Ngừoi dịch: Ngô Vĩnh Viễn và Bùi Phụng
Uraga len lén vội vã đi theo con đường xuôi xuống bờ biển. Đêm tối đen, bầu trời sáng sao, không khí dễ chịu. Hắn mặc một chiếc áo thụng lòe xòe màu da cam của sư Phật giáo, đội chiếc mũ cố hữu của hắn và đi dép rơm rẻ tiền. Sau lưng hắn là các nhà kho và trụ sở cao, to lù lù, na ná kiểu Châu Âu của Hội truyền giáo dòng Temple. Hắn rẽ vào một góc đường vào rảo bước nhanh hơn. Người đi lại thưa thớt. Một đại đội Áo Xám cầm đuốc đi tuần trên bờ biển. Uraga đi chậm lại khi hắn lễ phép qua mặt họ nhưng vẫn giữ thái độ kiêu kỳ của một nhà sư. Đám Samurai hầu như không để ý gì đến hắn.
Hắn xăm xăm đi dọc bờ biển không hề nhầm lẫn, qua những chiếc thuyền đánh cá đã kéo lên bờ, gió nhẹ thổi nặng mùi của biển và của bờ biển. Lúc này nước triều đang rút. Rải rác trên vịnh và trên các ô cát là những người đánh cá đêm, trông như con đom đóm, đánh bắt cá bằng những ngọn mác, một tay cầm đuốc. Đằng xa, khoảng hai trăm bước về phía trước mặt là các bến, các kè, bám đầy hà. Neo ở một bến là một chiếc thuyền con của tu sĩ dòng Temple; trên thuyền phấp phới cờ của Portugal và của Hội thánh dòng Temple, nhiều đuốc và có những tên Áo Xám đứng ở gần cầu tàu. Uraga đổi hướng để lánh chiếc thuyền, quay về phía thành phố, đi qua mấy khối nhà rồi băng qua Phố Mười chín, ngoặt vào những đường đi chằng chịt rồi lại ra tới đường lớn dọc theo các bến tàu.
“Ai? Đứng lại!”
Tiếng hô phát ra từ trong bóng tối. Uraga hốt hoảng dừng lại. Những tên Áo Xám tiến ra chỗ sáng, vây quanh hắn.
“Sư ông đi đâu?”
“Tôi đến phía Đông thành phố”, Uraga ngập ngừng nói, mồm khô khốc.
“Đến chùa Nicheren của chúng tôi.”
“Sư ông là người của chùa Nicheren, neh?”
Một Samurai khác nói cộc cằn.
“Tôi không theo giáo phái này. Tôi là người Phật giáo Thiền như Đại nhân Tướng quân của chúng ta.”
“Thiền… à đúng, Thiền là tốt nhất”, một Samurai khác nói.
“Ước gì tôi hiểu được Thiền. Quá khó đối với cái đầu này.”
“Này, sư mô gì mà vã mồ hôi ra thế kia, có phải không? Sao nhà sư lại đổ mồ hôi thế?”
“Thế ông cho là sư không đổ mồ hôi?”
Và tên ấy bật cười nhưng một tên gí đuốc lại gần hơn.
“Sao lại phải đổ mồ hôi?” Tên cộc cằn nói.
“Sư mô chỉ có ngủ suốt ngày và làm tình nửa đêm với ni cô, vãi, trẻ con, chó, làm tình với nhau, với bất cứ cái gì chúng vớ được…còn thì lúc nào cũng tọng, mà làm thì chẳng làm gì cái gì hết. Sư mô toàn là bọn ăn bám, như bọ chét ấy.”
“Ê, đừng đụng đến ông ta, ông ta chỉ là…”
“Này nhà sư, bỏ mũ ra xem nào.”
Uraga cứng người:
“Tại sao? Và tại sao lại sỉ vả, chế nhạo một người tu hành, thờ Phật? Đức Phật không…”
Tên Samurai hùng hổ bước tới.
“Tao đã bảo là bỏ mũ ra!”
Uraga làm theo. Đầu hắn mới cạo trọc như sư và hắn thầm tạ ơn không biết kami hay ma quỷ hay ơn huệ nào của Phật đã xui giục hắn làm thêm cái việc đề phòng này cho chắc chắn, ngộ nhỡ hắn bị bắt vì tội vi phạm lệnh giới nghiêm. Tất cả các Samurai của Anjin-san đều đã được lệnh các nhà chức trách của cảng phải ở lại trên thuyền trong khi chờ đợi chỉ thị của cấp trên,
“Không có lý do gì để đối xử khiếm nhã như vậy”, quyền uy bất giác của một tu sĩ dòng Temple làm hắn nổi giận.
“Thờ Phật là một cuộc đời đáng trọng và đi tu làm sư là đáng trọng và phải là cái thân phận cuooic cùng của tất cả các Samurai khi về già…Hay là các ông không biết gì cả về Bushiđô. Lễ phép của các ông đâu cả rồi?”
“Sao? Sư ông là Samurai?”
“Tất nhiên tôi là Samurai. Nếu không làm sao tôi dám nói chuyện với các Samurai về sự khiếm nhã?” Uraga đội mũ lên đầu.
“Các ông nên đi tuần tra thì tốt hơn là chặn các nhà sư vô tội để chửi bới!” Hắn vênh mặt, kiêu ngạo bước đi, nhưng hai chân bủn rủn.
Bọn Samurai nhìn theo hắn một lát rồi một tên nhổ toẹt xuống đất.
“Sư mô!”
“Ông ta nói đúng đấy”, tên Samurai chỉ huy cáu kỉnh nói.
“Lễ phép của các ông để đâu cả rồi?”
“Xin lỗi, xin ngài lượng thứ cho.”
Uraga đi dọc con đường lớn, rất tự hào về bản thân mình. Đến gần galleon, hắn lại chú ý cảnh giác và dừng lại một lát ở chỗ khuất bên cạnh tòa nhà. Rồi, tự định thần lại, hắn bước ra khoảng trống rực sáng ánh đuốc.
“Chào các ông”, hắn lễ phép nói với bọn Áo Xám đang đứng uể oải bên cạnh cầu tàu rồi nói thêm lời chúc phúc của đạo Phật.
“Namu Amida Butsu.” Nam Mô A di đà Phật.
“Xin cảm ơn sư ông. Namu Amida Butsu.” Bọn Áo Xám để cho hắn đi qua không ngăn trở. Chúng được lệnh là tên man di và tất cả các Samurai của gã đều cấm không được lên bờ, trừ Yabu và đội vệ sĩ danh dự của lão. Không ai nói gì hết về ông sư đi theo trên thuyền.
Lúc này rất mệt mỏi, Uraga đi lên boong chính.
“Uraga-san”, từ sàn lái Blackthorne khẽ gọi.
“Lại đây!.”
Uraga nheo mắt để thích nghi với bóng tối. Hắn nhìn thấy Blackthorne và ngửi thấy hơi người oai oai, tanh tanh và hắn biết rằng cái bóng thứ hai ở đó phải là gã man di kia, có cái tên không thể đọc nổi và cũng biết nói tiếng Portugal. Hắn đã hầu như quên mất cái mùi đó là thế nào vì đã xa lâu ngày tuy nó đã từng là một phần cuộc sống của hắn trước đây. Anjin-san là gã man di duy nhất hắn gặp mà không nồng nặc mùi hôi, đó cũng là lý do tại sao hắn có thể phục vụ ông ta.
“A, Anjin-san”, hắn thì thào rồi tìm đường đi về phía Blackthorne, chào nhanh mười tên vệ sĩ rải rác quanh sàn lái.
Hắn đứng đợi ở chân cầu thang chờ Blackthorne ra hiệu cho hắn lên sàn lái.
“Công việc rất…”
“Khoan đã”, Blackthorne ngăn hắn lại thật khẽ rồi trỏ
“Hãy nhìn bên kia bờ. Ở đằng kia, gần nhà kho ấy. Trông thấy hắn không? Không, xa hơn một chút về phía Bắc…đấy, bây giờ thì ông trông thấy rồi chứ?” Một bóng người khẽ chuyển động rồi lại biến vào bóng tối.
“Ai thế?”
“Tôi đã chăm chú theo dõi ông từ lúc ông đi vào con đường lớn. Hắn đã bám sát ông. Ông không nhìn thấy hắn à?”
“Không, thưa Đại nhân” Uraga đáp, linh tính lại báo cho hắn một điềm chẳng lành.
“Tôi không trông thấy ai cả. Không cảm thấy có ai theo mình.”
“Hắn không đeo kiếm, cho nên hắn không phải là Samurai. Một tu sĩ dòng Temple chăng?”
“Tôi không rõ. Có lẽ không phải đâu… tôi đã hết sức cẩn thận. Xin lỗi Đại nhân vì tôi đã không nhìn thấy hắn.”
“Không sao.” Blackthorne liếc nhìn Vinck.
“Johann, anh xuống dưới đi. Tôi sẽ gác nết phiên gác này rồi sẽ đánh thức lúc rạng sáng. Cảm ơn anh đã đợi.”
Vinck giơ tay chạm vào mái tóc xòa xuống trán rồi đi xuống. Mùi hôi ẩm cũng biến theo cùng với gã.
“Tôi đã bắt đầu lo cho ông rồi đấy”, Blackthorne nói.
“Có chuyện gì xảy ra thế?”
“Thưa Anjin-san, người đưa tin của Yabu Sama chậm quá. Đây là báo cáo của tôi. Tôi đã đi với Yabu Sama và đứng đợi ở bên ngoài lâu đài từ giờ ngọ đến tận chập tối thì…”
“Suốt thời gian ấy ông làm gì? Ông hãy kể cho chính
xác.”
“Chính xác ạ, thưa Đại nhân! Tôi đã chọn một chỗ kín đáo gần chợ, trông thấy được Cầu thứ nhất rồi tập trung suy tưởng… một tập quán của đòng Tên, thưa Anjin-san, nhưng không phải là nghĩ về Chúa Trời đâu; mà chỉ mỉm cười. Nhiều người qua đường đã ném tiền vào cái bát khất thực của tôi. Tôi để cho thân xác nghỉ ngơi và đầu óc nghĩ vớ vẩn, tuy tôi vẫn chăm chú, lúc nào cũng nhìn Cầu thứ nhất. Người đưa tin cửa Yabu Sama mãi đến chập tối mới ra và giả vờ cầu kinh với tôi cho đến khi không còn ai nữa ngoài hai chúng tôi. Người đưa tin thì thầm thế này:
“Yabu Sama nói rằng Đại nhân sẽ ở lại lâu
đài đêm nay và sẽ trở về sáng mai. Tối mai ở lâu đài có một buổi lễ chính thức. Anjin-san cũng sẽ được Đại nhân Ishido mời dự. Cuối cùng Đại nhân cần phải suy xét
“Bảy mươi.” Uraga ngó nhìn anh.
“Gã Samurai đó nhắc lại hai lần, cho nên tôi đồ rằng đó là một mật hiệu riêng, thưa Đại nhân.”
Blackthorne gật đầu nhưng không nói gì về mật hiệu đó, một trong những mật hiệu đã thỏa thuận trước giữa anh và Yabu.
“Bảy mươi” có nghĩa là tất cả các Samurai, thủy thủ và tay chèo của anh bị cấm không được rời khỏi galleon, thuyền phải sẵn sàng. Và do mọi người đều biết rõ họ đang ở trong vùng biển địch với mọi sự rối ren, nên Blackthorne hiểu rằng không phải cố gắng gì cũng có thể đưa thuyền ra khơi ngay được.
“Nói tiếp đi, Uraga-san!”
“Có thế thôi ạ, trừ một điều tôi cần báo cáo là Toda Mariko-san đã tới đây hôm nay…”
“A! Thế bà ấy… Đi đường bộ từ Yedo tới đây như thế chẳng phải là nhanh lắm sao?”
“Vâng, nhanh đấy ạ , thưa Đại nhân. Thật ra, trong khi chờ đợi, tôi đã trông thấy đoàn của phu nhân đi qua cầu. Lúc đó là buổi chiều, vào khoảng giữa giờ mùi. Ngựa đẫm mồ hôi và đầy bùn, còn các phu khiêng thì rất mệt. Yoshinaka-san dẫn đầu bọn họ.”
“Có ai trông thấy ông không?”
“Không ạ. Tôi nghĩ là không ai trông thấy tôi.”
“Có bao nhiêu người?”
“Khoảng hai trăm Samurai, cùng với phu và ngựa thồ hành lý. Bọn Áo Xám đi bộ, trông họ đông gấp đôi con số đó. Một con ngựa thồ có chở những lồng chim đưa thư.”
“Tốt. Rồi sao?”
“Chờ dịp thuận tiện là tôi rời khỏi đó ngay…Gần trụ sở Hội truyền giáo có một cửa hàng mỳ, nhiều thương gia, buôn bán gạo, lụa và người của Hội truyền giáo thường vẫn ăn ở đó. Tôi… vào đấy, ngồi ăn và chú ý nghe ngóng. Đức cha Thanh tra lại về ở đây. Ở khu vực Osaka có thêm nhiều người cải đạo. Một buổi lễ Misa lớn đã được phép tổ chức hai mươi ngày nữa, để mừng Đại nhân Kiyama và Đại nhân Onoshi.”
“Quan trọng đến thế kia à?”
“Vâng, và thật đáng ngạc nhiên là một buổi lễ như vậy lại được phép tổ chức công khai. Để mừng ngày lễ Thánh Becna. Hai mươi ngày nữa là một ngày sau buổi lễ Thần phục được đức chí tôn…”
Yabu đã kể cho Blackthorne nghe, thông qua Uraga, về Thiên Hoàng. Tin tức đã lan truyền khắp thuyền làm tăng thêm linh cảm tai họa của mọi người.
“Còn gì nữa không?”
“Ngoài chợ có nhiều tin đồn. Phần lớn là những tin đồn dữ cả. Yedoko Sama, vợ góa của Taiko, ốm nặng. Thật là không hay, thưa Anjin-san, bởi ý kiến của bà vẫn thường được mọi người nghe và bao giờ cũng tỏ ra phải chăng. Có người nói rằng Đại nhân Toranaga đã đến gần Nagoya, người khác thì lại bảo chưa đến Odaoara, cho nên chẳng ai biết thế nào mà tin. Tất cả đều nhất trí cho rằng vụ mùa năm nay sẽ ghê gớm, ở Osaka đây, như thế có nghĩa là vùng Kuanto lại càng trở nên nghiêm trọng. Đa số cho rằng nội chiến sẽ nổ ra ngay khi nào Đại nhân Toranaga chết, khi đó các Daimyo lớn đánh lẫn nhau. Giá vàng cao và lãi suất lên đến bảy mươi phần trăm…”
“Làm gì cao đến thế, chắc ông nhầm đấy”, Blackthorne đứng dậy, vươn vai cho đỡ mỏi lưng rồi uể oải tựa vào mạn thuyền. Uraga và các Samurai cũng lễ phép đứng dậy cả. Chủ của họ đứng mà họ cứ ngồi là vô lễ.
“Xin Anjin-san thứ lỗi cho”, Uraga nói.
“Không bao giờ dưới năm mươi phần trăm, thường là từ sáu mươi lăm đến bảy mươi, thậm chí tám mươi. Cách đây gần hai mươi năm, Đức cha Thanh tra đã kiến nghị với Đức Giáo… với Giáo hoàng cho phép chúng tôi…cho phép Hội truyền giáo cho vay lãi suất mười phần trăm. Ông ta làm thế là đúng bởi vì gợi ý của ông ta nếu được thông qua…sẽ đem lại danh giá cho Đạo và nhiều người khác sẽ cải đạo bởi vì đương nhiên là chỉ có tín đồ Cơ đốc giáo mới được vay thôi, tuy những khoản vay đó luôn luôn chỉ là những món tiền nhỏ. Ở nước Đại nhân, không lấy lãi cao như thế ư?”
“Ít khi lắm. Như thế ra cho vay nặng lãi quá. Ông có hiểu
“Nặng lãi” không?”
“Hiểu ạ. Nhưng đối với chúng tôi dưới một trăm phần trăm không phải là lãi nặng. Tôi định nói để Đại nhân biết là bây giờ gạo cũng rất đắt và đó là một điềm xấu… giá gạo tăng gấp đôi so với khi tôi ở đây cách đây mấy tuần. Đất thì rẻ. Lúc này là dịp tốt nhất để mua đất ở đây. Hay mua nhà. Trong trận tai phun và hỏa hoạn vừa rồi có lẽ có tới một vạn gia đình bị tàn phá, hai ba nghìn người chết. Tất cả có thế thôi ạ.”
“Tốt lắm. Ông làm được việc, rất tốt. Đúng ra là ông đã chọn nhầm nghề.”
“Sao ạ, thưa Đại nhân?”
“Không, không có gì đâu.” Blackthorne nói, chưa biết mình có thể đùa cợt Uraga được tới đâu.
“Ông đã làm được việc rất tốt.”
“Cảm ơn Đại nhân.”
Blackthorne suy nghĩ một lát rồi hỏi Uraga về buổi lễ ngày mai và Uraga khuyên bảo anh hết lòng. Cuối cùng Uraga kể cho anh nghe hắn đã thoát được tay đội tuần tra như thế nào.
“Nếu cứ để tóc thì có bị lộ không?” Blackthorne hỏi.
“Ồ, lộ chứ ạ. Đủ để chúng đưa tôi về trụ sở của chúng.” Uraga lau mồ hôi trán.
“Xin lỗi Đại nhân; nóng quá, neh?”
“Phải nóng quá”, Blackthorne lễ phép đồng ý, rồi thầm sàng lọc các tin tức. Anh nhìn ra biển. bất giác xem trời xem nước và kiểm tra gió. Mọi sự đều tốt đẹp, ngăn nắp, các thuyền đánh cá thong dong trôi theo triều nước, khi gần khi xa, một người cầm mác ngồi ở mũi thuyền dưới một ngọn đèn lồng, thỉnh thoảng lại phóng mác xuống nước và hầu như lần nào cũng kéo lên được một con cá vền to hoặc một con cá đối hoặc một con lươn đỏ quấn mình quằn quại quanh lưỡi mác.
“Một việc cuối cùng, thưa Đại nhân. Tôi có đến trụ sở Hội truyền giáo…đi loanh quanh gần đó. Lính gác rất cẩn mật và tôi không thể nào lọt vào được trong đó… ấy là tôi nghĩ thế, trừ phi qua được một tên lính gác. Tôi quan sát một lát rồi trước khi rời khỏi nơi đó thì tôi trông thấy Chimoko, nữ tỳ của phu nhân Toda đi vào.”
“Có đúng không?”
“Đúng ạ. Có một nữ tỳ nữa đi cùng Chimoko. Tôi nghĩ…”
“Là phu nhân Mariko? Cải trang?”
“Không ạ. Tôi chắc là không phải… nữ tỳ này rất cao lớn.”
Blackthorne lại nhìn ra biển và lẩm bẩm, nửa như tự nói với mình.
“Như thế có nghĩa là thế nào?”
“Phu nhân Mariko là người Cơ đốc…. người Thiên Chúa giáo, neh? Phu nhân biết rõ Đức cha Thanh tra. Chính Đức cha đã cải đạo cho phu nhân. Phu nhân Mariko là một phu nhân rất quan trọng, nổi tiếng nhất trong toàn quốc, sau ba vị quí tộc cao nhất : phu nhân Ochiba, phu nhân Ghenjiko và Yodoko Sama, vợ của Taiko.”
“Mariko-san muốn xưng tội ư? Hay làm lễ Misa? Hay hội nghị? Bà ấy sai Chimoko đi thu xếp chăng?”
“Không phải đâu ạ, thưa Anjin-san. Tất cả các phu nhân của các Daimyo, cả bè bạn của Đại nhân Tướng quân lẫn những người có thể chống lại, đều bị giữ lại ở trong lâu đài, neh? Đã vào tới bên trong là ở luôn trong đó, như cá trong chậu vàng vậy, đợi lúc bị xiên.”
“Thôi đi! Đừng có nói chuyện gở.”
“Xin Đại nhân thứ lỗi. Dù vậy, thưa Anjin-san, tôi nghĩ rằng lúc này phu nhân Toda sẽ không ra nữa. Cho đến ngày thứ mười chín.”
“Tôi đã bảo thôi đi mà! Tôi hiểu chuyện con tin và ngày cuối cùng rồi.”
Trên boong thuyền yên tĩnh, giọng nói của họ đều khẽ. Đám lính gác đang nghỉ ngơi thoải mái, đợi hết phiên canh. Sóng vỗ bập bềnh mạn thuyền, thừng chão kẽo kẹt nhè nhẹ.
Được một lát, Uraga nói :
“Có lẽ Chimiko mang một bức thứ mời… một thư thỉnh cầu Đức cha Thanh tra tới gặp phu nhân. Chắc chắn là sau khi đã đi qua Cầu thứ nhất, phu nhân đã bị canh gác rồi. Chắc chắn là Toda Mariko nô Buntaro nô Jinsai đã bị canh gác ngay từ giây phút đầu tiên sau khi vượt qua bờ cõi của Đại nhân Toranaga. Neh?”
“Chúng ta có thể làm thế nào để biết được Đức cha Thanh tra có vào lâu đài không?”
“Được ạ. Dễ thôi.”
“Làm thế nào để biết được họ nói gì… hoặc làm gì?”
“Cái đó thì khó lắm. Rất tiếc, nhưng họ sẽ nói bằng tiếng Portugal hoặc Latin, neh? Mà ngoài Đại nhân và tôi ra, còn ai nói được hai thứ tiếng đó? Tôi thì sẽ bị cả hai người nhận ra ngay.” Uraga chỉ về phía lâu đài và về phía thành phố.
“Ở đó có nhiều tín đồ Cơ đốc giáo. Bất cứ người nào khử được Đại nhân hoặc tôi cũng sẽ giành được ơn huệ lớn, neh?”
Blackthorne không trả lời. Không cần thiết phải trả lời. Anh nhìn lên vọng lâu in hình trên nền trời sao và anh nhớ lại Uraga đã kể cho anh nghe về kho báu huyền thoại lớn vô cùng, chứa trong đó của cải do Taiko đã cướp được của vương quốc thu về.
Nhưng lúc này anh suy nghĩ về Toranaa : ông ta đang làm gì? nghĩ gì và dự tính gì? và Mariko đích xác đang ở đâu? tiếp tục đi Nagasaki có ích lợi gì.
“Vậy ông nói ngày thứ mười chín là ngày cuối cùng, ngày chết hả, Yabu-san?” Anh nhắc lại, hầu như muốn buồn nôn và biết rằng cái bẫy đã sập xuống Toranaga. Và do đó sập xuống cả anh và chiếc Erasmus nữa.
“Shigata ga nai! Chúng ta sẽ đi nhanh tới Nagasaki rồi quay lại. Nhanh, hiểu không? Chỉ bốn ngày để lấy người. Rồi trở lại.”
“Nhưng tại sao? Khi Toranaga đến đây thì tất cả sẽ chết, neh? Anh đã nói vậy. Nhưng Yabu đã lên bờ, bảo anh rằng ngày kia họ sẽ rời khỏi đây. Trong lòng xốn xang, anh đã nhìn theo lão, ước gì lão đã đưa Erasmus tới chứ không phải chiếc galleon. Giá mà anh có Erasmus thì anh biết mình sẽ có cách vượt qua Osaka đi thẳng đến Nagasaki hoặc có nhiều khả năng hơn là anh sẽ vọt đi biến khỏi chân trời, tìm một cảng kín đáo nào đó, bỏ thì giờ ra để huấn luyện các chư hầu của anh biết cách điều khiển chiếc thuyền.
Mày là thằng ngu, anh tự mắng mình. Có ít thủy thủ như thế này cũng không thể cập bến được nổi ở đây, chứ đừng nói gì đến chuyện tìm được cảng kín đáo đó mà đợi cho cơn giông quỉ quái kia qua. Mày đã chết rồi.
“Xin Đại nhân đừng lo phiền. Karma.” Uraga nói.
“Hừ, karma
“Bỗng Blackthorne nghe thấy có chuyện nguy cấp ở phía biển và người anh đã chuyển động ngay trước cả khi đầu anh ra lệnh và anh đang xoay người thì một mũi tên rít qua, cắm chệch anh trong đường tơ kẽ tóc rồi cấm phập vào vách ngăn, rung bần bật. Anh lao tới Uraga kéo hắn nằm xuống thì một mũi tên nữa cùng loạt tên đó đã rít lên cắm vào cổ họng Uraga xuyên qua cổ hắn, sau đó cả hai nằm co lại trên sàn tàu, an toàn. Uraga kêu ằng ặc, bọn Samurai la hét và nhòm ngó ra biển qua mạn thuyền. Đám Áo Xám của đội gác trên bờ ùa lên thuyền. Từ biển, từ đêm tối, một loạt tên nữa bay tới và mọi người vội tản ra tìm chỗ nấp. Blackthorne bò tới mạn thuyền và ghé mắt nhìn qua một lỗ thông nước và trông thấy một chiếc thuyền câu gần đó giập tắt đuốc rồi biến vào trong đêm tối. Tất cả các thuyền đều làm theo và chỉ một loáng sau, anh thấy những tay chèo vội vã cuống cuồng khuấy nước, bọt tung ra xa, ánh sáng lấp lánh trên những thanh kiếm và cây cung.
Tiếng kêu và Uraga lịm dần thành một cơn hấp hối khò khè, xé gan xé ruột trong lúc bọn Áo Xám ùa lên sàn lái, cung tên sẵn sàng. Cả chiếc thuyền lúc này ồn ào xáo động. Vinck lên tới boong rất nhanh, súng ngắn lăm lăm trong tay, vừa chạy vừa chúi đầu xuống.
(Kho tư liệu của Hội NVHP)