Vanhaiphong tiếp tục chọn để giới thiệu thêm một số tác gia nữa thời nhà Đường của Trung Hoa xưa...
LƯU TRÙNG KHANH
Lưu Trùng Khanh tự là Vân Phong, quê ở Hà Gian, tỉnh Hà Bắc. Đỗ tiến sĩ năm 733 thời Khai Nguyên đời vua Đường Huyền Tông. Đến đời Đường Đức Tông làm Giám sát Ngự sử sau đổi sang Tư bộ viên ngoại lang, Vì tính tình ngay thẳng, ông bị vu oan nên bị giam ở ngục Cô Tô rồi bị hạ làm chức Úy tại Nam Ba, Phân Châu. Sau được đổi làm Tư mã Mục Châu và cuối cùng làm Thứ sử Tuỳ Châu.
TỐNG LINH TRIỆT
Nguyên tác :
送 靈 澈
蒼 蒼 竹 林 寺
杳 杳 鐘 聲 聞
苛 笠 帯 斜 陽
青 山 独 归 远 |
Phiên âm :
Tống Linh Triệt
Thương thương Trúc Lâm tự,
Yểu yểu chung thanh văn.
Hạ lạp đới tà dương,
Thanh sơn độc quy viễn |
Dịch thơ
Tiễn Linh Triệt thiền sư
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
Chùa Trúc Lâm xanh xanh,
Nghe chuông chùa mông mênh.
Nón nghiêng dưới nắng tà,
Một mình về núi xanh. |
Tiễn thiền sư Linh Triệt
Ngọc Châu
Dịch 2013
Ngôi chùa Trúc Lâm xanh xanh
Chuông đang thả tiếng mông mênh gọi chiều
Nắng tà người chắn nón xiêu
Một mình về hướng núi chiều lam xanh |
LƯU VŨ TÍCH
(772 – 842)
Lưu Vũ Tích tự là Mông Đắc, quê huyện Bành Thành, tỉnh Giang Tô. Thời Trinh Nguyên đời Đường Đức Tông, ông đỗ tiến sĩ. Được cử làm Giám sát Ngự sử. Thời kỳ Vương Thúc Vân cầm quyền, ông được trọng dụng, lúc Vương Thúc Vân bị bãi chức ông bị hạ làm Tư mã Lang Châu. Ít lâu sau được triệu hồi về, nhưng vì làm thơ chỉ trích đại thần, nên bị Đường Hiến Tông hạ chức đưa đi Ba Châu, sau được đổi sang Liên Châu. Sau hơn 14 năm ở ngoài, được về triều làm Chủ khách lang trung, Tập hiền viện Học sĩ. Rồi lại làm thơ chỉ trích triều chính, nên lại bị hạ chức đưa đi làm Thứ sử Tô Châu, rồi Nhữ Châu. Sau về triều làm chức Thái tử tân khách. Đời Đường Vũ Tông được phong Thượng thư bộ Lễ. Ông là bạn thân của Bạch Cư Dị.
TÂY TÁI SƠN HOÀI CỔ
Nguyên tác:
西 塞 山 懷 古
王 濬 樓 船 下 益 州
金 陵 王 氣 黯 然 敨
千 尋 鐵 鎖 沉 江 底
一 片 降 旛 出 石 頭
人 世 幾 回 傷 往 事
山 形 依 舊 沈 寒 流
從 今 四 海 為 家 日
故 壘 蕭 蕭 蘆 荻 秋 |
Phiên âm :
Tây Tái Sơn[1] hoài cổ
Vương Tuấn[2] lâu thuyền há Ích Châu,
Kim Lăng vương khí ám nhiên thâu.
Thiên tầm thiết toả trầm giang để,
Nhất phiến hàng phan xuất Thạch Đầu.
Nhân thế kỷ hồi thương vãng sự,
Sơn hình y cựu trầm hàn lưu.
Tòng kim tứ hải vi gia nhật,
Cố luỹ tiêu tiêu lô địch thu.
|
Dịch thơ
Nhớ núi Tây Tái xưa
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
Vương Tuấn đưa thuyền tự Ích Châu,
Kim Lăng vương khí quyết tâm sâu.
Đáy sông xích sắt tan chìm hết,
Cờ trắng lộ bay khắp Thạch Đầu.
Cõi thế sự, ai thương chuyện cũ,
Núi như xưa, cũng lạnh sông sâu.
Từ nay bốn bể xem như một,
Thành cũ tiêu điều thu lách lau. |
Nhớ núi xưa Tây Tái Ngọc Châu
Dịch 2013
Ích Châu, Vương Tuấn đưa thuyền
Kim Lăng ngạo khí lan truyền tâm trung
Xích sắt đáy sông phá tung
Thạch Đầu cờ trắng khắp vùng gió bay
Chuyện cũ ai thương xót ngày
Sông xưa núi ấy giờ đây lạnh sầu
Bốn bể quy về một đầu.
Tiêu điều thành cũ lách lau thu tàn |
LÝ THƯƠNG ẨN
(813 – 858)
Lý Thương Ẩn tự là Nghiã Sơn, hiệu là Ngọc Khê sinh. Quê tỉnh Hà Nam. Năm 837 đỗ tiến sĩ. Sau được bổ làm Quan sát phán quan. Sau nhờ Liễu Trọng Hĩnh, trấn thủ miền Đông Thục, ông được dùng làm Tiết độ phán quan kiêm hiệu Công bộ viên ngoại lang. Ông mắc bệnh ở đất Oanh Dương rồi mất ở đó năm 858.
TRÙ BÚT DỊCH
Nguyên tác:
籌 筆 驛
魚 鳥 猶 疑 畏 簡 書
風 雲 常 為 護 儲 胥
徒 令 上 將 揮 神 筆
終 見 降 王 走 傳 車
管 樂 有 才 原 不 忝
關 張 無 命 复 何 如
他 年 錦 里 經 祠 廟
樑 父 吟 成 恨 自 餘 |
Phiên âm :
Trù Bút[3] dịch
Ngư điểu do nghi uý giản thư,
Phong vân thường vị hộ trừ tư.
Đồ linh thượng tướng[4] huy thần bút,
Chung kiến hàng vương[5] tẩu truyện xa.
Quản Nhạc[6] hữu tài nguyên bất thiểm,
Quan Trương[7] vô mệnh phục hà như.
Tha niên Cẩm Lý[8] kinh từ miếu,
Lương phủ[9] ngâm thành hận tự dư. |
Dịch thơ
Trạm Trù Bút
Phạm Đình Nhân
Dịch 2006
Cá chim e ngại sợ đơn thư,
Mây gió ngoài biên ải có dư?
Thượng tướng dù trong tay múa bút,
Hàng vương cũng phải ngậm ngùi tù.
Quan trương mệnh yếu đành không nổi,
Quản Nhạc tài cao, chẳng phục thù.
Cẩm Lý năm qua vào viếng miếu,
Phủ Lương ngâm hết hận còn thù. |
Viết ở trạm ngựa Trù Bút
Ngọc Châu
Dịch 2013
Cá, chim còn sợ đơn thư
Ngoài biên mây gió thừa dư chăng là?
Thượng tướng dẫu vung bút hoa
Hàng vương đầy ải nơi xa ngậm ngùi
Quan, Trương mệnh yểu đã rồi
Tài cao Quản Nhạc mấy hồi thịnh hưng
Qua Cẩm Lý vào miếu thăm
Phú Lương ngâm hết còn găm hận thù… |
THÔI HIỆU
( ? – 754)
Thôi Hiệu, nhà thơ đời Đường, người Biện Châu nay là huyện Khai Phong tỉnh Hà Nam. Đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 13, đời Đường Huyền Tông (năm 725). Làm quan đến chức Tư huấn Viên ngoại lang.
HOÀNG HẠC LÂU
Nguyên tác :
黄 鶴 楼
昔 人 已 乘 黄 鶴 去
此 地 空 餘 黄 鶴 楼
黄 鶴 一 去 不 復 返
白 雲 千 载 空 悠 悠
睛 川 厯 厯 漢 陽 樹
芳 草 萋 萋 鵡 洲 鸚
日 暮 關 鄉 何 處 是
烟 波 江 上 使 人 愁
|
Phiên âm :
Hoàng Hạc lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
|
Dịch thơ
Lầu Hoàng Hạc (1 Phạm Đình Nhân
Dịch 2007
1. Ai cưỡi hạc bay lâu quá rồi
Để lầu Hoàng Hạc mãi đơn côi
Hạc vàng bay mãi không quay lại
Mây trắng lượn hoài mãi chẳng thôi
Anh Vũ bờ non xanh cỏ biếc
Hán Dương sông lặng bóng cây ngồi
Hoàng hôn gợi nhớ quê đâu nhỉ?
Sương khói trên sông buồn chẳng nguôi Phạm Đình Nhân
Dịch 2005
2. Hạc vàng ai cưỡi đi rồi,
Còn đây Hoàng Hạc lẻ loi một lầu.
Hạc vàng bay mất từ lâu,
Nghìn năm mây trắng trên đầu còn bay.
Hán Dương cổ thụ còn đây,
Vũ Châu(2) thơm ngát tràn đầy cỏ non.
Chiều hôm quê cũ đâu còn,
Trên sông khói sóng nỉ non giấc sầu. |
Hoàng Hạc Lầu
Ngọc Châu
Dịch 2013
Ai cưỡi hạc bay đi mất rồi
Chỉ còn Hoàng Hạc lầu đơn côi
Rời xa, mãi mãi chim vàng vắng
Quanh quẩn, muôn đời mây trắng trôi
Anh Vũ bờ xanh màu cỏ mọc
Hán Dương sông mát bóng cây ngồi
Hoàng hôn gợi nhớ quê đâu tá
Khói quyện sóng buồn chẳng thể nguôi.
|
TRƯƠNG TỊCH
(765 – 830
Trương Tịch tự là Văn Xương. Quê ở Ô Giang, Hoà Châu tỉnh An Huy. Ông thi đỗ tiến sĩ năm 799 đời Đường Đức Tông. Đang làm Bí thư lang, được Hàn Dũ tiến cử làm Quốc tử bác sĩ. Rồi lên chức Thuỷ bộ Viên ngoại lang. Cuối cùng làm Quốc tử tư nghiệp.
TIẾT PHỤ NGÂM
Nguyên tác : 節 婦 吟
君 知 妾 有 夫
贈 妾 雙 明 珠
感 君 缠 绵 意
系 在 红 羅 孺
妾 家 高 樓 連 苑 起
良 人 執 戟 明 光 裏
知 君 用 心 如 日 月
师 夫 誓 擬 同 生 死
完 君 明 珠 雙 淚 垂
恨 不 相 逢 未 嫁
|
Phiên âm:
Tiết phụ ngâm Quân tri thiếp hữu phu, Tặng thiếp song minh châu. Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý.
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt.
Sư phụ thệ nghĩ đồng sinh tử.
Hoàn quân minh châu song lệ thuỳ, Hận bất tương phùng vị giả thi.
|
Dịch thơ
Khúc ngâm tiết phụ Phạm Đình Nhân
Dịch 2007
Biết em đã có chồng,
Tặng em đôi ngọc châu.
Cảm ơn chàng ngỏ ý,
Bên mình em giữ lâu
Lầu gác nhà em gần ngự uyển,
Chồng em đứng gác cửa Minh Quang.
Biết chàng tâm sáng như vầng nguyệt,
Tình nghĩa vợ chồng cốt thuỷ chung.
Gửi lại hạt châu đôi dòng lệ,
Tiếc không cùng gặp lúc còn xuân.
|
Tiết phụ ngâm
Ngọc Châu
Dịch 2012
Biết rằng em có chồng
Vẫn tặng đôi châu ngọc
Giấu tình chàng trong bọc
Cài vào áo lót hồng Lầu nhà, Ngự Uyển gần không Chồng vác kích canh cửa hồng Minh Quang Biết lòng chàng sáng như gương
Nghĩa phu thê em phải mang trọn đời
Ngọc châu trả lại chàng thôi
Tiếc thay người chẳng gặp người trước kia.
|
[1] Tây Tái sơn : ngọn núi thuộc huyện Đại Trí, tỉnh Hồ Bắc.
[2] Vương Tuấn : Thứ sử Ich Châu (thuộc Tứ Xuyên ngày nay) được vua Tấn Vũ Đế sai đi đánh nước Ngô. Quân Ngô giăng khoá xích sắt dưới đáy sông để ngăn thuyền địch. Vương Tuấn thiêu huỷ hết chướng ngại vật, rồi tiến quân thẳng tới thành Thạch Đầu (ở dưới núi Thạch Đàu, phía tây huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô).
[3] Trù Bút dịch : Trạm ngựa Trù Bút ở phía bắc huyện Quảng Nguyên, tỉnh Tứ Xuyên, nơi Khổng Minh thời Tam Quốc có đóng quân tại đây, trù tính kế hoạch.
[4] Thượng tướng : Chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng.
[5] Hàng vương : Chỉ vua Thục Lưu Thiện đầu hàng nước Nguỵ.
[6] Quản Nhạc : Chỉ Quản Trọng, chính trị gia nổi tiếng thời Xuân Thu và Nhạc Nghị, danh tướng thời Chiến Quốc.
[7] Quan Trương : Chỉ Quan Vũ và Trương Phi, hai danh tướng của Lưu Bị.
[8] Cẩm Lý : tên địa phương ở phía nam Thành đô, tỉnh Tứ Xuyên.
[9] Lương phủ ngâm : tên tác phẩm của Khổng Minh
(1) Lầu Hoàng Hạc nằm trên ghềnh đá Hoàng Hộc, huyện Vũ Xương, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc
(2) Vũ Châu tức Anh Vũ châu, vùng bãi vẹt trong sông Trường Giang, tây nam huyện Vũ Xương