Shogun Tướng quân – Tiểu thuyết của James Clavel (Anh) – Kì 36

Dịch giả: Ngô Vĩnh Viễn và Bùi Phụng

Blackthorne chưa bao giờ trông thấy ai bé nhỏ như thế.

“Konnichi wa”, anh nói.

“Konnichi, Toranaga Sama.” Anh cúi chào như một triều thần, gật đầu với đứa trẻ đang quỳ, mắt thao láo mở to bên cạnh Toranaga, và với người đàn bà to béo đằng sau ông ta. Họ đều ngồi cả trên hàng hiên xung quanh túp lều nhỏ. Lều chỉ có một gian phòng nhỏ, với những bức rèm thô kệch, rầm nhà đẽo bằng rìu, mái lợp tranh và đằng sau là khu nhà bếp.

Lều dựng trên những chồng gỗ xếp ngay ngắn, cách mặt đất là một thảm cát trắng tinh chừng một bộ. Đây là nhà trà dùng cho nghi thức trà đạo và được xây cất rất tốn kém bằng những vật liệu hiếm quý chỉ để dùng vào mỗi một việc đó thôi, tuy đôi khi, vì những túp lều đó biệt lập, trong các bụi cây, cho nên chúng còn được sử dụng cho những cuộc hẹn hò và những cuộc trò chuyện riêng tư.

Blackthorne vén kimono ngồi lên chiếc đệm đặt trên cát bên dưới, trước mặt họ:

“Gomen nasai, Toranaga Sama, nihon go ga hanase masen. Tsuyaku go imasu ka?”

“Thưa senhor, tôi là người thông ngôn cho ông”, Mariko nói ngay, bằng tiếng Portugal hầu như hoàn hảo.

“Nhưng ông nói tiếng Nhật được ư?”

“Không, thưa senhorita (cô, tiểu thư- xưng hô với phụ nữ chưa chồng), chỉ nói được vài chữ, vài câu thôi”, Blackthorne đáp, sửng sốt. Anh chờ đợi cha Alvito làm thông ngôn và Toranaga sẽ có các Samurai đi theo và có lẽ có cả Yabu nữa. Nhưng chẳng có tên Samurai nào ở bên, tuy có nhiều tên vây quanh khu vườn.

“Đại nhân Toranaga của tôi hỏi rằng… Nhưng trước hết, có lẽ tôi phải hỏi xem ông có thích nói tiếng Latin không?”

“Tiếng nào cũng được, xin tùy bà, thưa senhorita.” Như bất cứ con người có giáo dục nào, Blackthorne có thể viết đọc và nói tiếng Latin vì tiếng này là ngôn ngữ duy nhất của việc học hành trên khắp thế giới văn minh. Người đàn bà này là ai? Bà ta học được tiếng Portugal hoàn hảo như thế ở đâu? Lại cả tiếng Latin nữa? Còn học ở đâu nữa ngoài đám dòng Temple, anh nghĩ. Tại một trong những trường học của chúng. Ồ, chúng quả là khôn khéo! Việc đầu tiên chúng làm là xây dựng một trường học!

Inhatiut LoaYola lập ra Hội của Jesus mới cách đây có bảy mươi năm thế mà bây giờ trường học của chúng, những trường học tốt nhất trong thế giới KIto giáo, đã rải rác khắp thế giới và ảnh hưởng của chúng dựng ông vua này lên, hạ ông vua kia xuống, chúng được Giáo hoàng tin nghe. Chúng đã chặn đứng trào lưu Tân giáo và bây giờ đang giành lại những vùng đất đai rộng lớn cho giáo hội của chúng.

“Vậy ta nói tiếng Portugal”, Mariko nói.

“Chúa công tôi muốn biết ông học được ở đâu

“Vài câu vài chữ” tiếng Nhật đó?”

“Thưa senhorita, trong ngục có một thầy tu, một tu sĩ dòng Francis. Ông ta đã dạy tôi. Những từ như

“Thức ăn, bạn, tắm, đi lại, đúng, sai, đây, kia, tôi, ông, xin mời, cảm ơn, muốn, đừng, không” vân vân. Tiếc thay mới chỉ bắt đầu được tí chút. Xin bà nói với Đại nhân Toranaga rằng bây giờ tôi đã sẵn sàng hơn để trả lời các câu hỏi của ngài, sẵn sàng giúp đỡ và quả thật hài lòng không ít là đã được ra khỏi ngục. Tôi xin cảm ơn Đại nhân về điều đó.”

Blackthorne chăm chú theo dõi trong khi người phụ nữ quay lại nói với Toranaga. Anh biết lẽ ra anh nên nói giản dị hơn, bằng những câu ngắn và phải thận trọng bởi vì, không như ông tu sĩ đã phiên dịch đồng thời lời anh nói, người phụ nữ này đợi cho anh nói xong rồi mới tóm lược hoặc diễn giải lại những điều đã nói…

Vấn đề thông thường của tất cả các thông ngôn, trừ những tay cừ khôi nhất, tuy rằng ngay cả những người này, cũng như với ông tu sĩ dòng Temple, thường để cho cá tính của mình ảnh hướng tới những điều đã nói ra, một cách cố ý hoặc không cố ý. Được tắm rồi xoa bóp, được ăn và ngủ hai tiếng đồng hồ, anh tỉnh táo lại rất nhiều.

Những người phục vụ tắm, tất cả đều là những phụ nữ to lớn, khỏe mạnh, đã đấm lưng cho anh, gội đầu cho anh, tết tóc thành một đuôi sam gọn gàng, rồi người thợ cạo cắt tỉa râu cho anh. Người ta đưa cho anh một cái khố sạch, kimono và khăn thắt lưng, tabi và guốc. Phản anh nằm ngủ rất sạch sẽ, cũng như gian phòng. Tất cả cứ như trong mơ vậy. Và sau một giấc ngủ không mộng mị gì hết, anh thức dậy và trong thoáng chốc, tự hỏi không biết đây là đâu ở đây hay nhà tù.

Anh nóng ruột chờ đợi, hi vọng sẽ lại được dẫn đến gặp Toranaga và dự tính sẵn những điều sẽ nói, những gì sẽ tiết lộ, làm thế nào để khôn hơn, đánh lừa được Cha Alvito và làm như thế nào để nắm được ưu thế đối với ông ta. Và đối với Toranaga. Vì anh biết, không còn nghi ngờ gì nữa, do những điều cha Domingo đã nói về người Portugal, về chính trị Nhật Bản và sự buôn bán ở Nhật Bản, bây giờ anh có thể giúp Toranaga và đánh đổi lại Toranaga có thể dễ dàng cho anh những của cải mà anh muốn có.

Và lúc này đây, chẳng có tu sĩ nào để phải đấu trí, anh lại càng cảm thấy tự tin hơn. Ta chỉ cần một chút may mắn và kiên nhẫn thôi.

Toranaga đang chăm chú lắng nghe cô thông ngôn trông giống như búp bê.

Blackthorne suy nghĩ, mình có thể một tay nhấc bổng cô ta lên và nếu mình đặt hai bàn tay quanh eo lưng cô ta thì có lẽ ngón tay mình sẽ chạm nhau. Cô ta độ bao nhiêu tuổi nhỉ? Thật hoàn mỹ! Có chồng chưa? À, không thấy đeo nhẫn cưới. Thú vị đây? Cô ta không đeo bất cứ thứ đồ trang sức nào. Trừ những chiếc trâm bạc trên đầu. Mà cả cái người phụ nữ kia cũng vậy, cái bà béo ấy.

Anh cố nhớ lại. Hai người phụ nữ kia ở trong làng cũng không đeo đồ trang sức nào cả và anh cũng không thấy người nào trong gia đình Mura đeo trang sức. Tại sao vậy?

Mà cái bà béo kia là ai? Vợ Toranaga chăng? Hay là bảo mẫu của đứa trẻ? Thằng bé đó có phải là con của Toranaga không? Cha Domingo có nói rằng người Nhật chỉ có một vợ nhưng còn thê thiếp – những người tình hợp pháp – thì muốn có bao nhiêu cũng được.

Người thông ngôn có phải là thê thiếp của Toranaga không?

Có một người đàn bà như thế trong giường ngủ của mình thì nó ra thế nào nhỉ? Mình sợ sẽ đè bẹp cô ta mất.

Không, cô ta sẽ không bị đè bẹp đâu. Ở Anh cũng có những phụ nữ nhỏ nhắn gần như thế. Nhưng không như cô này.

Thằng bé còn nhỏ, lưng thẳng, mắt tròn xoe, tóc đen rậm, túm lại thành một cái đuôi sam ngắn, đầu không cạo. Nó có vẻ hết sức tò mò.

Không kịp suy nghĩ, Blackthorne nháy mắt. Đứa bé giật nảy mình rồi phá ra cười và ngắt lời Mariko, trỏ Blackthorne nói cái gì đó, và cả bọn nghe nó với một vẻ rộng lượng, không ai bắt nó im. Khi nó nói xong, Toranaga nói mấy câu ngắn gọn với Blackthorne.

“Đại nhân Toranaga hỏi tại sao senhor lại làm như vậy?”

“Ồ, chỉ là làm vui đứa bé thôi. Nó cũng là trẻ như bất kỳ trẻ con nào và trẻ con ở nước tôi thường hay cười nếu ta làm như thế. Con trai tôi bây giờ chắc cũng trạc tuổi nó. Con trai tôi lên bảy.”

“Thế tử lên bảy”, Mariko nói trong một giây lát im lặng, rồi mới dịch lại những điều anh vừa nói.

“Thế tử à? Có phải như thế có nghĩa là con trai duy nhất của Đại nhân Toranaga không?” Blackthorne hỏi.

“Đại nhân Toranaga có chỉ thị cho tôi đề nghị ông nên tự giới hạn mình vào việc trả lời những câu hỏi thôi.”

Rồi nàng nói tiếp:

“Tôi tin nếu ông tỏ ra kiên nhẫn, thưa ông thuyền trường hoa tiêu Blackthorne, ông sẽ có cơ hội để hỏi bất cứ điều gì ông muốn hỏi sau này.”

“Tốt lắm.”

“Tên ông rất khó đọc, thưa senhor, vì chúng tôi không có những tiếng để phát âm cho đúng. Cho nên, vì Đại nhân Toranaga, tôi có thể dùng cái tên Nhật Bản của ông là Anjin-san được không?”

“Được thôi, có sao đâu!” Blackthorne định hỏi nhưng kịp nhớ lời bà ta vừa nói và tự nhắc nhở mình phải kiên nhẫn.

“Cảm ơn ông, Đại nhân của chúng tôi hỏi, ông có con cái nào khác không?”

“Một con gái. Nó sinh ra đúng lúc tôi sắp rời nhà tôi ở Anh. Cho nên bây giờ nó khoảng lên hai.”

“Ông có một vợ hay nhiều vợ?”

“Một. Đó là phong tục nước tôi. Cũng như Portugal và Spain. Chúng tôi không có vợ lẽ… Vợ lẽ chính thức ấy.”

“Đó có phải là người vợ thứ nhất của ông không?”

“Xin ông cho biết, ông bao nhiêu tuổi?”

“Ba mươi sáu.”

“Ở Anh, ông sống ở đâu?”

“Ở ngoại ô của Cha Tham, một cảng nhỏ gần London.”

“London là thủ phủ của các ông phải không?”

“Vâng.”

“Đại nhân hỏi ông nói được những thứ tiếng nào?”

“Anh, Portugal, Spain, Holland và tất nhiên, tiếng Latin nữa.”

“Holland là gì?”

“Đó là một thứ tiếng ở Châu Âu, ở nước Holland. Rất giống tiếng Đức.”

Mariko cau mày.

“Holland là một thứ tiếng ngoại đạo ư? Cả tiếng Đức nữa?”

“Cả hai nước đó đều là những nước không theo Thiên Chúa giáo”, anh thận trọng trả lời.

“Xin lỗi, nhưng như thế cũng chẳng khác gì ngoại đạo.”

“Không, thưa senhorita, Cơ đốc giáo chia làm hai tôn giáo rất riêng biệt, rành mạch: Thiên Chúa giáo và Tin Lành. Đó là hai cách hiểu Cơ đốc giáo. Giáo phái ở Nhật Bản là theo Thiên Chúa giáo. Lúc này cả hai phe rất kình địch nhau.” Anh nhận thấy vẻ ngạc nhiên của bà ta và cảm thấy Toranaga có vẻ sốt ruột vì bị gạt ra ngoài cuộc trò chuyện. Hãy cẩn thận, anh tự trách mình. Chắc chắn là người Thiên Chúa giáo. Hãy hướng câu chuyện vào sự việc thôi. Và nói đơn giản.

“Có lẽ Đại nhân Toranaga không muốn bàn luận về tôn giáo, thưa senhorita, như đã được bàn luận phần nào tại cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi.”

“Ông là người Cơ đốc giáo theo đạo Tin Lành?”

“Vâng.”

“Và những người Cơ đốc giáo theo đạo Thiên Chúa là kẻ thù của ông?”

“Đa số họ coi tôi là tà đạo và kẻ thù của họ, vâng.”

Bà ta ngập ngừng rồi quay về phía Toranaga nói rất dài.

Có nhiều lính gác quanh hoa viên. Tất cả đều ở xa. Tất cả đều là bọn Áo Nâu. Blackthorne bỗng nhận thấy có mười tên Áo Xanh ngồi thành một nhóm riêng trong bóng râm, mắt nhìn chăm chăm cả vào đứa bé. Như thế có ý nghĩa gì? Anh tự hỏi.

Toranaga đang chất vấn Mariko rồi nói thẳng với Blackthorne.

“Đại nhân chúng tôi muốn biết về ông và gia đình ông.” Mariko bắt đầu.

“Về đất nước ông, Nữ hoàng nước ông và những người trị vì xưa kia, phong tục tập quán và lịch sử. Cũng như thế về tất cả các nước khác, nhất là Portugal và Spain. Tất cả mọi điều về thế giới ông sống. Về các tàu thuyền, vũ khí, thức ăn, buôn bán của các ông. Về các cuộc chiến tranh và những trận đánh của các ông. Cách làm thế nào để điều khiển một con tàu, lái tàu và những gì đã xảy ra trong cuộc hành trình của ông. Đại nhân muốn hiểu. Xin lỗi tại sao ông lại cười?”

“Chỉ vì thưa senhorita, hình như có nghĩa là về tất cả những gì tôi biết.”

“Đó chính là ý muốn của Chúa công tôi.

“Chính” có phải là từ đúng không?”

“Đúng, thưa senhorita. Cho phép tôi có lời khen ngợi tiếng Portugal của bà, rất hoàn hảo.”

Chiếc quạt của Mariko hơi rung động.

“Cám ơn senhor. Vâng, Chúa công tôi muốn biết sự thật về mọi thứ, những sự việc thật và ý kiến của ông.”

“Tôi rất sung sướng được nói để Đại nhân biết. Có thể cũng mất chút thời gian đấy.”

“Đại nhân tôi nói là Đại nhân có thời gian.”

Blackthorne nhìn Toranaga.” Wakari masu.”

“Xin lỗi senhor, Chúa công tôi ra lệnh cho tôi nói với ông rằng phát âm của ông hơi sai.” Mariko bày cách cho anh nói như thế nào và anh nhắc lại rồi cám ơn bà ta.

“Tôi là senhora ( bà, phu nhân-xưng hô với phụ nữ đã có chồng) Mariko Buntaro chứ không phải senhorita.”

“Vâng, thưa senhorra.” Blackthorne liếc nhìn Toranaga.

“Bà muốn tôi bắt đầu từ đâu?”

Mariko hỏi Toranaga. Một nụ cười thoáng qua trên gương mặt gân guốc của Toranaga.

“Đại nhân nói là từ đầu.”

Blackthorne biết đây là một thử thách nữa. Từ vô vàn khả năng, anh nên bắt đầu từ cái gì? Nên nói với ai? Với Toranaga, đứa bé hay người phụ nữ này? Rõ ràng, nếu chỉ đàn ông có mặt thôi thì phải nói với Toranaga, nhưng bây giờ thì sao? Tại sao có mặt phụ nữ và đứa bé? Điều này hẳn có ý nghĩa gì.

Anh quyết định tập trung vào đứa bé và đám phụ nữ.

“Thời xưa, trị vì đất nước tôi là một ông vua vĩ đại có một thanh kiếm thần gọi là Echxcalibơ và hoàng hậu là người đẹp nhất nước. Cố vấn chính của vua là một pháp sư tên là Mơlin, còn tên vua là Atơ.” Anh bắt đầu một cách tự tin, kể lại huyền thoại mà cha anh thường kể rất hay trong lớp sương mù thời thơ ấu.

“Kinh đô của vua Atơ gọi là Camelot và thời ấy thật là sung sướng, không có chiến tranh, mùa màng thu hoạch tốt và…” Bỗng anh nhận ra sai lầm ghê gớm của mình. Phần chủ yếu của câu chuyện là kể về Gainơve và Laxelốt, một bà hoàng hậu ngoại tình và một chư hầu bất trung, về Mođrét, đứa con trai hoang của vua Atơ, đã phản bội lại bố, gây chiến tranh chống lại bố, và kể về một người cha đã giết chết con trai mình trong chiến trận nhưng lại bị con trai mình đánh tử thương. Ôi, lạy Chúa, làm sao ta lại ngu xuẩn thế? Toranaga có khác gì một ông vua lớn? Những người kia chằng phải là phu nhân của ông ta sao? Đây chẳng phải là con trai ông ta sao?”

“Senhor, ông khó ở à?”

“Không… Không, xin lỗi… chỉ có điều là…”

“Thưa senhor, ông đang nói về vị vua nào đó, và mùa màng tốt đẹp…”

“Vâng. Đó… cũng như phần lớn các nước, quá khứ của chúng tôi bị bao phủ trong truyền thuyết và huyền thoại, đa số là những chuyện không quan trọng”, anh ấp úng nói, cố tìm cách kéo dài thời gian.

Mariko nhìn anh, lộ vẻ phân vân. Con mắt của Toranaga càng soi mói, còn đứa bé thì ngáp.

“Ông đang nói gì, thưa senhor?”

“Tôi… à…”, bỗng anh lóe lên một ý.

“Có lẽ cách tốt nhất là tôi vẽ một cái bản đồ thế giới, thưa senhorra, theo như chính tôi biết”, anh vội vã nói.” Các vị có muốn thế không?”

Mariko dịch và anh thấy một ánh thích thú trong mắt Toranaga, nhưng chẳng thấy gì hết từ phía đứa trẻ và các phụ nữ. Làm thế nào để lôi cuốn họ?

“Chúa công tôi đồng ý. Tôi sẽ cho người đi lấy giấy…”

“Cảm ơn bà. Nhưng thế này cũng được rồi. Cho lúc này. Sau đây, nếu bà cho tôi vài thứ để viết, tôi sẽ có thể vẽ được một bản đồ chính xác.”

Blackthorne rời khỏi cái đệm của anh và quỳ xuống. Anh lấy ngón tay vẽ một bản đồ thô sơ trước cát, ngược chiều để họ nhìn rõ hơn.” Quả đất tròn như một quả cam, nhưng bản đồ quả đất thì như cái vỏ quả cam, cắt thành những hình bầu dục, từ Bắc xuống Nam. trải phẳng ra và hơi kéo căng một chút ở đỉnh và ở đáy. Một người Holland tên là Meccato đã phát minh ra cách vẽ chính xác này cách đây hai mươi năm. Đó là bản đồ thế giới chính xác đầu tiên. Thậm chí ta có thể đi biển được với bản đồ này… hay với những quả địa cầu của ông ta.” Anh mạnh bạo vạch ra các lục địa.

“Đây là phía Bắc, đây là phía Nam, phía Đông, phía Tây. Nhật Bản ở đây, nước tôi ở kia, phía bên kia quả đất. Toàn bộ chỗ này là không ai biết đến và chưa được khám phá…” Bàn tay anh loại bỏ tất cả ở Bắc Mỹ , phía Bắc một đường chạy dài từ-Mexico tới Đất Mới, tất cả ở Nam Mỹ , trừ Pêru và một dải đất hẹp ven biển chạy quanh lục địa này, rồi xóa bỏ tất cả ở phía Bắc và phía Đông Na Uy, phía Đông Maxcơva, toàn bộ châu Á, toàn bộ lục địa châu Phi, mọi thứ phía Nam Giava và mỏm chót của Nam Mỹ.

“Chúng tôi biết các bờ biển còn ngoài ra chẳng biết gì mấy. Bên trong châu Phi, châu Mỹ và châu Á hầu như hoàn toàn bí ẩn.” Anh dừng lại để Mariko dịch cho kịp. Bây giờ nàng dịch dễ dàng hơn và anh cảm thấy họ mỗi lúc một chú ý hơn. Đứa trẻ cựa quậy và nhích lại gần hơn một chút.

“Thế tử muốn biết chúng ta ở đâu trên bản đồ.”

“Đây Đây là Cathay, Trung Hoa, theo tôi nghĩ. Tôi không biết chúng ta cách bờ biển bao xa. Thuyền tôi phải mất hai năm mới đi được từ đây đến đấy.”

Toranaga và người phụ nữ vươn cổ ra để nhìn cho rõ hơn.

“Thế tử nói , nhưng tại sao chúng ta lại bé xíu như thế trên bản đồ của ông?”

“Đây chỉ là một tỉ lệ thôi, thưa senhora. Trên lục địa này, từ Đất Mới ở đây đến-Mexico ở đây, có đến gần một nghìn hải lý, mỗi hải lý là ba dặm. Từ đây đến Yedo là khoảng một trăm hải lý.”

Mọi người đều im lặng rồi họ nói chuyện riêng với nhau.

“Đại nhân Toranaga muốn ông chỉ trên bản đồ cho biết ông đã tới Nhật Bản như thế nào?”

“Theo đường này. Đây là eo Magellan. Ở đây, mỏm mút của Nam Mỹ . Nó được đặt tên của nhà hàng hải Portugal đã phát hiện ra nó cách đây tám mươi năm. Từ đó, người Portugal và Spain đã giữ bí mật con đường này để dùng riêng. Chúng tôi là những người ngoài đầu tiên đi qua eo. Tôi có được một trong những hải đồ bí mật của họ. Một kiểu bản đồ, nhưng ngay như thế, tôi vẫn phải đi mất sáu tháng mới qua được vì gió ngược.”

Mariko dịch những lời anh nói. Toranaga ngước nhìn, không tin.

“Chúa công tôi nói rằng ông đã nhầm. Tất cả bọn man… tất cả tất cả Portugal đều đến từ phía Nam. Đó là con đường của họ, con đường duy nhất.”

“Đúng. Đúng là người Portugal ưa thích đường đó hơn… Chúng tôi gọi là mũi Hảo Vọng – vì họ có hàng tá pháo đài rải dọc các bờ biển này. Châu Phi và Ấn Độ và quần đảo Hương Liệu… để cung cấp lương thực và để trú chân qua mùa đông. Và các chiến thuyền của họ tuần tiễu chiếm độc quyền các con đường trên biển. Tuy nhiên, người Spain dùng eo Magellan để đi tới các thuộc địa của họ ở châu Mỹ , Thái Bình Dương và tới Philippines hoặc vượt qua đây, tại eo đất hẹp ở Panama, đi qua trên bộ để tránh mất nhiều tháng trên biển. Đối với chúng tôi, đi qua eo biển Magellan an toàn hơn vì nếu không, chúng tôi sẽ bị tất cả các pháo đài Portugal thù địch đánh tới tấp, liên tục. Xin bà nói với Đại nhân Toranaga rằng bây giờ tôi biết vị trí của nhiều pháo đài đó. Tiện đây cũng xin nói, đa số sử dụng quân lính Nhật Bản”, anh nói thêm một cách trịnh trọng.

“Tu sĩ cho tôi biết điều đó trong tù là người Spain đối địch với người Portugal, với tất cả các tu sĩ dòng Temple.”

Blackthorne thấy có phản ứng ngay tức khắc trên gương mặt Mariko và khi bà ta dịch, cũng thấy có phản ứng trên gương mặt Toranaga nữa. Cứ mặc bà ta và cố gắng đơn giản, anh tự nhủ mình.

“Quân lính Nhật Bản ư? Ông muốn nói là những Samurai?”

“Tôi cho rằng Ronin thì có lẽ đúng hơn.”

“Ông nói một bản đồ bí mật. Đại nhân muốn biết làm sao mà ông lấy được?”

“Một người tên là Pieter Suyderhof , người Holland, là thư ký riêng của Tổng Giám mục ở Goa – đó là danh hiệu tu sĩ Thiên Chúa giáo đứng đầu ở Goa, thủ phủ của thuộc địa Portugal ở Ấn Độ. Tất nhiên các vị đều biết là người Portugal đang tìm cách chiếm lục địa này bằng vũ lực? Với tư cách là thư ký riêng của vị Tổng Giám mục này, vốn cũng là Phó vương Portugal, mọi tài liệu đều qua tay ông ta. Sau nhiều năm, ông ta lấy được một số hải đồ đem chép lại. Những hải đồ này cho thấy những bí mật về con đường đi qua eo biển Magellan và cũng cho biết cách vượt quanh mũi Hảo Vọng, những chỗ cạn và đá ngầm từ Goa đến Nhật Bản qua Macao. Hải đồ của tôi là về eo biển Magellan. Tôi mất giấy tờ của tôi cùng với chiếc thuyền. Những giấy tờ ấy rất quan trọng và có thể có giá trị to lớn đối với Đại nhân Toranaga.”

“Chúa công tôi nói sẽ ra lệnh tìm kiếm. Xin ông nói tiếp.”

“Khi Suyderhof trở về Holland, ông ta bán các tài liệu đó cho Công ty thương mại Đông Ấn, là Công ty được phép độc quyền thăm dò vùng Viễn Đông.”
(kho tư liệu của Hội NVHP)

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder