Người dịch Ngô Vĩnh Viễn và Đào Phụng
Lẽ ra một giáo hữu của chúng tôi phải là người đầu tiên tới đây và chúng tôi sẽ thừa hưởng vương quốc này chứ không phải người Portugal. Ba năm sau, Francis Xavier chết ở Trung Hoa, cô đơn và bị bỏ rơi.
Tôi đã kể cho senhor nghe là đã có một tu sĩ dòng Temple tại triều đình Thiên Hoàng Trung Hoa, ở một nơi gọi là Bắc Kinh, chưa nhỉ? Ồ, senhor, ngài cần phải được thấy Manila và Philippines. Ở đấy chúng tôi có bốn nhà thờ lớn và gàn ba nghìn
“Conquestadores” và gàn sáu nghìn lính Nhật rải ra khắp các hòn đảo và ba trăm giáo hữu…”
Đầu óc Blackthorne đầy ắp những sự việc và từ ngữ Nhật Bản. Anh hỏi về đời sống ở Nhật Bản, về các Daimyo, các Samurai, về thương mại và Nagasaki, chiến tranh và hòa bình, dòng Temple, dòng Francis, về người Portugal, châu Á, về Manila của người Spain, và luôn luôn hỏi thêm về chiếc Black Ship hằng năm vẫn thường từ Macao đến đây. Ba ngày ba đêm Blackthorne ngồi với cha Domingo, hỏi, nghe, học rồi ngủ với những ác mộng để thức dậy lại hỏi nữa và biết nhiều hơn nữa. Thế rồi, đến ngày thứ tư, chúng gọi đến tên anh.
“Anjin-san!”
CHƯƠNG 15
~ Trong không khí lạnh ngắt, Blackthorne đứng dậy.
“Xưng tội đi con, xưng tội nhanh lên!”
“Con… con nghĩ rằng… con…” Blackthorne nhận ra, qua đầu óc mụ mẫm của mình, anh đang nói tiếng Anh, nên anh vội mím môi lại và bước đi. Ông tu sĩ lồm cồm đứng dậy, tưởng anh nói tiếng Holland hay Đức gì đó và nắm lấy cổ tay anh, tập tễnh đi theo.
“Nhanh lên, senhor. Ta sẽ rửa tội cho con. Mau lên vì linh hồn bất diệt của con. Xưng tội đi, chỉ cần thú nhận trước Chúa tất cả mọi chuyện xưa và nay…”
Lúc này hai người đã tới gần cánh cổng sắt, ông tu sĩ vẫn túm lấy Blackthorne với một sức mạnh lạ lùng.
“Xưng tội ngay đi! Đức Bà Đồng Trinh thiêng liêng sẽ phù hộ cho con!”
Blackthorne giằng tay ra và nói bằng tiếng Spain, giọng khàn khàn:
“Cầu Chúa phù hộ cho cha!.”
Cánh cửa đóng sầm lại sau lưng anh.
Trời hôm đó mát và dịu không ngờ, mây lững lờ trôi theo ngọn gió Đông Nam hiu hiu.
Anh hít những hơi thật dài làn không khí trong lành, tuyệt vời và máu cuộn chảy trong huyết mạch anh. Toàn thân anh ngập trong một niềm vui sống.
Nhiều tù nhân trần truồng đang đứng ở sân trong cùng với một viên quan, những cai ngục cầm giáo – eta – và một nhóm Samurai. Viên quan mặc kimono màu sẫm và một chiếc áo choàng vai hồ cứng trông như cánh chim và đội mũ nhỏ màu tối. Người này đứng trước mặt người tù thứ nhất, đọc một cuộn giấy mỏng và khi hắn đọc xong, người tù khó nhọc lê bước theo đám cai ngục đi ra phía cửa lớn của sân trong. Blackthorne là người cuối cùng. Khác với những người tù kia, người ta đưa cho anh một cái khố, kimono bằng vải bông và đôi guốc có quai da. Và lính gác của anh là những Samurai.
Anh đã quyết định chạy trốn vào lúc đi qua cổng nhưng khi đến gần ngưỡng cửa, đám Samurai vây chặt anh lại. Họ cùng ra. Một đám đông đang ngó nhìn, sạch sẽ và diêm dúa, cầm dù màu đỏ thắm, màu vàng, màu hoàng yến. Một người đã bị trói vào cây thập ác và cây thập ác đã bị kéo lên không. Và bên cạnh mỗi cây thập ác có hai eta đứng đợi, ngọn giáo dài của chúng lấp loáng trong ánh mặt trời.
Bước đi của Blackthorne chậm lại. Đám Samurai áp sát lại gần hơn, thúc anh đi nhanh. Anh mụ mẫm nghĩ thà chết ngay lúc đi, thật nhanh chóng, còn hơn, và anh nắm chặt tay lại, sẵn sàng lao vào thanh kiếm gần nhất.
Nhưng anh không bao giờ có được cơ hội, vì bọn Samurai đã quay ra khỏi pháp trường, đi tới vùng ngoại ô hướng về phía các đường phố dẫn vào trong thành phố và tới lâu đài Blackthorne lặng lẽ đợi, hầu như nín thở, muốn biết chắc sự thể thế nào. Họ đi qua đám đông, đám đông lùi lại và cúi chào rồi sau đó họ đi vào một đường phố và bây giờ thì không còn có thể nhầm lẫn được nữa.
Blackthorne cảm thấy mình như sống lại.
Khi đã nói được nên lời, anh hỏi:
“Chúng ta đi đâu thế này?” chẳng cần biết họ có hiểu lời anh nói không, cũng chẳng cần để ý là anh đã nói bằng tiếng Anh.
Blackthorne cảm thấy đầu óc quay cuồng. Chân hầu như không chạm đất, quai guốc không đến nỗi khó chịu lắm, áo kimono chạm vào da thịt không phải là không thú vị. Thật ra là rất dễ chịu nữa kia, anh nghĩ. Có lẽ hơi thùng thình một chút nhưng vào một ngày đẹp trời như thế này… đúng là thứ nên mặc trên boong lái.
“Lạy Chúa, lại được nói tiếng Anh thật là tuyệt vời”, anh bảo đám Samurai.
“Jesuma, tôi đã tưởng tôi chết rồi. Đây là cái mạng thứ tám của tôi bị mất. Các ngài có biết không, hở các ông bạn? Bây giờ tôi chỉ còn một mạng nữa thôi. Thôi được, không sao! Hoa tiêu có ít nhất là mười mạng, Anban Carđốc thường nói vậy!.” Đám Samurai có vẻ dần dần tức giận vì những lời lẽ của anh mà chúng không hiểu.
Hãy tự kiềm chế lại nào, anh tự nhủ. Đừng chọc giận chúng quá mức.
Anh để ý thấy bọn Samurai toàn mặc đồ xám. Người của Ishido. Anh đã hỏi cha Alvito tên con người chống lại Toranaga, Alvito đã trả lời:
“Ishido.” Đúng lúc trước khi anh được lệnh đứng dậy rồi bị đem đi. Có phải tất cả bọn áo Xám đều là người của Ishido không? Cũng như tất cả những tên áo Nâu có phải là người của Toranaga không?
“Chúng ta đi đâu thế? Lại đằng kia ư?” Anh trỏ về phía lâu đài đứng sừng sững bên trên thị trấn.” Đằng kia, hai?”
“Hai.” Tên cầm đầu gật cái đầu tròn xoe như một viên đạn đại bác, râu hắn hoa râm.
Ishido muốn gì ở mình? Blackthorne tự hỏi. Tên cầm đầu ngoặt vào một phố khác, mỗi lúc một rời xa cảng. Thế rồi anh trông thấy nó – một chiếc thuyền hai buồm, nhỏ, của Portugal, lá cờ xanh trắng của nó phấp phới trong gió nhẹ. Mười khẩu đại bác trên boong chính, với đại bác bắn đạn hai mươi
“Pao” (một
“Pao” bằng khoảng 450 gram) ở mũi và ở lái. Erasmus có thể thắng được nó dễ dàng, Blackthorne tự nhủ. Thủy thủ của mình ra sao rồi? Họ đang làm gì ở làng? Mẹ kiếp, mình rất muốn được gặp họ. Ngày hôm đó mình để họ lại để trở về nhà mình, nơi Onna Haku đang sống, nhà của… tên ông ta là gì nhỉ? À
phải rồi, Mura-san. Còn cô gái đó thế nào rồi, cô gái trên giường của mình đặt ở sàn, và cả cô kia nữa, cô gái đẹp như thiên thần hôm đó nói chuyện với Omi-san? Lại còn cô gái trong giấc mơ cùng ở trong vạc nữa.
Nhưng tại sao lại nhớ đến cái chuyện ngớ ngẩn ấy? Nó làm suy yếu đầu óc.
“Anh phải giữ cho cái đầu rất khỏe mới sống được với biển cả”, Alban Caradoc đã nói vậy. Tội nghiệp Anban. Alban Caradoc luôn hiện ra, to lớn như thần thánh, cái gì cũng thấy, cái gì cũng biết, trong bấy nhiêu năm trời. Nhưng ông ta đã chết trong kinh hoàng. Hôm ấy là ngày thứ bảy của trận Admiral .
Blackthorne đang chỉ huy một thuyền buồm nhỏ một trăm tấn, có trang bị lao ngạnh rời khỏi Portsmouth, chở lén vũ khí và thuốc súng, đạn và lương thực cho các chiến thuyền của Drake ở ngoài khơi Dover khi chúng đã.xông vào tàn phá hạm đội địch đang vượt qua eo biển tới Đoongkéc, nơi các đạo quân Spain đang nằm đợi để lên thuyền sang chinh phục England.
Hạm đội của Spain đã bị tan tác vì bão táp và nhất là vì những chiến thuyền hung dữ hơn, nhanh nhẹn hơn, dễ điều khiển hơn mà Drake và Howard đã đóng.
Blackthorne đang tham gia cuộc tiến công xoáy lốc gần tàu chỉ huy, tàu Renown của đô đốc Howard thì bỗng gió đổi chiều làm sức bão tăng lên, những cơn gió mạnh khủng khiếp, và anh đã phải quyết định có nên chạy theo gió để tránh loạt đại bác sắp bắn ra từ chiếc thuyền lớn Santa Cruz ngay phía trước mặt, hay là chạy một mình đơn độc ngược chiều gió, xông qua hạm đội của địch; các chiến thuyền khác của Howard đã quay mũi cả rồi chạy quá về phía Bắc.
“Lái về phía Bắc, theo chiều gió!” Alban Caradoc gào lên. Ông là chỉ huy phó trên tàu. Blackthorne là thuyền trưởng kiêm hoa tiêu và là người chịu trách nhiệm chính, đây là lần đầu tiên anh giữ cương vị chỉ huy. Alban Caradoc đã nằng nặc đòi đi chiến đấu mặc dù ông không có quyền được lên thuyền, có điều ông là người Anh mà tất cả người Anh đều có quyền lên chiến thuyền vào thời điểm đen tối nhất này của lịch sử.
“Dừng lại!” , Blackthorne ra lệnh và quay tay lái hướng về phía Nam, xông thẳng vào giữa hạm đội địch. Anh biết chạy ngược lại sẽ bị đại bác của chiến ‘thuyền Spain bắn chìm ngay, lúc này nó đã lù lù ở ngay bên cạnh rồi.
Thế là họ chạy về phía Nam, ngược chiều gió, xuyên qua các chiến thuyền địch. Loạt đại bác của cả ba boong tàu Santa Cruz đã may mắn bay qua đầu họ và anh đã nã được hai loạt đạn đại bác vào tàu Santa Cruz, thật ra chỉ là muỗi đốt đối với một chiến thuyền to lớn như thế, rồi sau đó họ chạy thẳng qua trung tâm hạm đội địch.
Các chiến thuyền Spain ở hai bên không dám bắn vào chiếc thuyền đơn độc đó vì các loạt đạn của chúng có thể bắn vào nhau, cho nên các họng pháo đều câm lặng. Rồi chiếc thuyền của Blackthorne đã ra khỏi vòng vây đang chạy trốn thì bỗng loạt đạn của cả ba boong tàu Madre de Dios bắn chặn đầu chặn đuôi họ. Cả hai cột buồm đổ vật xuống, nhiều người bị mắc vào trong đám dây rợ và vải buồm đó. Một nửa boong chính bên phải biến mất, người chết và người hấp hối nằm ngổn ngang khắp nơi.
Anh đã trông thấy Alban Caradoc nằm tựa vào một giá súng bị bắn vỡ, bé tí tẹo thật không tưởng tượng nổi vì ông ta không còn chân nữa. Anh bế người thủy thủ già lên tay, mắt ông gần như bật ra khỏi hố mắt, tiếng kêu của ông thật ghê sợ:
“Ôi, lạy Chúa, tôi không muốn chết, không muốn chết, cứu tôi với. Cứu tôi với! Ôi lạy Chúa, đau quá, cứu tôi với!” Blackthorne biết chỉ còn làm được mỗi một việc cho Alban Caradoc. Anh nhặt cái chốt hầm lái, lấy hết sức đập mạnh xuống.
Thế rồi, nhiều tuần lễ sau, anh đã phải nói cho Phêlêxiti biết cha cô đã chết. Anh không nói gì hơn, chỉ nói rằng Carađốc đã chết ngay lập tức. Anh không kể cho cô biết anh đã vấy máu trên tay, những vết máu không bao giờ sạch được.
Blackthorne và đám Samurai lúc này đang đi qua một đường phố rộng, ngoằn ngoèo. Không có cửa hàng cửa hiệu gì cả, chỉ có những ngôi nhà liền nhau, mỗi nhà nằm trên mảnh đất của nó, trong hàng rào cao. Nhà, hàng rào và cả con đường đều sạch sẽ đến choáng váng.
Sự sạch sẽ này không thể ngờ được đối với Blackthorne, vì ở London và các thành phố, thị trấn ở Anh – và Châu Âu nữa – rác rưởi, đồ phế thải ban đêm và nước tè đều hắt ra cả đường phố, rồi có người quét dọn hoặc để đấy thành đống cho đến khi khách bộ hành, xe, bò, ngựa không thể qua được. Chỉ đến lúc ấy, có lẽ các nơi đó mới được quét dọn.
Việc quét dọn ở London là do những đàn lợn lớn được xua ra trên đường chính vào ban đêm. Chuột và những đàn chó hoang, mèo hoang rồi hỏa hoạn làm phần lớn công việc quét dọn ở London. Và ruồi nữa.
Nhưng Osaka hoàn toàn khác. Họ làm thế nào nhỉ? anh tự hỏi. Không có ổ gà, không có những đống phân ngựa, không có những vệt bánh xe, không có rác rưởi gì hết. Chỉ có đất nện chặt được quét dọn sạch sẽ. Tường bằng gỗ, nhà bằng gỗ, gọn ghẽ, bóng loáng. Và đâu rồi những đám ăn mày và tàn tật làm hôi thối các thị trấn của thế giới KIto giáo? Và những bọn cướp đường, những thanh niên hung tợn lẩn lút trong bóng tối?
Họ đi ngang qua, mọi người đều lễ phép cúi chào, có người còn quỳ xuống. Các phu kaga khiêng kiệu hoặc khiêng kaga có một người nằm, hối hả đi qua. Những đám Samurai – áo xám cả, không có áo nâu – lững thững đi trên đường phố.
Họ đang đi qua một phố hai bên có cửa hiệu thì bỗng chân Blackthorne khuỵu xuống. Anh ngã sóng soài.
Đám Samurai đỡ anh đứng dậy, nhưng lúc này anh không còn sức và không thể đi được nữa.
“Gomen nasai, dozo ga matsu
” – Xin lỗi, xin các ông đợi cho một chút, anh nói, hai chân bị chuột rút. Anh xoa mạnh vào bắp chân đã cứng lại và thầm cảm ơn cha Domingo về những điều vô giá ông đã dạy anh.
Tên cầm đầu đám Samurai nhìn anh, nói một thôi một hồi.
“Gomen nasai, nihon ga ga hanase masen
” – Xin lỗi, tôi không nói được tiếng Nhật. Blackthorne đáp, anh nói chậm nhưng rành mạch.
“Dozo, ga matsu.”
“A! So desu, Anjin-san, Wakari masu”, tên kia nói, hắn hiểu. Hắn ra lệnh, ngắn gọn và mạnh mẽ rồi một tên Samurai vội vã chạy đi. Được một lúc, Blackthorne đứng dậy, cố gắng lết đi, nhưng tên cầm đầu Samurai bảo:
“Iyé” rồi ra hiệu cho anh đợi đấy.
Chẳng bao lâu, tên Samurai đã trở lại với bốn tên phu kaga mình trần trùng trục với chiếc kaga. Tên Samurai trỏ cho Blackthorne cách nghiêng cáng và nắm lấy chiếc
dây da treo lủng lẳng ở đòn giữa.
Cả đoàn lại tiếp tục đi. Chẳng mấy chốc Blackthorne đã hồi sức và muốn đi bộ, nhưng anh biết mình còn yếu. Mình phải tranh thủ nghỉ ngơi mới được, anh thầm nghĩ. Mình chẳng còn dự trữ gì trong người nữa. Phải tắm một cái rồi ăn. Ăn thật sự.
Lúc này họ đang leo lên những bậc rộng nối liền phố này với phố khác và đi vào một khu cư dân mới ở bên rìa một cánh rừng khá rộng có cây to và đường mòn chạy xuyên qua. Blackthorne cảm thấy hết sức thích thú đã ra khỏi các phố, cảm thấy lớp cỏ được chăm sóc tốt mềm mại dưới bàn chân, con đường mòn ngoằn ngoèo xuyên qua những hàng cây.
Khi đã đi sâu vào trong rừng thì có một bọn khác, khoảng hơn ba mươi tên Áo Xám đi từ chỗ ngoặt phía trước tiến lại gần. Đến nơi, chúng dừng lại và sau những nghi thức thông thường chào nhau giữa hai viên đội trưởng, mọi con mắt đều đổ dồn vào Blackthorne. Một loạt câu hỏi và trả lời nổ ra rồi khi những người đó bắt đầu tập hợp lại để từ biệt thì viên đội trưởng của họ thản nhiên rút kiếm ra đâm xuyên qua người viên đội trưởng của đám Samurai đi với Blackthorne.
Đồng thời đám Samurai mới xông tới những tên Samurai còn lại của nhóm trước. Cuộc phục kích đột ngột và được bố trí giỏi đến nỗi cả mười tên Áo Xám hầu như bị giết chết cùng một lúc. Không một tên nào kịp rút kiếm ra.
Bọn phu kaga hoảng sợ quỳ cả xuống, đầu gục trong đám cỏ. Blackthorne đứng bên cạnh họ. Viên đội trưởng Samurai, một gã chắc nịch bụng to, phái người của hắn ra hai đầu con đường mòn canh gác. Những tên Samurai khác thì thu nhặt kiếm của bọn đã chết. Trong suốt thời gian đó, chúng không hề để ý đến Blackthorne, cho đến lúc anh lùi lại định bỏ đi. Ngay lập tức một mệnh lệnh của tên đội trưởng rít lên, rõ ràng là bắt anh đứng lại tại chỗ .
Một mệnh lệnh nữa, thế là tất cả bọn Áo Xám này lột bỏ kimono đồng phục của chúng. Bên dưới chúng mặc một mớ giẻ rách, mỗi thứ một mảnh và những kimono đã cũ. Tất cả kéo mặt nạ chúng đã đeo sẵn ở cổ lên che mặt. Một tên thu thập các bộ đồng phục màu xám rồi biến vào trong rừng.
Chắc là bọn cướp, Blackthorne nghĩ. Nếu không tại sao lại phải đeo mặt nạ? Chúng muốn gì ở mình?
Bọn cướp bình thản trò chuyện với nhau, lau kiếm của chúng vào quần áo của bọn Samurai đã chết, vừa làm vừa nhìn anh.
“Anjin-san hai
“Cặp mắt tên đội trưởng bên trên chiếc mặt nạ bằng vải tròn xoe, đen lánh và soi mói.
“Hai”, Blackthorne đáp, người nổi da gà.
Gã kia trỏ xuống đất, rõ ràng là bảo anh không được động đậy.” Wakari masu ka?”
“Hai.”
Chúng nhìn anh từ đầu đến chân. Rồi một trong hai tên đứng gác ở đầu đường – không còn mặc đồng phục màu xám nữa, nhưng đeo mặt nạ như cả bọn – từ trong bụi ló ra trong chốc lát, cách đó độ trăm bước. Hắn vẫy tay rồi lại biến mất.
Ngay lập tức, cả bọn vây quanh Blackthorne, chuẩn bị đi. Tên cầm đầu bọn cướp đưa mắt nhìn đám phu kaga đang run rẩy như những con chó của một ông chủ tàn ác và họ lại càng vùi sâu đầu vào cỏ.
Tên tướng cướp quát lên một mệnh lệnh. Cả bốn người phu từ từ ngẩng đầu lên, ngơ ngác không tin. Mệnh lệnh đó lại vang lên lần nữa và đám phu cúi lạy, phủ phục xuống đất, và lùi lại rồi cả bọn nhất tề ù té chạy biến vào trong rừng.
Tên cướp khinh bỉ nhếch mép cười và ra hiệu cho Blackthorne đi trở về thành phố.
Anh cất bước đi cùng với chúng, trong lòng tuyệt vọng. Chẳng thể nào chạy thoát được.
Cả bọn đã ra tới gần bìa rừng thì bỗng đứng lại. Phía trước có tiếng ồn ào và một toán khoảng ba chục tên Samurai quặt vào chỗ rẽ. Áo Nâu và Áo Xám. Áo Nâu đi trước, thủ lĩnh của chúng nằm trong kaga, vài con ngựa thồ theo sau. Chúng dừng ngay lại. Cả hai bên tản ra, dàn trận, nhăm nhăm nhìn nhau một cách thù địch, cách nhau khoảng bảy mươi bước.
Tên tướng cướp bước ra chỗ trống giữa hai bên, động tác của hắn giật giật rồi hắn giận dữ hét lên với đám Samurai kia, tay trỏ vào Blackthorne rồi lại trỏ vào chỗ lúc nãy đã xảy ra cuộc phục kích. Hắn rút kiếm ra, vung lên một cách hăm dọa, rõ ràng là bảo với đám kia rút đi nhường đường cho bọn hắn.
Gươm của tất cả bọn cướp đều được rút ra khỏi vỏ. Theo lệnh tên cầm đầu, một tên cướp đứng vào sau Blackthorne, kiếm giơ cao, sẵn sàng. Thế rồi tên cầm đầu lại nói một thôi một hồi với phía đối diện.
Một lúc khá lâu không có gì xảy ra. Sau đó Blackthorne thấy người trong kaga bước xuống và anh nhận ra ngay lập tức. Đó là Kasigi Yabu. Yabu quát lại tên tướng cướp nhưng tên này hung dữ múa kiếm lên, ra lệnh cho bên kia tránh ra. Hắn nói một tràng rồi dừng lại, vẻ dứt khoát. Yabu bèn ra lệnh, cộc lốc rồi hét lên một tiếng hô xung trận, xông tới, chân tập tễnh, kiếm giơ cao. Người của lão lao theo cùng với lão. Bọn Áo Xám ở phía sau, không xa mấy.
Blackthorne ngồi thụp xuống để tránh lưỡi kiếm có thể chém anh đứt làm đôi, nhưng nhát kiếm ấy không vung ra kịp, vì tên cướp đã quay đầu bỏ chạy vào rừng. Người của hắn chạy theo sau.
Bọn Áo Nâu và Áo Xám nhanh chóng tới cạnh Blackthorne đang lồm cồm đứng dậy. Một số Samurai đuổi theo bọn cướp, một số khác chạy ngược con đường mòn, số còn lại tản ra canh chừng. Yabu dừng lại bên cạnh bụi cây, hách dịch quát tháo ra lệnh rồi thong thả quay trở lại chân tập tễnh càng rõ.
“So desu, Anjin-san”, lão nói, miệng thở hổn hển vì đã cố sức.
“So desu, Kasigi Yabu-san”, Blackthorne đáp, dùng lại đúng câu Yabu nói, có nghĩa đại khái là
“Tốt”,
“Thế à” hoặc
“Có đúng thế không?.” Anh chỉ về phía bọn cướp bỏ chạy.
“Do mo.” Anh lễ phép cúi chào, theo tư thế bình đẳng rồi thầm ban phước lành một lần nữa cho cha Domingo.
“Gomen nasai, nihon ga ga hanase masen.” Rất tiếc, tôi không nói được tiếng Nhật.
“Hai”, Yabu nói, ngạc nhiên không ít, rồi nói thêm câu gì đó, Blackthorne không hiểu.
“Tsuyaku ga imasu ka?” Blackthorne hỏi. Ông có thông ngôn không?
“Iyé, Anjin-san. Gomen nasai.”
Blackthorne cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Bây giờ thì anh có thể nói chuyện trực tiếp được. Anh biết tiếng không nhiều, nhưng đây là bắt đầu.
Hừ, ước gì ta có một người thông ngôn, Yabu suy nghĩ. Lạy trời lạy Phật!
(Kho tư liệu của Hội NVHP)