Ngừơi dịch: Ngô Vĩnh Viễn và Bùi Phụng
Blackthorne thấy ngứa ở chỗ chân để trần, anh gãi nhưng không để ý đến. Nhưng cái ngứa càng dữ dội. Anh trông thấy vết rận cắn nổi sần lên trong khi Vinck tiếp tục kể hãnh diện.
“Đúng như Bacut nói đấy, hoa tiêu ạ. Tôi có hỏi Sato Sama là chúng tôi có thể đi lại được không, hắn nói được, tại sao không. Họ thường cho tôi mượn chiếc thuyền nhỏ để đi câu cá giết thời gian. Chính cái mũi của tôi đã dẫn tôi đến nơi này, anh hoa tiêu ạ Cái mũi già nua của tôi đã dẫn đến đây: có máu mà!”
Blackthorne nói:
“Một cái lò sát sinh! Một cái lò sát sinh và thuộc da! Đó là…” Anh dừng lại, bỏ lửng.
“Cái gì cơ? Có điều gì vậy?”
“Đây là làng”Đáy tàu thế nào?”
“Sạch bong, hoa tiêu ạ. Tôi không ngờ họ lại làm tốt đến như thế. Cái bọn con hoang này thế mà cũng khéo léo như những thợ mộc, thợ đóng tàu và thợ bện thừng ở Holland đấy. Bộ thừng thật hoàn hảo, mọi thứ đều hoàn hảo.”
“Buồm thì sao?”
“Họ làm một bộ buồm bằng lụa, bền như vải bố. Thêm một bộ dự trữ nữa. Họ lấy buồm của chúng ta xuống rồi bắt chước như hệt, hoa tiêu ạ. Đại bác thì hoàn hảo hết sức, tất cả đã được đặt trên boong, lại còn thuốc súng và vô khối đạn. Con tàu đã được chuẩn bị sẵn sàng để căng buồm ra khơi khi thủy triều lên, và nếu cần thì ngay đêm nay cũng được. Dĩ nhiên là chưa ra biển nên chúng ta không biết chắc được về những cái buồm đó trong gió lớn ra sao, nhưng tôi dám đánh cuộc với mạng sống của tôi là những chỗ chắp nối của con tàu rất khít y như lần đầu tiên con tàu được thả trượt xuống Zuider Zee, còn tốt hơn nữa là bây giờ các thớ gỗ đều khô ráo cả, thật ta phải cảm ơn Chúa!” Vinck nghỉ lấy hơi rồi hỏi:
“Bao giờ ta ra khơi?”
“Một tháng. Khoảng thế!”
Họ lấy khuỷu tay huých vào nhau, tràn trề hứng khởi và la to lên, mừng hoa tiêu và con tàu.
“Tàu địch ra sao? Có nhiều tàu quanh quẩn đây không? Trị giá thế nào, hoa tiêu?” Ginsel hỏi.
“Nhiều lắm. Vượt cả những ước mơ của các bạn. Chúng ta sẽ giàu có, tất cả.”
Lại những tiếng la hét vui sướng.
“Đã đến lúc rồi.”
“Giàu có, hả? Tớ sẽ tậu một tòa lâu đài.”
“Ôi Chúa Toàn năng, khi ta trở về nhà…”
“Giàu có! Hoan hô anh hoa tiêu!”
“Có nhiều bọn đệ tử của Giáo hoàng để ta giết lắm à? Tốt.” Jan Roper nói khẽ,
“Rất tốt.”
“Kế hoạch thế nào đây, hoa tiêu?” Van Nekk hỏi, và cả nhóm ngừng nói chuyện.
“Tôi sẽ nêu ra bây giờ đây. Các bạn có bị lính canh theo dõi không? Các bạn có được đi lại tự do quanh đây không, nếu cần phải đi? Thường thì thế nào…”
Vinck nói nhanh xen vào:
“Chúng tôi được đi lại bất cứ nơi nào quanh khu vực trong làng, có lẽ khoảng nửa dặm quanh đây. Nhưng chúng tôi không được phép vào Yedo và không…”
“Không được qua cầu”, Sonk nói xen vào đúng lúc.
“Hãy nói cho anh ấy biết về cái cầu đi, Johan!”
“Ôi vì lòng yêu Chúa, tớ đã đi qua cầu đó Sonk ạ. Và hãy vì Chúa, đừng có ngắt lời tớ, anh hoa tiêu ạ, có một cái cầu cách đây khoảng nửa dặm về phía tây Nam. Có nhiều dấu hiệu ghi trên đó. Đó cũng là nơi xa nhất mà chúng tôi được phép đi tới. Chúng tôi không được phép đi qua cầu. Kinjiru, lạy Chúa, Samurai nói thế. Anh có hiểu kinjiru là gì không, hoa tiêu?”
Blackthorne gật đầu nhưng không nói gì.
“Trừ chỗ đó ra, chúng.tôi đi đâu cũng được. Nhưng chỉ đến những chỗ có rào chắn thôi. Quanh đây nửa dặm, chỗ nào cũng có rào chắn. Ôi Chúa ơi… sao mà tin được nhỉ, sắp về nhà rồi!”
“Hãy kể cho anh ấy nghe về lão thầy thuốc, và về…”
“Samurai đã cử thầy thuốc đến đây từng thời gian một, hoa tiêu ạ, chúng tớ phải cởi hết quần áo ra và hắn nhìn vào người chúng tớ…”
“Đúng đấy. Đủ để cho một người phải vãi cứt ra khi thấy một thằng con hoang thuộc giống khỉ vô đạo nhìn chòng chọc vào cái thân hình trần trụi của anh như thế.”
“Ngoài cái đó ra, hoa tiêu ạ, chúng không làm phiền nhiễu gì chúng tớ, chỉ trừ…”
“Ấy, đừng có quên lão thầy thuốc đưa chúng ta những gói bột có char bẩn thỉu, bắt phải hòa vào nước nóng uống, nhưng chúng tớ đã quẳng ráo cả đi. Khi chúng ta ốm thì ông bạn già tốt bụng Johan chích máu cho chúng ta là khỏi ngay mà.”
“Đúng thế”, Sonk nói,
“Chúng tớ quẳng hết cả char đi.”
“Ngoài cái đó ra, chỉ trừ….”
“Chúng tớ được may mắn ở lại đây, hoa tiêu ạ, không như lúc đầu.”
“Đúng thế. Lúc đầu…”
“Hãy nói cho anh ấy biết về việc kiểm soát đi, Bacut!”
“Tớ đã định nói đây. Hãy vì Chúa, cứ kiên nhẫn đi, để cho anh ấy còn nghe được chứ. Các cậu cứ lải nhải mãi thế thì làm sao tớ kể cho anh ấy nghe được, hả. Rót cho tớ ly rượu đây!” Van Nekk nói khô khốc rồi tiếp tục.
“Cứ mười ngày một lần, có một bọn Samurai tới đây bắt chúng tớ xếp hàng ở ngoài kia rồi đếm. Sau đó họ cho chúng tớ những túi gạo và tiền, tiền đồng. Có đầy đủ mọi thứ, hoa tiêu ạ. Chúng tớ đổi gạo lấy thịt và vải, hoa quả hoặc cái gì khác nữa. Ở đây có đủ mọi thứ và đối với bọn đàn bà thì chúng tớ cần cái gì là có ngay. Lúc đầu chúng tớ…”
“Nhưng cái đó không giống như lúc ban đầu. Hãy kể cho anh ấy nghe đi, Bacut!”
Van Nekk ngồi bệt xuống sàn.
“Cầu Chúa cho con sức khoẻ!”
“Cậu cảm thấy ốm rồi à, ôi cậu trai già nua đáng thương!” Sonk hỏi han ân cần.
“Tốt nhất là đừng có uống thêm nữa, không có lại bị ma ám đấy. Anh hoa tiêu ạ. Cậu ta bị ma ám đấy, mỗi tuần bị một lần. Tất cả chúng tôi đều thế cả.”
“Cậu có im mồm đi không để tớ kể cho anh hoa tiêu nghe, hả.”
“Ai cơ, tớ ấy à? Tớ có nói câu nào đâu. Tớ có chặn lời của cậu đâu. Đây, rượu của cậu đây!”
“Cám ơn, Sonk. Thế đấy, anh hoa tiêu, đầu tiên là họ nhốt chúng tớ vào một ngôi nhà tại phía Tây thành phố…”
“Gần chỗ cánh đồng ấy.”
“Đáng ghét chưa, thôi thế cậu kể tiếp đi, Johan!”
“Được thôi. Lạy Chúa, anh hoa tiêu ạ, thật là khủng khiếp. Không thức ăn, không nước uống và thứ dây đáng nguyền rủa ấy, cứ như sống giữa đồng không mông quạnh, chẳng biết thò mũi vào đâu, không biết đáy ở chỗ nào, làm bất cứ cái gì cũng không thoát khỏi có người nhìn thấy, hả? Đúng vậy đấy, chỉ một tiếng động nhỏ thôi là những kẻ láng giềng đổ xô đến, và bọn Samurai dàn ngay quân ra, có ai muốn những cái bọn con hoang ấy ở xung quanh đâu, hả? Chúng cứ vung những thanh kiếm đáng nguyền rủa của chúng chĩa vào chúng tớ hò hét ầm ĩ lên, bắt chúng tớ phải im. Thế rồi, có một hôm về ban đêm ai đó làm rơi cây nến, thế là toàn thể cái bọn khỉ đó làm náo loạn địa ngục lên vì chúng tớ! Ôi Chúa ơi. Cậu mà được nghe chúng nói nhỉ. Chúng cứ trèo lên vách tường gỗ cùng với những xô nước, điên loạn lên, rít lên, hét lên, chửi ầm lên… Chỉ có mỗi một bức tường mắc dịch cháy đổ xuống thôi…Thế mà có đến hàng trăm đứa cứ bò trườn trên mái nhà như những con rắn. Đồ con hoang. Cậu lại…”
“Cứ tiếp tục đi!”
“Cậu muốn kể à?”
“Cứ nói tiếp đi, Johan, đừng để ý đến hắn. Hắn chỉ là đồ đầu bếp ỉa dây thôi.”
“Gì hả?”
“Thôi hãy vì Chúa, bịt mồm lại đi.” Van Nekk lại vội kể tiếp.
“Đến ngày hôm sau, anh hoa tiêu ạ, họ bảo chúng tớ rời khỏi ngôi nhà đó đến ở một nhà khác tại khu vực bến tàu. Cũng tồi tệ như thế thôi . Thế rồi vài tuần lễ sau, Johan mò mẫm tới nơi này. Anh ta là người duy nhất trong bọn tớ được phép tới đây, lúc đó là vì chiếc tàu. Họ dẫn anh ta đến đây vào ban ngày, rồi chiều lại trả về. Anh ta đi ra ngoài câu cá, chúng tớ ở chỉ cách khu vực đó có vài trăm thước thôi mà, về phía trên suối… Johan, anh kể cái đó thì tốt hơn.”
của người eta à? Lạy Chúa, dân ở đây là eta à?”
“Có gì sai quấy với những dân eta?” Van Nekk hỏi.
“Đúng đấy, họ là dân eta.”
Blackthorne xua đám muỗi đang bu đầy bầu không khí, da anh sởn lên.
“Những con vật hút máu đáng nguyền rủa này, chúng thật là hôi, đúng không? Ở đây có nhà thuộc da, đúng không?”
“Đúng. Cách đây vài phố. Sao cơ?”
“Chẳng sao cả. Lúc nãy tôi không ngửi thấy gì.Thế thôi.”
“Thế còn dân eta thì sao?”
“Tôi… tôi cũng không hiểu nữa, thật là ngốc nghếch cho tôi. Nếu tôi được trông thấy một trong số những người tôi biết qua kiểu để tóc ngắn của họ. Còn qua đàn bà thì các bạn chằng bao giờ biết được đâu. Thôi, xin lỗi. Tiếp tục câu chuyện đi, Vinck…”
“Được Thế rồi họ nói rằng…”
Bỗng Jan Roper ngắt lời:
“Đợi chút đã, Vinck! Có cái gì sai quấy, anh hoa tiêu. Những tên eta làm sao?”
“Đó là vì người Nhật nghĩ về họ khác. Họ là những người làm nghề đồ tể, lột da súc vật và đào huyệt chôn người.” Anh cảm thấy có những đôi mắt nhìn chăm chú vào mình, đặc biệt đôi mắt của Jan Roper.
“Người eta làm nghề lột da”, anh nói, cố giữ cho giọng nói được bình thường,
“Họ giết những con ngựa già, những con bò già và chôn người chết.”
“Nhưng có gì sai quấy với cái đó. Hoa tiêu? Bản thân anh đã từng tự tay chôn hàng tá người rồi, cho vào vải liệm, rửa ráy cho ho. – Chúng ta đều đã từng thế, phải không? Chúng ta cũng là anh hàng thịt đối với những tảng thịt mà chúng ta vẫn thường ăn. Chính Ginsel đây cũng đã từng làm người treo cổ. Thế thì có gì sai quấy với cái đó?”
“Chẳng có gì cả.” Blackthorne nói, cũng biết rằng đó là sự thực nhưng vẫn cảm thấy nhơ nhuốc thế nào ấy.
Vinck lầm bầm:
“Dân eta là những kẻ vô đạo, nhưng còn tốt hơn cả những dân vô đạo khác ở đây. Họ còn gần giống như chúng ta hơn là bọn con hoang kia. Thật may mắn chúng ta đã được ở đây, hoa tiêu ạ. Thịt tươi thì không thành vấn đề rồi, hoặc là mỡ bò, họ cho chúng tôi thoải mái.”
“Cái đó đúng đấy. Nếu như anh đã từng sống với dân eta, hoa tiêu ạ…”
“Lạy Chúa, anh hoa tiêu phải sống giữa bọn con hoang, suốt từ bấy đến nay! Anh ấy không được biết cái gì tốt hơn thế. Có đi tìm Big Arse Mary không đây, anh Sonk?”
“Hay là Twicklebum?”
“Cứt, không đâu, đừng tìm cái con đĩ già ấy. Anh hoa tiêu phải có loại đặc biệt cơ. Ta hãy đi hỏi mama-san…”
“Tớ đánh cuộc là anh ấy đã đói meo cả bụng ra rồi! Hê, Sonk, cắt cho anh ấy miếng thịt.”
“Thêm ít rượu mạnh nữa.”
“Ba khoanh bánh cho anh hoa tiêu…”
Trong không khí vui vẻ rộ lên, Van Nekk vỗ vai Blackthorne:
“Cậu đã trở về nhà, anh bạn già của tôi ạ. Thế là bây giờ cậu đã trở lại, những lời cầu nguyện của chúng tớ đã được đáp ứng và tất cả mọi thứ trên thế giới này đều tốt đẹp. Cậu đã trở về nhà, anh bạn ạ. Nghe đây, hãy lấy cái giường của tớ ra mà nằm.”
Blackthorne vui vẻ vẫy tay lần cuối. Những tiếng trả lời vang lên trong đêm tối từ phía xa kia, phía bên kia chiếc cầu nhỏ. Thế rồi anh quay lại, lòng nhiệt tình gắng gượng của anh tan biến đi, anh đi vòng khúc đường quanh, khoảng mười vệ sĩ Samurai vây quanh anh.
Trên đường về tòa lâu đài, trí óc anh xúc động. Không có gì sai quấy đối với dân eta và mọi thứ đều sai quấy với dân eta, đó là những thủy thủ của mình, những người của mình, còn dây là những dân ngoại đạo, ngoại quốc và là kẻ thù…
Phố xá, đường đi lối lại và cầu cứ qua đi trong mờ mịt. Thế rồi, anh nhận thấy bàn tay của anh đang thủ trong áo kimono bị ngứa. Anh gãi và dừng lại trên đường.
“Những con vật trời đánh bẩn thỉu này…” Anh cởi dây lưng, giật cái áo kimono ẩm ướt, và do nó đã bẩn, anh liệng xuống cống.
“Dozo, nan desu ka. Anjin-san?”, một Samurai hỏi.
“Nani mo!” Chẳng sao cả, lạy Chúa! Blackthorne tiếp tục bước đi mang theo thanh kiếm.
“Ah! Eta! Wakari masu! Gomen! nasai,”nhóm Samurai thầm thì với nhau nhưng anh không để ý đến họ.
Thế tốt hơn, anh nghĩ nhẹ nhàng thoải mái, không cảm thấy mình hầu như hoàn toàn trần trụi, chỉ nhận thấy không bị ngứa ngáy khó chịu nữa vì cái áo kimono đầy rận đã cởi ra rồi.
Lạy Chúa, làm sao ta được tắm ngay một cái bây giờ!
Anh đã kể lại cho các thủy thủ của anh những bước đường phiêu lưu mà anh sắp gặp phải, nhưng không kể là anh đã trở thành Samurai và Hatamoto, cũng không nói với họ là anh được Toranaga che chở, hoặc về Fujiko, và cả đến Mariko. Anh đã không kể cho họ nghe về chuyện họ sắp bắt buộc phải đổ bộ lên Nagasaki và đưa chiếc Black Ship đi trong giông bão, hay đến chuyện anh sẽ trở thành người đứng đầu các Samurai. Có thể là sau này hãy hay, anh mệt mỏi nghĩ. Và tất cả những chuyện còn lại. Liệu ta có kể với họ về Mariko-san không?
Tiếng guốc gỗ của anh đập ròn rã trên ván của cái cầu thứ nhất. Các lính canh Samurai nhoài người ra nhìn, khi thấy anh qua, họ cúi đầu chào lễ phép. Họ cũng hầu như trần trụi, chăm chú nhìn anh, bởi vì anh chính là tên rợ kỳ quái lại được Đại nhân Toranaga sủng ái một cách đáng ngạc nhiên. Thật không thể tin được, Đại nhân Toranaga đã ban cho người này vinh dự được làm hatmoto và Samurai, một vinh dự mà tù trước tới nay
chưa hề ban cho một tên rợ nào.
Tại cổng chính phía Nam của tòa lâu đài đã có một người dẫn đường khác đợi anh. Anh được tháp tùng cho đến tận nơi ở của mình trong dinh sau. Anh được chỉ định ở trong một căn phòng tại một trong những nhà khá chắc chắn nhưng trông cũng hấp dẫn. Tuy nhiên, anh lễ phép khước từ việc trở lại ngay nơi đó.
“Trước hết phải tắm đã anh bảo người Samurai.
“Ah, tôi hiểu rồi.Ông thật cẩn trọng. Nhà tắm ở phía này, thưa ông Anjin-san. Đúng vậy, đêm nay nóng quá, neh? Và tôi được nghe là ông vừa tới chỗ những tên bẩn thỉu. Những vị khác trong nhà sẽ hoan nghênh việc làm có ý thức của ông. Thay mặt họ tôi xin cám ơn ông.”
Blackthorne không hiểu hết những lời nói đó nhưng anh nắm được ý nghĩa.
“Những kẻ bẩn thỉu, đó là để chỉ vào những người của ta nữa, chúng ta, chứ không phải chúng nó, những tiện dân.”
“Xin chào ông, Anjin-san”, người phụ trách phòng tắm nói. Ông ta là một người trung niên to lớn có cái bụng to tướng và đôi tay nổi bắp. Người hầu gái vừa mới đánh thức ông ta dậy để báo có một người khách muộn màng tới tắm. Ông ta vỗ tay vào nhau. Các cô hầu tắm chạy đến. Blackthorne đi theo họ tới phòng chà xát, họ rửa ráy và xát xà phòng gội đầu cho anh. Anh bảo họ làm lại lần nữa. Sau đó anh bước vào bể, tắm mình vào làn nước ấm làm êm dịu thần kinh.
Lát sau, những cánh tay khỏe mạnh giúp anh bước ra khỏi bể tắm, bôi dầu thơm vào da thịt anh, xoa bóp cổ và các bắp thịt, rồi dẫn anh tới phòng nghỉ ngơi. Họ đưa anh mặc cái áo vải kimono đã được giặt giũ phơi phóng cẩn thận. Anh thở ra một hơi dài khoan khoái, rồi nằm xuống.
“Dozo gomen nasai Anjin-san, trà?”
“Hai, Domo.”
Trà được mang tới. Anh bảo với người hầu gái đêm nay anh sẽ ở đây, không cần phải về nơi nghỉ của anh. Thế rồi một mình một bóng trong tĩnh lặng, anh nhấm nháp vị trà, cảm thấy như mình được thanh lọc.
“Cái loại có char không bẩn thỉu…” anh nghĩ tới câu nói khó chịu.
“Hãy kiên nhẫn nào, đừng nên để cái đó làm nhiễu loạn sự hài hòa trong tâm hồn mình”, anh nói to lên thành tiếng.
“Họ cũng chỉ là những kẻ ngu dốt đáng thương thôi, chẳng biết gì hơn. Trước đây anh cũng thế. Thôi đừng để ý đến cái đó, bây giờ anh đã có thể chỉ bảo cho họ được rồi, neh?”
Anh gạt những ý nghĩ đó ra khỏi đầu óc, lấy tay với quyển từ điển. Nhưng đêm nay, đêm đầu tiên kể từ khi có cuốn sách này, anh cẩn thận đặt nó xuống bên cạnh rồi thổi tắt ngọn nến. Ta mệt quá rồi, anh tự bảo.
Nhưng cũng không đến nỗi quá mệt để trả lời cho câu hỏi giản đơn, anh thầm nói: Có thực họ là những kẻ ngu ngốc hay không, hay chính anh mới là kẻ ngu ngốc?
Ta sẽ giải đáp cái đó sau, khi nào đến lúc cần thiết. Bây giờ thì lời giải đáp không phải là quan trọng. Bây giờ ta chỉ biết ta không cần đến họ ở cạnh ta.
Anh trở mình, xếp vấn đề đó vào một chỗ trong bộ óc và ngủ.
Anh tỉnh dậy, tươi tắn, một áo kimono, một cái khố và tabi đã được đặt sẵn. Bao kiếm của anh đã được đánh bóng. Anh nhanh chóng mặc quần áo. Bên ngoài, các Samurai bảo vệ trong nhà đã đứng chờ. Họ xoạc cẳng cúi chào anh.
“Chúng tôi là vệ sĩ của ông hôm nay thưa Anjin-san.”
“Cám ơn. Đến chỗ tàu chứ?”
“Vâng. Giấy thông hành của ông đây.”
“Tốt. Cám ơn. Tôi có thể biết tên ông được không?”
“Musashi Mitsutoki.”
“Cám ơn. Masashi-san. Đi thôi chứ?”
Họ đi xuống chỗ bên tàu. Con tàu Erasmus được neo chặt trên mặt biển, cách đáy cát khoảng 3 fanthom (đơn vị đo độ sâu ở biển, bằng 6 bộ – mỗi bộ hơn 30 cm) Sàn tàu trông thật thích mắt. Anh lặn xuống bên sườn tàu rồi bơi dưới đáy tàu. Rong biển rất thưa thớt và chỉ có vài con sò quanh đây thôi. Bánh lái thật là tốt. Trong khoang chứa đạn dược sạch sẽ và khô ráo, anh lấy đá lửa thử đánh vào một nhúm thuốc súng. Nó bốc cháy ngay và cháy hết hoàn toàn.
Cao vút trên ngọn cột buồm chính, anh quanh sát xem có vết nứt nào không. Tất cả các cột buồm khác và cột leo đều hoàn hảo, anh không nhìn thấy vết nứt nào. Một số dây thừng buộc vào thừng kéo, vải phủ nối với nhau không được đúng lắm, nhưng chỉ cần nửa tiếng là sửa lại được ngay thôi.
Một lần nữa bước lên boong tàu phía sau, anh tự thưởng cho mình một nụ cười.
“Thật là vững chắc như là một…một cái gì nhỉ?” Anh không nghĩ ra được là cái gì, nên anh cười lớn rồi lại bước xuống khoang tàu. Trong cabin của anh, anh cảm thấy ngỡ ngàng. Và rất cô đơn nữa. Thanh kiếm của anh được đặt trên giường. Anh nâng kiếm lên, rút lưỡi kiếm Oil Seller ra khỏi vỏ. Kỹ thuật rèn kiếm thật tinh xảo, lưỡi kiếm thật hoàn hảo. Nhìn thanh kiếm lòng anh hứng khởi, vì quả thật nó là một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng cũng là một nghệ thuật đưa đến cái chết, anh thường nghĩ như vậy khi huơ kiếm lên trong vầng ánh sáng.
Nhà ngươi đã gây nên cái chết cho bao người từ hai trăm năm nay rồi? Còn bao nhiêu người gục ngã nữa cho đến khi chính nhà ngươi gẫy gục? Phải chăng những thanh kiếm cũng có riêng đời sống của chúng như Mariko nói? Mariko. Nàng bây giờ ra sao rồi.
Thế rồi bất chợt anh nhìn thấy bóng cái tủ hộc trên tàu phản ánh trong nước thép của thanh kiếm làm cho anh quên đi nỗi buồn vừa chợt đến.
Anh cho thanh kiếm Oil Seller vào bao, thận trọng tránh không để ngón tay sờ vào lưỡi kiếm, vì tục lệ nói rằng chỉ cần chạm nhẹ tay vào đó thôi là làm hỏng đi cái vẻ hoàn hảo của nó.
Anh tựa lưng vào thành giường, mắt nhìn vào cái tủ rỗng.
“Tập nhật ký hàng hải ra sao rồi? Và cả những dụng cụ đi biển nữa?” Anh lên tiếng hỏi cái hình bóng của anh hiện lên trên mặt cái đèn bằng đồng mà người ta cũng đánh bóng kỹ càng như mọi thứ khác. Và anh nhìn thấy chính anh trả lời.
“Anh phải đem bán những cái đó ở Nagasaki khi cùng đi với thủy thủ của anh. Và phải bất giữ Rodrigues. Đúng. Anh phải bắt giữ hắn trước khi xảy ra trận đánh. Neh?”
Anh nhìn thấy bóng mình nở một nụ cười.
“Có thật chắc là Toranaga sẽ để yên cho anh đi không, trả lời đi?”
“Có chứ”, anh trả lời với vẻ hoàn toàn tin tưởng.
“Dù ông ta có đi đến Osaka hay không, ta cũng sẽ đạt được cái gì ta muốn. Và ta sẽ mang theo cả Mariko nữa.”
Vẻ hài lòng, anh buộc thanh kiếm vào dây lưng, bước lên boong tàu và chờ cho đến khi cánh cửa khép kín lại.
Khi trở về đến lâu đài, mặt trời còn chưa đứng bóng, vì vậy anh đi về phía khu nhà của anh để ăn trưa. Bữa ăn gồm có cơm, hai suất cá nướng cùng với đậu nành mà anh đã dạy đầu bếp riêng của anh nướng trên than. Một chai nhỏ rượu sake rồi đến trà.
“Anjin-san?”
“Hai?”
Cánh shoji mở ra. Fujiko cúi chào, miệng mỉm cười e thẹn.
(Kho tư liệu của Hội NVHP)