Người dịch: Ngô Vĩnh Viễn và Bùi Phụng
Tinh thần Blackthorne phấn chấn lên, sự tò mò của anh được kích thích với những điều ông thầy tu nói. Súng nào? Vàng nào? Buôn bán gì? Con Black Ship nào? Một triệu? Cuộc xâm lăng? Những nhà vua theo đạo Cơ đốc?
Ta có nên đánh lừa con người già nua bệnh tật này không? Anh tự hỏi. Ông ta nghĩ ta là bạn, không phải thù. Mình chưa nói dối ông ấy.
Nhưng người này chằng ám chỉ người là bạn đó ư?
Mình đã trả lời ông ấy trực tiếp.
Nhưng người không tình nguyện điều gì hết?
Không.
Như vậy có sòng phẳng không?
Đó là quy luật thứ nhất để sống còn trong vùng biển nước địch: không tình nguyện gì hết.
Cơn thịnh nộ của ông thầy tu tung hoành. Người Nhật Bản ở gần bên thay đổi tư thế một cách không thoải mái. Một người trong bọn họ đứng lên lay nhè nhẹ ông thầy tu và nói với ông. Cha Domingo dần dần nguôi cơn giận và đôi mắt ông sáng trở lại. Ông nhìn, nhận ra Blackthorne và đáp lại người Nhật và trấn an những người khác.
“Xin lỗi, senhor” ông nói không ra hơi.
“Họ, họ nghĩ tôi nổi giận với senhor. Chúa hãy tha thứ cho cơn giận ngu xuẩn của tôi! Sự thể là – bọn Jesuit từ địa ngục mà lên, cùng những người dị giáo và những kẻ ngoại đạo. Cha có thể kể cho con nghe nhiều về bọn chúng.”
Ông thầy tu lau rớt rãi chảy xuống cằm và cố trấn tĩnh. Ông ép tay vào ngực để làm dịu cơn đau ở đó.
“Senhor nói sao? Con tàu của senhor giạt vào bờ?”
“Vâng. Hiểu theo một cách nào đó. Chúng tôi bị mắc cạn.” Blackthorne trả lời. Anh thận trọng duỗi chân.
Những người đang theo dõi và lắng nghe nhường cho anh thêm chỗ. Một người đứng lên, ra hiệu cho anh duỗi ra.
“Cám ơn”, anh nói ngay.
“Ô, nói cám ơn như thế nào, cha?”
“Domo.” Đôi khi nói
“Arigato.” Một phụ nữ phải rất lịch sự, senhor. Bà ta sẽ nói
“Arigato goziemashita.”
“Cám ơn cha. Tên anh ấy là gì?” Blackthorne chỉ người vừa đứng lên.
“Đó là Gonzalez.”
“Nhưng tên Nhật của anh ấy?”
“À nhỉ. Anh ấy là Akabo. Nhưng nó chỉ có nghĩa là
“Người khuân vác”, senhor ạ. Họ không có tên. Chỉ Samurai là có tên thôi.”
“Cái gì?”
“Chỉ Samurai có tên, tên và họ. Đó là luật của họ, senhor. Những người khác phải bằng lòng với cái họ có – phu khuân vác, người đánh cá, người nấu bếp, đao phủ, nông dân, vân vân. Con trai và con gái hầu hết chỉ là Con gái thứ nhất, Con gái thứ hai, Con trai thứ nhất, vân vân. Đôi khi họ gọi
“Anh câu cá sống ở gần cây du” hoặc
“Anh đánh cá mắt kém.” Ông thầy tu nhún vai và nén một tiếng ngáp.
“Những người Nhật bình thường không được phép mang tên. Gái điếm tự đặt tên cho họ như Cá chép, hay Nguyệt, hay Cánh hoa, hay Lươn, hay Sao. Lạ thật, senhor, nhưng đó là luật của họ. Chúng tôi cho họ những tên thánh, những tên thật khi chúng tôi rửa tội cho họ, cho họ sự cứu chuộc và lời của Chúa…” Lời nói của ông kéo dài và ông ngủ.
“Domo, Akabo-san”, Blackthorne nói với người khuân vác.
Người đàn ông cúi đầu, mỉm cười e thẹn, chào và hít hơi. Một lát sau ông thầy tu tỉnh dậy, đọc một bài kinh cầu ngắn và gãi sồn sột.
“Mới ngày hôm qua, senhor nói thế? Senhor mới tới đây hôm qua? Có chuyện gì xảy ra với senhor?”
“Khi chúng tôi cập bến, có một tên Jesuit ở đó”, Blackthorne nói.
“Nhưng cha, cha nói họ buộc tội cha? Cái gì đã xảy đến với cha và con tàu của cha?”
“Con tàu của chúng tôi à? Senhor hỏi về con tàu của chúng tôi? Hay… ồ, tôi ngu ngốc quá! Tôi nhớ ra rồi, senhor từ biên cương bên ngoài và trước đây chưa bao giờ ở châu Á. Thề có thân thể linh thiêng của Chúa, lại được nói chuyện bằng tiếng mẹ đẻ dịu hiền với một con người văn minh thật là tốt đẹp. Que va (phải, đúng rồi-tiếng Spain), lâu quá rồi. Đầu tôi đau, đau, senhor. Tàu của chúng tôi ư? Cuối cùng chúng tôi đang trên đường về. Về từ Manila đến Acapulco, trên đất Cortes ở-Mexico rồi trên đất liền tới Vêra Cruz . Và sau đó trên một con tàu khác qua Đại Tây Dương và cuối cùng, cuối cùng là về nhà.
Làng tôi Ở ngoại ô Madrid, senhor ạ, trên núi. Tên nó là Santa Veronica. Tôi đi xa đã bốn mươi năm, senhor ạ. Ở Tân Thế Giới, ở-Mexico, ở Philippines. Bao giờ cũng cùng với những Người Chinh Phục rạng danh của chúng ta, cầu Đức Mẹ Đồng Trinh che chở cho họ! Tôi đã ở Luzon khi chúng tôi tiêu diệt nhà vua dị giáo ở đó, Lumalon, chinh phục Luzon và như vậy đem lời của Chúa tới Philippines.
Rất nhiều người Nhật Bản cải giáo đã chiến đấu cùng với chúng tôi ngay từ lúc đó. Những chiến binh ghê gớm! Đó là vào năm 1575. Nhà thờ Đức Mẹ vững vàng ở đó, con trai ta ạ, và không hề có bóng dáng một tên Jesuit bẩn thỉu hoặc một tên Portugal nào hết. Tôi đến với những người Nhật gần hai năm, rồi tôi lại phải đi Manila khi bọn Jesuit phản bội chúng tôi!
Ông thầy tu ngừng nói, nhắm mắt lại, nghĩ vẩn vơ. Lát sau ông tỉnh lại và như tất cả những người già thỉnh thoảng thế, ông lại tiếp tục nói, y như thể chưa bao giờ ngủ.
“Tàu của tôi là chiến thuyền San Felipe. Chúng tôi chở hương liệu, vàng bạc và những loại hàng giá trị một triệu rưỡi pêxô bạc. Một cơn bão lớn giạt chúng tôi vào bờ ShiKoku. Tàu của chúng tôi gãy sống lưng trên một dải cát vào ngày thứ ba – lúc đó chúng tôi đã khuân vàng, bạc nén và hầu hết hàng hóa lên bờ. Rồi có tin là tất cả mọi thứ đã bị tịch thu, chúng tôi là hải tặc và…” Ông lão dừng lại trước một sự yên lặng đột ngột.
Cánh cửa sắt của cái lồng xà lim bật mở.
Những người gác bắt đầu gọi tên trong một danh sách. Chó bun, người đã kết bạn với Blackthorne ở trong số những người có tên. Anh bước ra và không nhìn lại. Một trong những người ở vòng ngoài cũng được chọn:
Akabo. Akabo quỳ trước mặt ông thầy tu. Ông ban phước, làm dấu thánh và đọc lễ phước cuối cùng. Người đàn ông đó hôn cây thánh giá và bước đi.
Cánh cửa lại đóng lại.
“Họ sẽ hành hình anh ta?” Blackthorne hỏi.
“Đúng thế, giá chữ thập của anh ấy đã ở bên ngoài. Đức Mẹ hãy mang linh hồn anh ấy đi và cho anh ấy phần thưởng đời đời.”
“Anh ta đã làm điều gì?”
“Anh ta đã vi phạm luật pháp – luật pháp của họ, senhor. Người Nhật là một dân tộc đơn giản. Và rất nghiêm khắc. Thực sự họ chỉ có một sự trừng phạt – cái chết. Bằng cách treo lên giá chữ thập, bóp chết, hay chặt đầu. Tội đốt nhà người sẽ bị thiêu chết. Họ không có sự trừng phạt nào khác, thỉnh thoảng là trục xuất đối với phụ nữ, đôi khi là cắt tóc. Nhưng, – ông lão thở dài, – nhưng thường thường nhất là cái chết.”
“Cha quên việc cầm tù sao?”
Móng tay của ông thầy tu lơ đãng cạy vảy trên cánh tay.
“Đó không phải là một trong những sự trừng phạt của họ, con ạ. Đối với họ, nhà tù chỉ là nơi tạm giữ một người cho đến khi họ quyết định bản án của anh ta. Chỉ những người có tội đến đây. Trong một thời gian ngắn.”
“Vô lý Thế còn cha thì sao? Cha đã ở đây một năm, gần hai năm.”
“Rồi một hôm nào đó, họ sẽ đến gọi cha, cũng giống như tất cả những người khác. Nơi đây chỉ là chặng nghỉ giữa địa ngục trần gian và hạnh phúc của cuộc sống vĩnh hằng.”
“Tôi không tin cha.”
“Đừng sợ, con ạ. Đó là ý Chúa. Cha ở đây và có thể nghe senhor xưng tội và rửa tội cho senhor, khiến senhor trở nên hoàn thiện – hạnh phúc. Cuộc đời vĩnh hằng chỉ cách cánh cửa kia có một trăm bước và một trăm khoảnh khắc. Senhor có muốn xưng tội không?”
“Không… không, cám ơn cha. Bây giờ thì không.”
Blackthorne nhìn cánh cửa sắt.
“Có ai tìm cách trốn khỏi đây bao giờ không?”
“Họ làm thế để làm gì? Chạy đi đâu… trốn đâu! Các nhà chức trách rất nghiêm khắc. Ai giúp tù vượt ngục, thậm chí một người phạm trọng tội…” ông tu sĩ trỏ ra phía cửa.” Gônzalez, Akabo, người đã… đã từ giã chúng ta. Ông ta là một phu kaga. Ông ta bảo…”
“Phu kaga là gì?”
“Ồ, họ là phu khiêng kiệu ấy molor, thưa senhor, kaga nhỏ hơn, có hai người khiêng, giống như cái võng mắc vào một cái đòn. Ông ta bảo rằng, người phu bạn của ông ta đã ăn cắp chiếc khăn lụa của một khách hàng. Khổ thân ông ta, và vì bản thân ông ta không khai báo vụ ăn cắp, nên cũng mất mạng. Senhor có thể tin tôi, tìm cách trốn hay chỉ giúp ai trốn thôi cũng sẽ mất mạng và toàn thể gia đình người đó cũng vậy. Họ nghiêm khắc lắm, thưa senhor.”
“Vậy ra mọi người cứ chịu để hành quyết như những con cừu sao?”
“Chẳng có sự lựa chọn nào khác. Đó là ý Chúa.”
Đừng tức giận hoặc hốt hoảng, Blackthorne tự nhủ. Hãy kiên nhẫn. Có thể tìm ra một lối thoát. Không phải tất cả những gì ông tu sĩ nói đều đúng cả. Ông ta loạn trí. Ai mà không loạn trí sau bấy nhiêu năm?
“Senhor này, những nhà tù này đối với họ là mới đấy”, ông tu sĩ nói.
“Taiko mới lập nhà tù ở đây cách đây vài năm, người ta nói vậy. Trước ông ta thì không có một nhà tù nào hết. Xưa kia, người nào bị bắt thì thú nhận tội lỗi rồi bị xử tử.”
“Thế nếu anh ta không thú nhận thì sao?”
“Ai cũng thú nhận thôi. Càng sớm càng tốt, senhor ạ. Ở cái thế giới chúng ta cũng vậy, nếu bị bắt.”
Ông tu sĩ ngủ thiếp đi một lát, vừa ngủ vừa gãi, miệng lẩm bẩm. Khi ông ta tỉnh dậy, Blackthorne nói:
“Thưa cha, xin cha cho biết làm thế nào mà đám tu sĩ dòng đáng nguyền rủa ấy lại vứt một người của Chúa vào cái hố mắc dịch này?”
“Cũng chẳng có gì nhiều mà kể. Nhưng cũng lắm chuyện lắm. Sau khi người của Taiko đến lấy tất cả vàng nén và hàng hóa của chúng tôi thì chưởng môn của chúng tôi khăng khăng đòi lên kinh đô để khiếu nại.
Chẳng có lý do gì để tịch thu cả. Chúng tôi chẳng phải là tôi tớ của Đức vua ngoan đạo rất oai nghiêm, Vua Philip của Spain, người trị vì đế quốc lớn nhất và giàu nhất thế giới đó sao? Chúng tôi không phải là bạn bè sao?
Chẳng phải chính Taiko đã yêu cầu Manila của Spain buôn bán trực tiếp với Nhật Bản để phá vỡ độc quyền bẩn thỉu của người Portugal đó sao? Đây hoàn toàn là một sai lầm, cái chuyện tịch thu ấy. Đúng là như vậy.”
“Tôi đi cùng chưởng môn của chúng tôi vì tôi võ vẽ vài tiếng Nhật, hồi ấy tôi không biết nhiều, senhor ạ, chiếc tàu San Felipe đã trôi giạt và cặp bờ vào tháng Mười năm 1597 . Các tu sĩ dòng Temple (hay còn gọi là dòng tu Đền Thánh)- một người trong số họ có tên là cha Mactin Alvito. Họ đã cả gan nhận làm môi giới cho chúng tôi ở Kyoto, tức là kinh đô. Thật là láo xược!
Cha Bề trên dòng Francis của chúng tôi là tu sĩ hành khất Branganza, lúc đó đang ở kinh đô, và là đại sứ đại sứ thật sự của Spain tại triều đình Taiko! Tu sĩ chân phước Braganza đã ở kinh đô Kyoto năm năm rồi, senhor ạ.
Đích thân Taiko đã xin Phó vương của chúng tôi ở Manila cử các tu sĩ dòng Francis và một đại sứ sang Nhật Bản. Cho nên tu sĩ chân phước Braganza đã tới đây Còn chúng tôi, những người của tàu Felipe, chúng tôi biết có thể tin cậy ở cha Braganza được, chứ không như cái đám dòng Temple.”
“Sau nhiều ngày, rất nhiều ngày chờ đợi, chúng tôi được yết kiến Taiko – ông ta là một người thấp lùn, nhỏ xíu xấu xí, senhor ạ. Và chúng tôi đòi trả lại hàng hóa cho chúng tôi và một chiếc tàu khác hoặc được đưa đi trên một chiếc tàu khác, chưởng môn của chúng tôi sẵn sàng trả tiền hậu hĩ. Cuộc yết kiến diễn ra tốt đẹp, chúng tôi nghĩ thế, và Taiko cho chúng tôi về. Chúng tôi đến tu viện của chúng tôi ở Kyoto và đợi. Thế là, những tháng sau đó, trong khi chờ quyết định của Taiko, chúng tôi tiếp tục đem những lời Chúa dạy tới những người ngoại đạo. Chúng tôi làm lễ công khai, chứ không lén lút ban đêm như những thằng ăn trộm, như bọn dòng Temple!” Giọng nói của tu sĩ hành khất Domingo đầy vẻ khinh bỉ.
“Chúng tôi mặc áo thụng và lễ phục của chúng tôi. Chúng tôi không cải trang làm thầy tu bản địa như bọn họ đã làm. Chúng tôi đem lời Chúa đến cho dân chúng, cho những người tàn tật, người nghèo, người đau ốm, chứ không như đám dòng Temple luôn luôn cặp kè với các vương tôn công tử. Các giáo đoàn của chúng tôi ngày càng nhiều thêm. Chúng tôi mở một bệnh viện cho người hủi, lập một nhà thờ riêng của chúng tôi và con chiên của chúng tôi ngày càng đông. Nhiều lắm, senhor ạ. Chúng tôi sắp cải đạo cho nhiều ông chúa của họ thì một hôm chúng tôi bị phản bội.”
“Một hôm vào tháng giêng, những tu sĩ Francis chúng tôi, tất cả đều bị đưa ra trước quan tòa và bị buộc tội, theo lệnh của chính bản thân Taiko, senhor ạ, là đã vi phạm luật pháp của họ, phá rối trị an, và bị kết án tử hình bằng đóng đinh câu rút. Chúng tôi có tất cả bốn mươi ba người.
Nhà thờ của chúng tôi ở khắp nơi trên đất nước này sẽ bị phá hủy, tất cả các giáo đoàn của chúng tôi sẽ bị giải tán – ấy là các giáo đoàn Francis thôi, chứ không phải các giáo đoàn dòng Temple đâu, senhor ạ. Chỉ chúng tôi thôi. Chúng tôi đã bị buộc tội một cách sai trái. Bọn dòng Temple đã rót thuốc độc vào tai Taiko rằng chúng tôi là những tên
“Conquésbadores” (những kẻ xâm lược), rằng chúng tôi muốn xâm lăng các bờ biển này trong khi chính bọn dòng Temple van nài đức Phó vương của chúng tôi ở Manila phái một đạo quân đến đây. Chính tôi trông thấy bức thư đó! Thư của Đức cha Bề trên của họ. Họ là bọn ma quỷ làm ra vẻ phụng sự Giáo hội và Chúa, nhưng chỉ là phụng sự bản thân họ mà thôi. Họ thèm khát quyền lực, với bất cứ giá nào. Họ nấp sau cái vỏ nghèo khổ và sùng đạo nhưng họ ăn uống như vua chúa và thu vén rất nhiều của cải.
Que va, senhor, sự thực là họ ghen tức các giáo đoàn của chúng tôi, ghen tức giáo hội của chúng tôi, ghen tức chân lý và lối sống của chúng tôi. Daimyo ở Hizen là Don Francitcô – tên Nhật của ông ta là Harima Tadao nhưng đã được làm phép tội, đặt tên là Don Franxisco – đã can thiệp giúp chúng tôi. Ông ta cũng chẳng khác gì một ông vua, tất cả các Daimyo đều là vua cả, và ông là người của dòng Franxit đã can thiệp xin cho chúng tôi, nhưng chẳng ăn thua gì.”
“Cuối cùng, hai mươi sáu người tử vì đạo. Sáu người Spain, mười bảy người Nhật Bản mới nhập đạo và ba người nữa. Cha chân phước Braganza là một và còn ba thanh niên trong số những người mới nhập đạo.
Ồ, thưa senhor, trong đám đông hàng ngàn người hôm ấy có cả các tín đồ. Năm mươi, một trăm người xem vụ tuẫn tiết vì đạo đó ở Nagasaki, tôi nghe nói thế. Hôm ấy là một ngày rét buốt tháng hai và một năm đau khổ. Đó là năm có những trận động đất, cuồng phong, lụt lội, bão tố và hoả hoạn, khi bàn tay của Chúa giáng xuống đầu kẻ sát nhân lớn, thậm chí đập tan cả lâu đài lớn của hắn, lâu đài Fushimi, khi Chúa rung động trái đất. Nhìn ngón tay của Chúa trừng phạt đám ngoại đạo và bọn phạm tội thật là khủng khiếp nhưng thật kỳ diệu.”
“Vậy là thưa senhor, họ đã tử vì đạo, sáu người Spain. Con chiên và giáo hội của chúng tôi bị tàn phá, bệnh viện bị đóng cửa.” Gương mặt ông lão tái nhợt.
“Tôi… tôi là một trong số những người được chọn để chịu tử hình, nhưng… nhưng tôi đã không có được vinh dự ấy. Họ bắt chúng tôi đi bộ từ Kyoto đến Osaka, tới nơi họ đưa một số người trong chúng tôi vào một giáo hội của chúng tôi ở đó, còn thì… thì ai nấy đều bị cắt một tai rồi giải đi diễu qua các phố như những tên thường phạm. Thế rồi các giáo hữu chân phước của tôi phải đi bộ về phía Tây. Một tháng trời ròng rã. Cuộc hành trình thiêng liêng đó kết thúc tại ngọn đồi có tên là Nishizaki, nhìn xuống cảng lớn Nagasaki. Tôi van xin viên Samurai cho tôi đi cùng với họ, nhưng, thưa senhor, hắn ra lệnh cho tôi phải trở về giáo hội ở Osaka đây.
Chẳng có lý do gì cả? Thế rồi, nhiều tháng sau, chúng tôi bị giam vào ngục này. Chúng tôi có ba người… tôi nghĩ là có ba người, nhưng chỉ có tôi là người Spain. Những người kia mới nhập đạo, những giáo hữu thế tục của chúng tôi là người Nhật. Vài ngày sau, lính gác gọi tên họ. Nhưng không bao giờ gọi tên tôi. Có lẽ đó là ý Chúa, thưa senhor, hoặc có lẽ bọn dòng Temple bẩn thỉu kia muốn để tôi sống để hành hạ tôi… Họ đã lấy đi mất của tôi cơ hội được tử vì đạo giữa các giáo hữu. Phải kiên nhẫn thật là gay go, thưa senhor. Gay go quá…”
Ông tu sĩ già nhắm mắt lại, cầu nguyện rồi khóc cho đến khi ngủ thiếp đi.
Dù rất muốn, Blackthorne vẫn không sao ngủ được tuy đêm đã xuống. Đầu óc anh quay cuồng vì kinh hoàng. Anh biết rất rõ rằng không có cách nào thoát khỏi nơi đây Có nghĩ cũng vô ích và lòng anh nặng trĩu cảm giác bất lực. Anh thấy mình đã kề bên cái chết. Trong khoảng đen tối nhất của đêm dài, lòng anh tràn đầy kinh hoàng và lần đầu tiên trong đời, anh thất vọng và khóc.
“Sao, con?” ông tu sĩ thì thào.
“Có chuyện gì thế?”
“Không có gì, không có gì đâu”, Blackthorne nói, tim đập thình thịch.
“Cha cứ ngủ đi.”
“Không việc gì mà sợ. Tất cả chúng ta đều nằm trong tay Chúa”, tu sĩ nói rồi lại ngủ.
Nỗi kinh hoàng khủng khiếp rời khỏi đầu óc Blackthorne, thay vào đó là nỗi kinh hoàng có thể chịu đựng được. Dù thế nào ta cũng sẽ ra khỏi nơi đây, anh tự nhủ, cố tin vào sự dối trá đó.
Tảng sáng, cơm nước được đưa đến. Blackthorne bây giờ đã khỏe hơn. Anh tự trách mình, yếu đuối như thế thật là ngu ngốc. Ngu ngốc, hèn và nguy hiểm. Không được làm thế nữa, nếu không mày sẽ gục, sẽ điên và chắc chắn sẽ chết. Chúng sẽ đưa mày vào dãy thứ ba và mày sẽ chết. Hãy cẩn thận, kiên nhẫn và giữ mình.
“Hôm nay ngài thấy thế nào, senhor?”
“Tốt lắm, cảm ơn cha. Còn cha thế nào?”
“Rất tốt, cảm ơn.”
“Nói thế bằng tiếng Nhật thế nào?”
“Domo, genki desu.”
“Domo, genki desu. Hôm qua, thưa cha, cha có nói về những chiếc Black Ship của người Portugal… trông chúng thế nào? Cha có trông thấy không?”
“Ồ có chứ, thưa senhor. Đó là những con tàu lớn nhất thế giới, gần hai ngàn tấn. Phải cần đến hai trăm người mới điều khiển được một con tàu như thế và với thủy thủ, hành khách, tổng số phải đến gần một nghìn. Tôi nghe nói những chiếc tàu đó chạy rất tốt khi gió thuận, nhưng gió ngang thì ì ạch.”
“Có bao nhiêu súng trên tàu?”
“Có lẽ đến hai mươi hay ba mươi súng trên ba boong.”
Cha Domingo rất vui thích trả lời các câu hỏi và trò chuyện, dạy bảo. Còn Blackthorne cũng rất thích nghe và học hỏi.Những hiểu biết lung tung tản mạn của ông tu sĩ thật là vô giá và sâu rộng.
“Không, thưa senhor”, ông lại nói.
“Domo là cám ơn còn dozo là xin, là mong, làm ơn… Nước là mizu. Phải luôn luôn nhớ rằng người Nhật rất coi trọng cung cách và lễ phép. Có lần ở Nagasaki… ồ, giá mà tôi có mực, bút lông ngỗng và giấy!… à, tôi biết rồi… đây, cứ vạch chữ lên đất là sẽ giúp được senhor nhớ…”
“Domo”, Blackthorne nói. Rồi, sau khi đã thuộc thêm vài từ nữa, anh hỏi:
“Người Portugal ở đây đã bao lâu rồi?”
“Ồ người ta phát hiện ra xứ sở này năm 1542 , thưa senhor, năm tôi ra đời. Có ba người: Dakota, Leixoto, còn người thứ ba thì tôi không nhớ tên. Cả ba đều là thương nhân Portugal, buôn bán dọc bờ biển Trung Hoa trên một chiếc thuyền mành, bỏ neo tại một cảng ở Xiêm. Senhor đã đến Xiêm bao giờ chưa?”
“Chưa.”
“Ồ, ở châu Á cố nhiều cái đáng xem lắm. Ba người đó đi buôn bán nhưng họ bị bão thổi giạt vào Tanegashima, trên đảo Kyushu. Đây là lần đầu tiên người Châu Âu đặt chân lên đất Nhật và ngay lập tức, công việc buôn bán bắt đầu. Vài năm sau, Francis Xavier, một trong những người sáng lập ra dòng Temple, tới đây. Đó là vào năm 1549… một năm tồi tệ đối với Nhật Bản, thưa senhor..
(Kho tư liệu của Hội NVHP)