật Bản tốt, luôn luôn tốt. Các chư hầu tốt. Không bao giờ có tư tưởng xấu. Không.”
“Tôi sung sướng nghe như thế. Đừng quên thái ấp của tôi trải dài hai mươi ri về các ngả. Ông hiểu không?
“Tôi hiểu. Vâng. Tôi hiểu rất rõ.”
Omi nhìn gã thầy tu chào một cách cứng nhắc – ngay cả các ông thầy tu rợ cũng phải có phép tắc – và bước đi.
“Omi-san?”, một Samurai nói. Anh này trẻ và rất đẹp trai.
“Gì thế?”
“Xin tha lỗi, tôi biết ngài không quên, nhưng Masijiro-sanvẫn còn ở trong hầm.”
Omi đến bên cửa hầm và nhìn xuống người Samurai. Lập tức người này quỳ xuống, cung kính chào.
Hai ngày đã làm anh ta già đi. Omi cân nhắc sự phục vụ trước đây và giá trị sau này của anh ta. Rồi rút con dao găm khỏi đai lưng của anh chàng Samurai trẻ tuổi, thả nó xuống hầm.
Dưới chân thang, Masijiro nhìn con dao một cách ngờ vực Nước mắt ròng ròng chảy xuống hai bên má.
“Tôi không xứng đáng với vinh dự này, Omi-san.” Anh ta nói khúm núm.
“Cám ơn ngài.”
Anh chàng Samurai trẻ bên cạnh Omi nói:
“Tôi xin phép cho anh ấy được mổ bụng ở đây, trên bãi biển?.”
“Anh ta đã thất bại trong hầm. Anh ta sẽ ở lại trong hầm. Hãy ra lệnh cho dân làng lấp đất lên. Hãy xóa tất cả mọi dấu vết. Bọn rợ đã làm ô uế nó.”
(Kho tư liệu của Hội NVHP)