Người dịch: Ngô Vĩnh Viễn và Bùi Phụng
CHƯƠNG 19
~ Cha Alvito cưỡi ngựa đi từ lâu đài xuống đồi, dẫn đầu đoàn tu sĩ dòngTemple tùy tùng thường lệ. Tất cả đều mặc như các nhà sư Phật giáo, trừ chuỗi tràng hạt và cây thánh giá đeo ở ngang thắt lưng. Có tất cả bốn mươi tùy tùng người Nhật, con trai những gia đình Samurai khá giả theo đạo Cơ đốc, học sinh trường Dòng ở Nagasaki, theo ông Osaka. Tất cả đều cưỡi ngựa tốt, mặc đẹp và kỷ luật như tùy tùng của bất cứ Daimyo nào.
Alvito thúc ngựa chạy nước kiệu nhanh, quên cả ánh nắng nóng ấm, xuyên qua rừng và các phố của thị trấn, hướng về phía Hội truyền giáo dòng Temple, một tòa nhà lớn bằng đá xây theo kiểu Châu Âu. Nó ở gần bến tàu và vươn lên cao trên những căn nhà phụ, những kho tàng, nơi đổi chác và buôn bán tất cả lụa là của Osaka.
Đoàn người lộp cộp chạy qua cổng sắt lớn gắn vào những bức tường đá cao ngất, tiến vào sân trung tâm bên trong lát đá và dừng lại gần cửa chính. Những người hầu đã chực sẵn để đỡ cha Alvito xuống ngựa. Ông tụt khỏi yên và ném dây cương cho họ. Đinh thúc ngựa ở giày ông kêu lanh canh trên đá khi ông rảo bước trên con đường có hành lang bao quanh của tòa nhà chính, ngoặt vào một góc. Ông đi qua nhà nguyện nhỏ, xuyên qua vài cổng vòm vào tới sân trong cùng nơi có bể nước phun và một hoa viên yên tĩnh. Cửa phòng ngoài đã mở sẵn. Cha Alvito gạt bỏ mọi lo lắng, tự trấn tĩnh lại rồi bước vào.
“Chỉ có một mình thôi phải không?” ông hỏi.
“Không, Mactin, không”, cha Xônđi nói. Ông là một người bé nhỏ, hiền lành, mặt rỗ, quê ở Napoli, đã làm thư ký cho Đức cha Thanh tra gần ba mươi năm nay, hai mươi lăm năm ở châu Á.
“Thủy sư đô đốc Ferriera cũng có mặt. Vâng,
“Con sông” cũng có mặt. Nhưng Đức cha truyền mời cha vào ngay.”
“Có chuyện gì rắc rối thế. Mactin?” .
“Không có gì đâu.” Xônđi làu nhàu rồi quay lại mài chiếc bút lông ngỗng.
“Không có gì đâu, Đức cha khôn ngoan nói thế. Được thôi, rồi tôi sẽ biết ngay ấy mà.”
“Vâng”, Alvito nói. Ông thấy mến ông già này. Ông đi tới cửa buồng phía trước. Củi trong lò sưởi đang cháy, soi sáng những đồ đạc nặng nề, đẹp và đen bóng vì lâu đời, vì luôn luôn được lau chùi cẩn thận. Một bức tranh nhỏ của Tintoretto vẽ Đức Bà Đồng Trinh và Chúa Hài Đồng của Đức cha Thanh tra mang theo từ Roma – Alvito rất thích bức tranh này được treo bên lò sưởi.
“Cha đã gặp gã Ingeles rồi phải không?” Cha Xônđi hỏi với theo.
Alvito không trả lời. Ông gõ vào cánh cửa.
“Mời vào.”
Carlo Dell’Aqua, Cha Thanh tra ở châu Á, đại diện của chính Tổng giáo chủ dòng Temple, là tu sĩ dòng Temple cao niên nhất và do đó có thế lực nhất ở châu Á, và cũng là người có tầm vóc cao nhất. Ông cao tới sáu bộ ba tấc, với một hình thể bên ngoài tương xứng. Ông mặc áo thụng màu da cam, cây thánh giá của ông tuyệt đẹp. Đầu ông cạo trọc ở chỏm, tóc bạc, ông sáu mươi mốt tuổi và vốn sinh ra là người Napoli.
“A, Mactin, vào đi, vào đi. Uống chút rượu vang nhé?” ông nói tiếng Portugal với giọng trơn tru, lưu loát của những người Italia.
“Cha đã gặp tên người Anh rồi chứ?”
“Thưa Đức cha, chưa ạ. Mới chỉ gặp Toranaga thôi.”
“Tình hình xấu, phải không?”
“Vâng.”
“Rượu vang nhé?”
“Cảm ơn Đức cha.”
“Xấu như thế nào?” Ferriera hỏi. Thủy sư đô đốc ngồi bên cạnh lò sưởi trong chiếc ghế có lưng tựa cao, hãnh diện và rực rỡ màu sắc như một con chim ưng – ông là Jidaglio. Thủy sư đô đốc cửa tàu Naoden Terato, chiếc Black Ship của năm nay, trạc ba lăm ba sáu, mảnh khảnh và dữ tợn.
“Thưa ngài Thủy sư độ đốc, tôi nghĩ là rất xấu. Chẳng hạn Toranaga nói rằng vấn đề buôn bán năm nay có thể phải đợi đấy.”
“Rõ ràng là việc buôn bán không thể đợi được, mà tôi cũng không thể đợi”, Ferriera nói.
“Triều lên là tôi giong buồm ra khơi.”
“Tôi cứ tưởng mọi việc đã thu xếp ổn thỏa từ nhiều tháng trước rồi.” Ferriera nguyền rủa luật lệ của người Nhật đòi mọi tàu bè, ngay cả tàu bè của họ, phải có giấy phép ra vào.
“Chúng ta không thể để những luật lệ bản xứ ngu xuẩn, ngớ ngẩn trói buộc chúng ta được. Cha đã bảo cuộc gặp gỡ đó chỉ là vấn đề nghi thức thôi kia mà… để lấy các giấy tờ…”
“Lẽ ra là thế, nhưng tôi đã nhầm. Có lẽ tốt hơn hết là tôi sẽ giải thích…”
“Tôi phải trở về Macao ngay để chuẩn bị chiếc Black Ship. Chúng tôi đã mua hàng lụa tốt nhất tại Hội chợ Quảng Châu tháng hai, trị giá một triệu đuca và chúng tôi sẽ chuyên chở ít nhất là mười vạn aoxơ vàng Trung Hoa. Tôi nghĩ tôi đã nói rất rõ là mỗi một xu của tiền Macao, Malaca, Goa, mỗi một xu mà các nhà buôn và các cha ở Macao có thể vay được, đều đã bỏ vào chuyến buôn này của năm nay. Và xu của các ông nữa.”
“Chúng tôi cũng biết rõ tầm quan trọng của việc này như ông”, Dell’Aqua nói với giọng chua cay.
“Xin lỗi ông Thủy sư đô đốc, nhưng Toranaga là chủ tịch Hội đồng Nhiếp chính và theo tục lệ là phải đến gặp ông ta”, Alvito nói.
“Ông ta sẽ không bàn luận gì đến công việc buôn bán năm nay hay giấy phép rời bến của ông. Lúc đầu, ông ta còn nói ông ta không tán thành cái chuyện ám sát.”
“Ai làm chuyện đó, thưa cha?” Ferriera hỏi.
“Toranaga nói gì vậy, Mactin?” Dell’Aqua nói.
“Có phải đây là mưu mẹo gì không? ám sát? Cái đó có liên quan gì đến chúng ta?”
“Ông ta nói rằng: Tại sao người Cơ đốc giáo các ông lại muốn giết viên hoa tiêu, người tù của tôi?”
“Cái gì?”
“Toranaga tin rằng vụ mưu sát đêm qua là nhằm vào tên Ingeles, chứ không phải nhằm vào ông ta. Ông ta cũng nói còn có một vụ mưu sát nữa ở trong tù.” Alvito nhìn chằm chặp vào gã quân nhân.
“Cha buộc tội tôi chuyện gì chứ?” Ferriera nói.” Một vụ mưu sát? Tôi ấy ư? Ở lâu đài Osaka? Đây là lần đầu tiên tôi đến Nhật Bản!”
“Ông khẳng định không biết gì về chuyện đó?”
“Tôi không phủ nhận một điều là cái tên tà giáo đó chết càng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu”, Ferriera lạnh lùng nói.
“Nếu bọn Holland và bọn Anh bắt đầu truyền bá rác rưởi bẩn thỉu của chúng ở châu Á thì chúng ta sẽ rắc rối. Tất cả chúng ta.”
“Chúng ta đã gặp rắc rối rồi”, Alvito nói.
“Toranaga thoạt đầu nói rằng qua tên Ingeles, ông ta hiểu độc quyền của người Portugal về buôn bán với Trung Hoa đã đem lại những món lãi không thể tưởng tượng được. Người Bồ Đk”>&o Nha đặt giá lụa quá cao, cao một cách kỳ cục, chỉ có người Portugal mua được lụa ở Trung Hoa, trả bằng thứ hàng duy nhất người Trung Hoa chấp nhận để đánh đổi là bạc Nhật Bản… mà bạc này thì người Portugal cũng lại định giá quá hạ. Hạ đến mức nực cười. Toranaga nói:
“Vì giữa Trung Hoa và Nhật Bản có sự thù địch về mọi sự buôn bán giữa hai nước, chỉ có người Portugal được phép buôn bán cho nên tiền thù lao
“Bù đắp” cho các hoa tiêu phải do người Portugal chính thức đảm nhận, – bằng văn bản. Ông ta
“Mời” Đức cha cung cấp cho các Nhiếp chính một bản tường trình về tỉ giá hối đoái – bạc đổi lụa, lúa đổi bạc, vàng đổi bạc. Ông ta còn nói thêm rằng, tất nhiên ông ta không phản đối việc chúng ta kiếm lời lớn, miễn là kiếm lời từ phía người Trung Hoa.”
“Tất nhiên, cha sẽ từ chối một yêu cầu ngạo mạn như thế chứ?” Ferriera nói.
“Khó lắm.”
“Thế thì nộp cho họ một bản tường trình giả.”
“Như thế sẽ gây nguy hiểm cho toàn bộ địa vị của chúng ta, vốn dựa trên lòng tin”, Dell’Aqua nói.
“Đức cha có thể tin được một tên Nhật Bản không? Dĩ nhiên là không rồi. Lời lãi của chúng ta phải được giữ bí mật. Cái thằng tà giáo trời đánh thánh vật đó!”
“Tôi rất lấy làm tiếc mà nói rằng Blackthorne có vẻ rất am hiểu tình hình”, Alvito bất giác nhìn Dell’Aqua, trong giây lát ông ta quên cảnh giác đề phòng.
Đức cha Thanh tra nín lặng.
“Tên Nhật Bản đó còn nói gì nữa?” Ferriera hỏi, làm ra vẻ không trông thấy cái liếc nhìn giữa hai người, thầm mong muốn biết được toàn bộ sự hiểu biết của họ.
“Toranaga có yêu cầu tôi trưa mai cung cấp cho hắn một bản đồ thế giới với những đường phân định ranh giới giữa Portugal và Spain, tên các Giáo hoàng đã tán thành các hiệp ước và các ngày tháng. Hắn
“Thỉnh cầu” trong vòng ba ngày cho hắn một bản giải thích viết về các công cuộc
“Chinh phục” của chúng ta ở Tân thế giới và
“Hoàn toàn vì lợi ích riêng của tôi thôi”, đó là nguyên văn lời hắn nói, tổng số vàng bạc đã lấy được – thực ra hắn dùng từ
“Cướp”, ở Tân thế giới đưa về Spain và Portugal. Và hắn cũng thỉnh cầu có được một bản đồ khác trình bày phạm vi các đế quốc của Spain và Portugal cách đây một trăm năm, cách đây năm mươi năm và ngày nay, cùng với vị trí chính xác các căn cứ của chúng ta từ Malaca đến Goa – nhân đây cũng nói là hắn kể tên các căn cứ đó rất chính xác: các tên đó được viết ra một mảnh giấy – và cả số lượng lính đánh thuê Nhật Bản mà chúng ta có ở từng căn cứ.”
Dell’Aqua và Ferriera thất kinh.
“Tuyệt đối phải từ chối!” gã quân nhân nói oang oang.
“Không thể từ chối Toranaga được”, Dell’Aqua nói.
“Thưa Đức cha, tôi nghĩ rằng Đức cha quá tin ở địa vị quan trọng của hắn”, Ferriera nói.
“Tôi thấy hình như tên Toranaga này chẳng qua cũng chỉ là một tên bạo chúa trong số rất nhiều tên bạo chúa, một tên ngoại đạo giết người, chắc chắn không đáng phải sợ. Đức cha cứ từ chối đi. Không có chiếc Black Ship của chúng ta, toàn bộ nền kinh tế của chúng sẽ sụp đổ. Chúng van lạy ta để có được lụa Trung Hoa. Không có lụa sẽ. không có kimono. Chúng cần có sự buôn bán của chúng ta. Quỷ tha ma bắt cái thằng Toranaga. Chúng ta có thể buôn bán với các ông chúa theo đạo Cơ đốc – tên họ là gì nhỉ? Onoshi , Kiyama, và các ông chúa Cơ đốc giáo khác ở Kyushu. Xét cho cùng, Nagasaki đấy, chúng ta ở đấy rất mạnh, mọi sự buôn bán là ở đấy”!
“Không được, đô đốc ạ”, Dell’Aqua nói.
“Đây là lần đầu tiên ông đến Nhật Bản cho nên ông không hiểu được các vấn đề của chúng tôi ở đây. Vâng, họ cần chúng ta, nhưng chúng ta còn cần họ hơn. Không có sự biệt đãi của Toranaga và của Ishido, chúng ta sẽ mất hết ảnh hưởng đối với các vua chúa theo Cơ đốc giáo. Chúng ta sẽ mất Nagasaki và tất cả mọi thứ chúng ta đã xây đựng năm mươi năm qua. Phải chăng ông đã thúc đẩy vụ mưa sát hoa tiêu tà đạo kia?”
“Ngay từ đầu tôi đã nói công khai với Rodrigues và với bất cứ ai khác muốn nghe rằng tên Ingeles là tên kẻ cướp nguy hiểm, nó sẽ làm ô uế tất cả những ai tiếp xúc với nó và do đó cần phải khử nó bằng mọi cách. Thưa Đức cha, Đức cha cũng nói bằng những lời lẽ khác. Và cả cha Alvito nữa. Chẳng phải vấn đề đó đã được đặt ra tại cuộc họp của chúng ta với Onoshi và Kiyama hai ngày trước đây đó sao? Chẳng phải Đức cha đã nói rằng tên kẻ cướp đó là nguy hiểm sao?”
“Đúng. Nhưng…”
“Thưa Đức cha, xin Đức cha tha tội cho tôi, nhưng đôi khi những người lính cần phải làm công việc của Chúa theo cái cách tốt nhất họ có thể làm được. Tôi cần phải thưa với Đức cha rằng tôi rất tức giận Rodrigues vì anh ta đã không
“Tạo” ra được một
“Tai nạn
“Trong khi có bão. Trong tất cả mọi người , đáng lý ra anh ta phải biết chứ! Lạy Chúa, hãy xem tên quỷ Ingeles đã làm gì với chính Rodrigues. Anh chàng ngu xuẩn đó lại còn biết ơn nó đã cứu sống mình, trong khi đó chỉ là một mưu mẹo rất lộ liễu để tranh thủ lòng tin của anh ta. Chẳng phải Rodrigues đã bị lừa gạt đi đến chỗ cho phép tên hoa tiêu tà đạo chiếm đoạt cả sàn lái của mình, chắc chắn là đã làm anh ta suýt chết đó sao? Còn vụ mưu sát ở lâu đài, ai biết được chuyện gì đã xảy ra? Việc này hẳn là phải do một tên bản xứ ra lệnh, một trò Nhật Pủn. Tôi mà bố trí việc khử nó thì các vị có thể yên trí là nó sẽ bị khử.”
Alvito nhấm nháp cốc rượu vang.
“Toranaga nói rằng hắn đã đưa Blackthorne đi Izu.”
“Bán đảo ở phía Đông ấy ư?” Ferriera hỏi.
“Vâng.”
“Bằng đường bộ hay đường thủy?”
“Đường thủy.” .
“Tốt. Vậy thì tôi lấy làm tiếc mà nói với cha rằng mọi thủy thủ đều có thể mất tích ở biển trong một cơn bão bất hạnh.”
Alvito lạnh lùng nói:
“Và tôi lấy làm tiếc phải nói với ông Thủy sư đô đốc rằng Toranaga… Tôi nói nguyên văn lời hắn… Toranaga đã nói rằng:
“Tôi sẽ đặt vệ sĩ canh phòng bảo vệ hoa tiêu, Tsukku-san ạ, và nếu có chuyện gì xảy ra với hắn, việc đó sẽ được điều tra với toàn bộ quyền bính của tôi, của các Nhiếp chính ở mức tối đa. Nếu chẳng may một tên theo đạo Cơ đốc là thủ phạm hay bất cứ kẻ nào có quan hệ xa xôi với người theo đạo Cơ đốc giáo, thì hoàn toàn có thể là các sắc lệnh về trục xuất sẽ được xem xét lạị và rất có thể là tất cả các nhà thờ, trường học, nơi nghỉ của đạo Cơ đốc sẽ bị đóng cửa ngay lập tức…”
Dell’Aqua nói:
“Cầu Chúa không để cho chuyện đó xảy ra.”
“Bịp”, Ferriera cười khẩy.
“Không, ông nhầm rồi, ông Thủy sư đô đốc ạ. Toranaga khôn ngoan không khác gì Makiaveli và tàn bạo như gã Hung nô Attila.”
(Nocola Makiaveli (1469-1527) : Chính khách và là nhà văn Ý, nổi tiếng khôn khéo, xảo quyệt. Attila : Vua Hung nô (thế kỷ V) nổi tiếng hung bạo và tàn ác.)
Alvito quay lại nhìn Dell’Aqua.
“Nếu có chuyện gì xảy ra với tên Ingetes, thì đổ trách nhiệm lên đầu chúng ta cũng dễ thôi.”
“Đúng.”
“Có lẽ cha nên đi vào gốc của vấn đề”, Ferriera lỗ mãng nói.” Khử tên Toranaga đi.”
“Đây không phải là lúc nói đùa”, Đức cha Thanh tra nói.
“Cái đã có kết quả xuất sắc ở Ấn Độ, ở Malaya, Brazil và Pêru,-Mexico, châu Phi và những nơi khác thì cũng sẽ có kết quả ở đây. Chính tôi đã làm việc đó ở Malaca và Goa, hàng chục lần với sự giúp đỡ của những tên lính đánh thuê Nhật Pủn mà tôi thì làm gì có được uy quyền và tri thức như các cha. Chúng ta sẽ sử dụng các lãnh Chúa theo đạo Cơ đốc, sẽ giúp một người trong số họ khử tên Toranaga đi, nếu hắn cản trở. Chỉ cần vài trăm conquistadors là đủ. Hãy chia để trị. Tôi sẽ tiếp xúc với Kiyama. Cha Alvito, nếu cha…”
“Ông không thể đánh bằng người Nhật, người Ấn Độ hay những tên mọi rợ vô học như người Inca. Ông không thể chia để trị ở đây được. Nhật Bản không giống bất kỳ quốc gia nào khác. Hoàn toàn không.” Dell’Aqua mệt mỏi nói.
“Tôi cần phải chính thức yêu cầu ông, thưa ông Thủy sư đô đốc, ông không được can thiệp vào chính trị nội bộ của đất nước này.”
“Xin vâng. Xin Đức cha hãy quên đi những điều tôi đã nói. Quá cởi mở, thật tình đúng là thiếu tế nhị và ngây thơ. May mắn bão tố là chuyện bình thường vào thời gian này trong năm.”
“Nếu có bão thì cái đó nằm trong tay Chúa. Nhưng ông không được tiến công viên hoa tiêu.”
“Ồ?.”
“Không được. Và cũng không được ra lệnh cho bất cứ ai làm việc đó.”
“Tôi có bổn phận với đức vua của tôi là phải tiêu diệt kẻ thù đức vua của tôi. Tên Ingeles là kẻ thù của quốc gia. Một tên ăn bám, một tên cướp, một tên tà giáo. Nếu tôi quyết định loại trừ nó thì đó là việc của tôi. Tôi là Thủy sư đô đốc của Black Ship năm nay, do đó là toàn quyền Macao năm nay, với quyền hạn của Phó vương đối với hải phận này năm nay. Và nếu tôi muốn diệt nó hay Toranaga hoặc bất kỳ ai thì tôi sẽ làm.”
“Vậy là ông hành động ngược lại với mệnh lệnh trực tiếp của tôi và do đó có nguy cơ bị rút phép thông công ngay tức khắc.”
“Việc này ở ngoài phạm vi quyền hạn của Đức cha. Đây là một vấn đề thế tục, không phải thuộc phần hồn.”
“Cái thế của Giáo hội ở đây, tiếc thay, lại gắn chặt với chính trị và việc buôn bán lụa đến mức mọi chuyện đều động chạm đến an ninh của Giáo hội. Và chừng nào tôi còn sống, thề trước hi vọng cứu rỗi của tôi, không một ai được làm nguy hại đến tương lai của Giáo hội Mẹ ở đây!”
“Cám ơn Đức cha đã cho biết ý kiến rõ ràng như thế, thưa Đức cha. Tôi sẽ cố gắng hiểu biết nhiều hơn nữa về tình hình ở Nhật Bản.”
“Tôi gợi ý là ông nên làm thế, vì tất cả chúng ta. Sở dĩ đạo Cơ đốc được dung thứ ở đây chỉ vì tất cả các Daimyo đều tuyệt đối tin rằng nếu họ trục xuất chúng ta và vùi dập đức tin thì các chiếc Black Ship sẽ không bao giờ trở lại nữa. Tu sĩ dòng Temple chúng ta được vời đến và có được ảnh hưởng trong một chừng mực nào đó là do chỉ chúng ta mới nói được tiếng Nhật, tiếng Portugal và có thể phiên dịch, làm trung gian cho họ về các vấn đề buôn bán. Bất hạnh cho đức tin là những điều họ tin lại không đúng. Tôi tin chắc rằng việc buôn bán vẫn sẽ tiếp tục bất kể cái thế của chúng ta và cái thế của Giáo hội ra sao, bởi vì các thương nhân người Portugal quan tâm đến những quyền lợi ích kỷ riêng của họ hơn là việc phụng sự Chúa của chúng ta.”
“Có lẽ những quyền lợi ích kỷ của các tăng lữ muốn ép buộc chúng tôi… thậm chí đến mức yêu cầu Đức Giáo hoàng cho họ quyền hành hợp pháp… buộc chúng tôi phải ghé tàu vào bất cứ cảng nào do họ quyết định và buôn bán với bất cứ tên Daimyo nào mà họ lựa chọn, bất kể mọi sự rủi ro, cũng là điều hiển nhiên!”
“Ông Thủy sư đô đốc, ông ăn nói không nghiêm chỉnh đấy!”
“Tôi không hề quên rằng chiếc Black Ship của năm ngoái đã mất tích trong khoảng giữa ở đây với Malaca, cùng tất cả thủy thủ trên tàu, với trên hai trăm tấn vàng và bạc nén, trị giá năm trăm ngàn cruxađô, sau khi đã bi trì hoãn một cách không cần thiết mãi cho đến mùa xấu trời mới đi được. Chỉ vì theo lời thỉnh cầu của đích thân Đức cha. Tôi cũng không quên rằng tai họa đó đã hầu như làm cho mọi người từ đây đến Goa khánh kiệt.”
“Việc đó là cần thiết vì Taiko chết và vì tình hình chính trị nội bộ của họ về chuyện kế vị.”
“Tôi không quên Đức cha đã yêu cầu Phó vương ở Goa hủy bỏ các chuyến Black Ship ba năm trước đây, chỉ đưa tàu đến khi nào Đức cha bảo, tới cảng nào do Đức cha quyết định. Tôi cũng không quên là Phó vương ở Goa đã bác bỏ yêu cầu đó như một vụ can thiệp ngạo mạn…”
“Sở dĩ làm như vậy là để khuất phục Taiko, đưa ông ta đến một cuộc khủng hoảng kinh tế giữa lúc ông ta đang tiến hành một cuộc chiến tranh ngu xuẩn với Triều Tiên và Trung Hoa. Vì những vụ tàn sát giáo dân ở Nagasaki do ông ta ra lệnh, vì cuộc tiến công điên rồ của ông ta vào Giáo hội và những sắc lệnh trục xuất ông ta vừa mới ban hành, đuổi tất cả chúng ta ra khỏi Nhật Bản. Nếu ông hợp tác với chúng tôi, nghe theo lời khuyên của chúng tôi, thì chỉ trong một thế hệ, toàn thể nước Nhật sẽ theo Cơ đốc giáo! Cái gì quan trọng hơn: buôn bán hay là cứu rỗi các linh hồn?”
“Câu trả lời của tôi là các linh hồn. Nhưng vì Đức cha đã cho tôi biết rõ về công việc ở Nhật Bản, xin Đức cha cho phép tôi đặt công việc của Nhật Bản vào đúng vị trí của nó. Chỉ có bạc Nhật Bản mới moi được lụa và vàng của Trung Hoa. Những khoản lời lãi to lớn của chúng ta có được do xuất sang Malaca và Goa rồi từ đó về Lisbon hỗ trợ cho toàn bộ đế quốc của chúng ta ở châu Á. Tất cả các pháo đài, các hội truyền giáo, các cuộc chinh phạt, các cha truyền đạo, các phát minh, và trả tiền cho phần lớn – nếu không phải là tất cả – các cam kết của chúng ta ở Châu Âu, ngăn chặn bọn tà đạo lấn lướt chúng ta và không để chúng thâm nhập vào châu Á. Nếu không, chúng sẽ giành được tất cả những của cải chúng cần có để tiêu diệt chúng ta và đức tin ở nước nhà. Cái gì quan trọng hơn, thưa Đức cha – thế giới Cơ đốc giáo Spain, Portugal, hay là thế giới Cơ đốc giáo Nhật Pủn?”
(kho tư liệu của Hội NVHP)