Shogun Tướng quân – Tiểu thuyêt của James Clavel (Anh) – Kì 7

Người dịch : Ngô Vĩnh Viễn & Bùi Phụng

Ông lão cười nhưng những ngón tay vẫn không nghỉ.

“Tôi là người già nhất thế giới – thế giới của tôi. Tất cả những người tôi biết đều đã chết từ lâu. Hẳn phải hơn tám mươi năm – tôi cũng không dám chắc. Tôi phục vụ chúa Yoshi Chikitada, ông của chúa Toranaga, khi thái ấp của dòng họ không lớn hơn cái làng này. Tôi cũng còn ở trong doanh trại ngày Người bị ám sát.”

Yabu cố ý để cho thân thể mình chùng xuống bằng một cố gắng của nghi lực, nhưng trí óc của lão sắt lại, lão bắt đầu nghe chăm chú.

“Đó là một ngày u ám, Yabu Sama. Tôi cũng không còn nhớ lúc ấy tôi bao nhiêu tuổi – nhưng tôi còn chưa vỡ giọng. Kẻ sát nhân là Obata Hiro, con trai của một liên minh mạnh nhất của Người. Có lẽ ngài biết chuyện rồi, cái gã trai trẻ đó chặt phăng đầu chúa Chikitada chỉ bằng một đường kiếm. Đó là lưỡi kiếm của Mura Sama và từ đó nảy ra câu chuyện mê tín rằng tất cả những lưỡi kiếm của Mura Sama đều đem lại rủi ro cho họ nhà Yoshi…”

Có phải lão già kể chuyện này vì lưỡi kiếm Mura Sama của chính ta không? Nhiều người biết ta có thanh kiếm này. Hay chính lão già đã nhớ lại một ngày đặc biệt trong một cuộc đời dài.

“Ông của Toranaga như thế nào?” Lão hỏi, vờ thờ ơ để thử Suwo.

“Cao, thưa Yabu Sama. Cao hơn ngài và gầy hơn nhiều, khi tôi biết Người. Hôm chết, Người hai mươi lăm tuổi.” Giọng của Suwo ấm lại.

“Y… ì, thưa Yabu Sama, Người đã là lính chiến năm mười hai tuổi, mười lăm tuổi làm lãnh chúa khi cha của Người bị giết trong một cuộc giao tranh. Lúc đó chúa Chikitada đã lấy vợ và sinh được một con trai. Người chết đi thật là một điều đáng tiếc. Obata Hiro lúc ấy mới mười bảy tuổi, là bạn và là chư hầu của ông ấy, nhưng có kẻ đã đầu độc trí óc của Ôbata, nói rằng Chikitada đã phản phúc lập kế hoạch giết cha cậu ấy. Tất nhiên, tất cả đều dối trá, nhưng cũng chẳng đem Chikitada trở lại để dẫn dắt chúng ta. Chàng trai trẻ Obata quỳ trước cái xác và cúi lạy ba lần. Cậu ta nói cậu ta làm việc đó vì chữ hiếu đối với cha cậu và bây giờ muốn đền tội bằng cách mổ bụng. Cậu được phép, trước tiên chính tay cậu rửa đầu cho Chikitada rồi để nó ở một nơi tôn kính. Rồi cậu moi bụng mình và chết như một trang nam nhi. Với nghi thức long trọng, một người trong chúng tôi làm người phụ trợ, chặt đầu cậu bằng một nhát kiếm. Sau đó cha cậu tới lượm đầu con trai và thanh kiếm Mura Sama. Sự việc trở nên tồi tệ đối với chúng tôi. Người con trai duy nhất của Chikitada bị bắt làm con tin ở một nơi nào đó và tộc chúng tôi lâm vào thời kỳ đen tối. Đó là . ..”

“Lão già, ngươi nói láo. Ngươi không bao giờ ở đó cả…” Yabu quay người lại, lão chằm chằm nhìn ông già, ông lão lạnh người.

“Thanh kiếm đó đã bị gãy và bị phá hủy sau khi Obata chết…”

“Thưa Yabu Sama, không. Đó là huyền thoại. Chính tôi nhìn thấy người cha lượm đầu và thanh kiếm. Ai lại nỡ lòng phá hủy một tác phẩm nghệ thuật như vậy. Đó sẽ là một điều báng bổ. Ông bố của cậu ấy lượm nó…”

“Ông ấy làm gì với nó?”

“Không ai biết. Một số người nói ông ấy quăng xuống biển, bởi vì ông ấy yêu kính chúa Chikitada như một người anh em. Những người khác lại nói ông ấy chôn nó và nó vẫn chờ đợi người cháu trai của ông, Yoshi Toranaga…”

“Theo ngươi thì ông ấy làm gì với thanh kiếm đó?”

“Ném nó xuống biển…”

“Ngươi có trông thấy ông ấy không?”

“Không.”

Yabu lại nằm xuống. Những ngón tay lại bắt đầu làm việc. Cái ý nghĩ có người biết thanh kiếm ấy chưa bị gãy làm lão rung động kỳ lạ. Ta nên giết Suwo, lão tự nhủ. Tại sao? Làm sao một lão mù có thể nhận ra lưỡi kiếm? Nó giống như bất cứ lưỡi kiếm Mura Sama nào. Vả lại đốc kiếm và bao đã được thay đổi nhiều lần. Không ai có thể biết được thanh kiếm của mình chính là thanh kiếm đã truyền từ tay này qua tay khác với điều bí mật ngày càng tăng, khi quyền lực của Toranaga cũng ngày càng tăng. Tại sao lại giết Suwo? Việc lão ta còn sống đã tăng thêm lòng say mê. Mình được kích thích. Để cho lão già sống – giết lão lúc nào chằng được. Với thanh kiếm này.

Ý nghĩ ấy làm Yabu vui khi lão thả mình chơi vơi một lần nữa. Rồi một ngày gần đây, lão tự hứa với mình, ta sẽ đủ sức mạnh để đeo lưỡi kiếm Mura Sama của ta trước mặt Toranaga. Có lẽ rồi sẽ đến ngày ta nói với ông ta câu chuyện thanh kiếm của ta.

“Rồi sao nữa?” Lão hỏi, mong ước được ru trong giọng nói của ông già.

“Chúng tôi lâm vào một thời thậm xấu. Đó là năm đói lớn, và chủ tôi đã chết, tôi trở thành một Ronin.” Ronin là những người lính nông dân không có đất, không có chủ hoặc là những Samurai vì mất danh dự hoặc mất chủ đã buộc phải đi lang thang cho đến khi một người chủ khác nhận họ. Ronin rất khó tìm được việc làm mới. Thức ăn khan hiếm, người nào cũng làm lính, những người lạ ít khi được tin. Hầu hết bọn cướp và cướp biển là những Ronin.

“Năm đó rất xấu, và cả năm tiếp theo. Tôi đánh thuê cho bất cứ ai – một trận đánh ở đây, một cuộc đụng độ ở kia. Thức ăn là tiền trả cho tôi. Thế rồi tôi nghe nói có rất nhiều cái ăn ở Kyushu, bởi vậy tôi bắt đầu lên đường về phía Tây. Mùa đông ấy, tôi tìm được một thánh đường. Tôi đã được một tu viện Phật giáo thuê làm người gác. Tôi đánh nhau cho họ nửa năm, bảo vệ tu viện và những cánh đồng lúa của họ, chống lại bọn cướp Tu viện gần Osaka và lúc đó rất lâu, trước khi Taiko quét sạch gần hết, bọn cướp dầy đặc như muỗi đầm lầy. Một hôm, chúng tôi bị phục kích, họ để tôi lại vì tưởng đã chết. Mấy nhà sư tìm thấy tôi và chữa vết thương cho tôi. Nhưng họ không thể cho lại được tôi

“Ánh sáng…”

Ngón tay của ông lão cứ ấn sâu mãi.” Họ để tôi ở cùng với một nhà sư mù, ông này dạy tôi xoa bóp và tập nhìn bằng những ngón tay của mình. Bây giờ, ngón tay tôi nói cho tôi nhiều hơn đôi mắt trước kia, tôi nghĩ thế.”

“Cái vật cuối cùng, tôi nhớ lại khi nhìn bằng đôi mắt của tôi là cái mồm rộng hoác và hàm răng hỏng của tên cướp, thanh kiếm loáng một đường vòng cung và sau nhát chém là mùi thơm của hoa. Tôi đã nhìn thấy mùi thơm trong mọi màu sắc của nó, Yabu Sama. Đó là từ rất lâu rất lâu trước khi bọn rợ đến đất của chúng ta – năm mươi, sáu mươi năm trước – nhưng tôi đã nhìn thấy màu sắc của hương thơm. Tôi đã nhìn thấy cõi Niết Bàn, tôi nghĩ thế, và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nhất thấy gương mặt của Phật. Mù loà cũng chỉ là một giá nhỏ trả cho một món quà tặng như vậy, có phải không?”

Không có tiếng trả lời. Suwo cũng không hề đợi một tiếng trả lời. Yabu đã ngủ như được dự tính. Ngài có thích câu chuyện của tôi không, Yabu Sama? Suwo thầm hỏi, sung sướng như một người già. Tất cả đều thật, chỉ trừ một điều. Tu viện không ở gần Osaka mà ở biên giới phía Tây của nhà ngươi. Ikaoa Jikkiu.

Ta có thể bễ gãy cổ ngươi một cách dễ dàng, ông lão nghĩ. Đó sẽ là một ân huệ đối với Omi-san. Đó sẽ là điều nhân đức đối với cả làng. Và sẽ là một đền đáp rất nhỏ một món quà tặng cho người bảo trợ ta. Mình sẽ làm điều đó bây giờ? Hay sau đó?

*

* *

Spillbergen giơ nắm rơm lên, nét mặt ông căng thẳng.

“Ai muốn rút trước?”

Không ai trả lời. Blackthorne dường như đang gà gật ngủ, người tựa vào một góc mà từ hồi nào anh không hề nhúc nhích. Mặt trời gần lặn rồi.

“Phải có người rút trước chứ”, Spillbergen nói xẵng.

“Nào, không còn nhiều thời gian đâu.”

Họ đã được cho thức ăn, một thùng nước và một thùng khác để làm hố xí. Nhưng không có gì để cọ sạch mùi thịt thối rữa và để tắm rửa. Ruồi nhặng đã bay tới. Không khí nặng mùi, đất thì lầy nhầy bùn loãng. Hầu hết đều cởi trần, mồ hôi mồ kê nhễ nhại vì nóng và vì sợ.

Spillbergen nhìn mặt từng người một. Anh ta quay lại chỗ Blackthorne.” Tại sao – tại sao anh lại được loại trừ? Hả? Tại sao?”

Đôi mắt mở ra, nổ băng giá.

“Đây là lần cuối cùng: tôi – không – biết.”

“Như vậy không công bằng. Không công bằng.”

Blackthorne lại quay lại với sự mơ tưởng của mình. Phải có một cách thoát ra khỏi chốn này. Phải có một cách để lấy lại tàu. Cái thằng con hoang đó, cuối cùng sẽ giết tất cả chúng ta, chắc chắn như sao Bắc đẩu vậy. Không còn nhiều thời gian, ta được miễn trừ bởi vì chúng đã có một kế hoạch đốn mạt nào đó cho ta.

Khi nắp hầm sập lại, tất cả đều nhìn anh, có người nào đó đã nói:

“Chúng ta sẽ làm gì?”

“Tôi không biết”, anh đã trả lời.

“Jesuma, cứu giúp chúng con”, có người thì thầm.

“Dọn cái đống này đi.” Anh ra lệnh.” Vun cái đống bẩn thỉu lại chỗ kia!”

“Chúng ta chẳng có khăn tay…”

“Dùng tay!”

Họ làm như anh ra lệnh và anh đã giúp họ lau rửa cho viên hạm trưởng.

“Anh sẽ ổn ngay thôi.”

“Làm cách nào – làm cách nào để chọn ai đó?” Spillbergen hỏi .

“Chúng ta không chọn. Chúng ta sẽ chiến đấu…”

“Bằng gì?”

“Chúng ta như một con cừu đi vào tay đồ tể ư? Anh sẽ làm như thế ư?”

“Đừng có lố bịch – họ không cần tôi – chọn tôi làm người đó là không đúng.”

“Tôi là hạm trưởng.”

“Tại sao?” Vinck hỏi.

“Xin kính ngài”, Vinck nói một cách hài hước,

“Có lẽ ngài nên tình nguyện. Địa vị ngài là phải tình nguyện.”

“Một ý kiến rất tốt”, Pieterzoon nói.” Tôi ủng hộ ý kiến ấy, lạy Chúa.”

Một sự đồng ý chung và ai cũng nghĩ, lạy Chúa Jesus, ai chứ không phải mình.

Spillbergen bắt đầu quát tháo, ra lệnh, nhưng ông chỉ nhìn thấy những con mắt nhẫn tâm. Bởi vậy ông thôi và nhìn chăm chăm xuống đất, người nôn nao. Rồi ông nói.” Không, tình nguyện trong việc này là không đúng. Nó – ờ – chúng ta sẽ – chúng ta sẽ rút thăm. Những cọng rơm, cái ngắn nhất. Chúng ta sẽ để tay – chúng ta sẽ đặt mình trong bàn tay Chúa. Hoa tiêu, anh cầm nắm rơm này.”

“Tôi không. Tôi không làm gì hết. Tôi tuyên bố chúng ta chiến đấu.”

“Chúng sẽ giết tất cả chúng ta. Anh đã nghe tên Samurai đó nói chứ: Chúng ta sẽ không phải chết, trừ một người.” Spillbergen gạt những giọt mồ hôi khỏi mặt, một đám ruồi bay lên rồi lại đỗ xuống.” Cho tôi xin chút nước. Một người chết còn hơn là tất cả chúng ta.”

Van Nekk nhúng cái bầu vào trong thùng và đưa cho Spillbergen.

“Chúng ta có mười người. Kể cả anh, Paulus”, anh ta nói.

“Số lẻ là tốt”

“Rất tốt – trừ phi, anh là cái người đó.” Vinck liếc nhìn Blackthorne.

“Chúng ta có thể đánh gục những thanh kiếm đó không? Nếu anh là người phải chọn, anh có đi một cách ngoan ngoãn tại chỗ kẻ tra tấn mình không?”

“Mình cũng không biết.”

Van Nekk nói,

“Chúng ta sẽ rút thăm. Chúng ta hãy để Chúa định đoạt.”

“Tội nghiệp cho Chúa”, Blackthorne nói.

“Những sự ngu ngốc. Chúa cũng bị trách cứ vì chuyện này!”

“Chúng ta biết chọn cách nào khác?”, có người hét lên.

“Không!”

“Chúng ta sẽ làm như Paulus nói. Ông ấy là hạm trưởng”, Van Nekk nói:

“Chúng ta sẽ rút thăm. Như vậy là tốt nhất đối với đại đa số. Chúng ta sẽ bỏ phiếu. Tất cả chúng ta có đồng ý như thế không?”

Tất cả đều nói có. Trừ Vinck.” Tôi tán thành hoa tiêu. Vứt mẹ nó những cái cọng rơm tẩm nước tè thối tha đó đi!.”

Cuối cùng Vinck cũng được thuyết phục. Jan Roper , người theo thuyết Calvin (thuyết định mệnh) đã dẫn đầu những lời cầu nguyện. Spillbergen bẻ mười cọng rơm một cách chính xác, sau đó anh chia đôi một cọng.

Van Nếch, Pieterzoon, Sonk, Maetsukker, Ginsel, Jan Roper , Salamon, Maximilian, Croocq và Vinck.

Bài viết khác

violin amazon amazon greens powder